Ngôn ngữ là cái vốn sẵn có ở mỗi người nhưng làm sao sử dụng ngôn ngữ đó đạt hiệu quả cao nhất thì phải “gia công” rất nhiều, thành một lối chơi nghệ thuật gọi là chơi chữ.
Trong dân gian, lối nói chữ “dân dã” dễ hiểu hơn và cũng có nhiều lối chơi bất ngờ, đầy thú vị. Đây là một cách chơi chữ đồng âm:
Bà già ra chợ Cầu Đông
Xem một quẻ bói lấy chồng lợi ( chăng?
Thấy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi (2) thì có lợi (3) nhưng răng chẳng còn
|
Trẻ chăn trâu |
Chỉ khi nhận ra ý nghĩa của các chữ (từ) đồng âm nhưng khác nghĩa, người nghe mới bật cười, vui tếu, nên không nỡ giận. Chữ lợi ( và lợi (2) giống nhau vì đều chỉ cái lợi ích, cái thu được, còn lợi (3) chỉ phần thịt bao quanh răng. Người già răng rụng sạch chỉ còn trơ lợi, móm mém đến vậy mà còn đòi lấy chồng!
Với lối chơi chữ dân gian xưa kiểu này, ta cũng gặp những từ đồng âm tương tự:
Cóc chết bỏ nhái mồ côi,
Chẫu ngồi chẫu khóc: chàng ơi là chàng!
Ễnh ương đánh lệnh đã vang,
Tiền đâu mà trả cho làng, ngoé ơi!
Chữ “chàng ơi!” là tiếng khóc của cô Chẫu đối với chàng Cóc, thế nhưng ở đây chỉ nói tới con chẫu chàng trong bộ 5 con vật: cóc, nhái, chẫu chàng, ễnh ương, ngoé.
Chị Xuân đi chợ mùa hè
Mua cá thu về, chợ hãy còn đông.
Một câu thơ đủ cả 4 mùa, nhưng mùa xuân lại là tên cô gái: Xuân. Cá thu và chợ còn đông là những đồng âm khác nghĩa của từ mùa thu và mùa đông, người sáng tác đã khéo vận dụng tài tình.
Câu thơ sau cũng có có hiện tượng đồng âm rất đắt:
Anh Hươu đi chợ Đồng Nai
Bước qua bến Nghé, ngồi nhai thịt bò
Đủ tên 4 con vật lớn: hươu, nai, nghé, bò. Hai địa danh được lấp ra phần sau (thành tố sau của một từ gồm hai thành tố) đồng âm với tên hai con vật nai và nghé. Kiểu đồng âm vẫn được vận dụng trong ca dao mới với cách thức trang trọng như:
Sầu riêng ai khéo đặt tên,
Ai sầu không biết, riêng em không sầu!
Thời Pháp thuộc để mỉa mai thói học đòi, các nhà Nho đã có nhiều cách dùng từ ngữ “nửa ta, nửa Tây” như bài thơ nói về “bồi Tây, me Tây”:
|
Ông đồ |
Lạnh lùng một mảnh sơ – mi (chemise)
Li – ve (L’hiver: mùa đông) trằn trọc lơ – li (le lit :cái giường) một mình
Loăng – tanh (Lointain: xa xôi) ai có thấu tình
E – me (Aimer: yêu thương) đến nỗi thân hình biềng pan! (Bien pâle: rất xanh xao)
Nói lái hiện đại cũng là một kiểu chơi chữ tiếp nối lối chơi chữ xưa kia. Thí dụ:
-Hiện đại chỉ tổ hại điện
-Đấu tranh rồi biết tránh đâu
-Đầu tiên là tiền đâu…
Vua Tự Đức với lối làm thơ xuôi ngược thêm bớt cũng là
một cách hay trong văn hóa Việt TRÔNG CHỒNG
Vua Tư.ĐDức
Gương tà nguyệt xế đã ngoài song.
Heó hắt trông ai quá rất trông.
Thương bấy thiết tha lòng héo liễụ
Nhớ thay vàng võ, má phai hồng.
Vương sầu xiết kể chi nguôi bắc.
Ý tủi thêm buồn vả chạnh đông.
Chàng hỡi biết chăng ai bội bực.
Loan hàng viết thảo tả tình chung.
Đọc ngược từ dưới lên trên
Chung tình tả thảo viết hàng loan.
Bực bo6.i chăng ai biết hỡi chàng.
Đông chạnh vả buồn thêm tủi ý
Bắc nguôi chi kể xiết sầu vương.
Hồng phai má võ vàng thay nhớ.
Liễu héo lòng tha thiết bấy thương.
Trông rất quá ai trông héo hắt.
Song ngoài đã xế nguyệt tà gương.
Bớ hai chữ cuối đọc từ tr^n xuống.
Gương tà nguyệt xế đã.
Héo hắt trông ai quá.
Thương bấy thiết tha lòng.
Nhớ thay vàng võ má.
Vương sầu xiết kể chị
Ý tủi thêm buồn vả.
Chàng hỡi biết chăng aị
Loan hàng viết thảo tả.
Bỏ hai chữ đầu đọc từ trên xuống
Nguyệt xế đã ngoài song.
Trông ai quá rất trông.
Thiết tha lòng héo liễụ
Vàng võ, má phai hồng.
Xiết kể chi nguôi bắc.
Thêm buồn vả chạnh lòng.
Biết chăng ai bội bực.
Viết thảo tả tình chung.
BỎ BỚT HAI CHỮ ĐẦU, ĐỌC TỪ DƯỚI LÊN
Tả thảo viết hàng loan.
Chăng ai biết hỡi chàng.
Vả buồn thêm tủi ý.
Chi kể xiết sầu vương.
Má võ vàng thay nhớ.
Lòng tha thiết bấy thương.
Quá ai trông héo hắt.
Đã xế nguyệt tà gương.
BỎ HAI CHỮ CUỐI, ĐỌC TỪ DƯỚI LÊN
Chung tình tả thảo viết.
Bực bội chẳng ai biết.
Đông chạnh vả buồn thêm.
Bắc nguôi chi kể xiết.
Hồng phai má võ vàng.
Liễu héo lòng tha thiết.
Trông quá rất ai trông.
Song ngoài đã xế nguyệt.
(Trích “Đố tục giảng thanh và giai thoại chữ nghĩa”) |