| |
-
|
-
-
NGỌT NGÀO LỜI QUÊ XỨ NẪU
-
Nẫu d́a xứ nẫu bỏ ḿnh bơ dơ
-
CA DAO PHÚ YÊN
-
hông biết từ bao giờ người Phú Yên – cũng như người B́nh Định −
được gọi là “dân xứ nẫu”. “Nẫu” là một đại từ xưng hô thông
dụng của người Phú Yên không chỉ có mặt trong lời ăn tiếng
nói hằng ngày mà còn đi vào những câu ca dao mộc mạc, hồn
nhiên trên cả một vùng đất yên bình Nam Trung Bộ (Bình Định,
Phú Yên). Cách gọi “dân xứ nẫu” này có thể đối với ai đó
là một cách gọi xách mé, có ý chê bai, nhưng đối với
chúng tôi, đó là một cách gọi chính xác, không thể chối
cãi, và nhất là không có gì đáng để tự ti mặc cảm, nếu
như chúng ta đứng từ góc độ ngôn ngữ và biết được phần
nào cội nguồn của nó.
-
-
Từ một tiếng “nẫu”…
-
-
Vấn đề ở đây là v́ sao có từ “nẫu”. Đã hơn một lần,
các nhà nghiên cứu về con người và tiếng nói Phú Yên đã
xác nhận sự có mặt của từ “nẫu” ở Phú Yên qua nhiều
chứng cứ lịch sử hết sức thuyết phục. “Nẫu” tức “nậu ấy”
bắt nguồn từ tên gọi của một đơn vị hành chính mà triều
Nguyễn tổ chức trên những vùng đất mới từ Phú Yên trở vào:
“nậu”. Ngoài ra, từ “nậu” chỉ những người làm cỏ ruộng, sau
đó phát triển thành tên gọi chỉ những người cùng ở một
vùng miền nào đó hay sinh sống bằng một nghề nhất định,
chẳng hạn “nậu nguồn” (những người sống ở miền núi),
“nậu nại” (những người cùng làm nghề muối), “nậu rớ”
(những người bắt cá bằng nơm), nậu rổi (những
người buôn bán cá)(1)… Cuối cùng, “nậu” trở
thành một từ chỉ chung cho một loại người, một hạng người
nào đó trong cộng đồng:
-
Chiều chiều mây phủ Đá Bia
-
Đá Bia mây phủ chị kia mất chồng
-
Mất chồng như nậu mất trâu
-
Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm
-
“Nậu mất trâu” là hình ảnh so sánh vẽ lên trước mắt ta một
con người đang hốt hoảng, tuyệt vọng vì bị mất chính cái
“đầu cơ nghiệp” của mình. Trong cuộc sống của người bình
dân, còn gì bi đát và đáng thương hơn khi đánh mất cái gia
sản quý giá nhất ấy! Như thế, “nậu” c̣n là một danh từ chỉ
cho một nhóm người có chung một đặc điểm, một tính cách,
một cảnh ngộ nào đó. Tiếp đến, nó được đại từ hoá thành
từ nhân xưng chỉ ngôi ba với ý nghĩa “bọn, tụi, lũ”. Phải
chăng để tránh cách hô gọi suồng sã, khinh thị gợi ra do
những từ như “bọn, tụi, lũ” mà người Phú Yên thích dùng
“nậu” và “nẫu” hơn?
-
Gần đây, khi có dịp đọc cuốn “Tự vị tiếng nói miền Nam
của cụ Vương Hồng Sển, chúng tôi được biết thêm trong tiếng
Nam Bộ cũng có từ “nậu” mà theo tác giả, có nghĩa là
“lão ấy, người ấy”. Trước hết, tác giả nói “nậu này là
tiếng xưa, nay ít dùng nhưng cần cắt nghĩa cho người sinh sau
cùng biết”. Tác giả “nói có sách mách có chứng” rằng: “Trong
bản dịch của Nguyễn Hữu Sanh dịch truyện Tiết Nhơn Quý
chinh đông, nhà in F.H. Schneider, Sài Gòn, in năm 1914, lần 3,
nơi cuốn 3, trương 129, lúc Uất Trì tra xét binh sĩ cố tìm
cho ra hiền thần Tiết Nhơn Quý, vì cuộc tra xét kỹ lưỡng
quá, để đánh lạc hướng sự chăm chỉ của nguyên soái mê rượu
là Uất Trì, nên Trương Sĩ Quý bày trò để rượu ngon trên gió
cho hơi rượu bay vào mũi Uất Trì, có câu: …Uất Trì lúc đó
xem ngó cùng bốn phía coi ra như tuồng nậu (chúng tôi
nhấn mạnh – LTP) mất vật gì, nên mặt mày buồn xo, không còn
muốn coi ta xét nữa…”(2). Rõ ràng, “nậu”
đâu chỉ là “đặc sản” của người Phú Yên, nó thuộc từ ngữ
chung của người dân Việt từ Bình Định, Phú Yên trở vào Nam
Bộ. Có điều, có thể trước cuộc sống phát triển như vũ
bão của Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX, từ “nậu” đã bị
đẩy lùi vào vốn từ cổ và dần dần vắng mặt trong tiếng
nói của người dân xứ này. Trong khi đó, ở Phú Yên và Nam
Bình Định, nó vẫn còn giữ nguyên tư cách là một danh từ
hay một đại từ nhân xưng ngôi ba như chúng tôi đã trình bày
trên kia. Nói như vậy, chúng tôi muốn khẳng định người Phú
Yên không nên lấy làm xấu hổ hoặc “tự ti” khi bị người khác
chê mình là “dân xứ nẫu” mà hãy nghĩ rằng Phú Yên đang bảo
lưu một thứ từ cổ của tiếng Việt đáng được trân trọng và
giữ gìn. Tuy rằng trong giao tiếp chính thức, từ “nậu” không
còn phù hợp nữa, nhưng có thể xem đó là một trong những
dấu hiệu nhận biết về mặt tình cảm của những người con
đất Phú xa quê.
-
Nhưng từ “nậu” đến “nẫu” là cả một câu chuyện. Lâu nay,
người ta vẫn cứ hiểu “nẫu = nậu + ấy”, cũng giống như:
“ổng” = “ông + ấy”, “chĩ” = “chị + ấy”, “trỏng” = “trong + ấy”,
“bển” = “bên + ấy” …, và mặc nhiên công nhận đó là hiện
tượng do nói nhanh (được Lê Ngọc Trụ trong “Chính tả Việt
ngữ” gọi là hiện tượng “tiếng ríu”) mà thành. GS Nguyễn
Quang Hồng trong bài báo “Ríu tiếng và tiếng ríu trong
tiếng Việt” xếp hiện tượng nói trên vào dạng thức ríu lẫn
đặc biệt – một dạng ríu tiếng mà “tiếng đi sau (B) hoàn
toàn lẫn vào tiếng đi trước (A) và chỉ để lại dấu vết
của mình trong tiếng ríu (C) bằng một thanh điệu mới khác
hai tiếng có trước”(3). Có thể khái quát quy luật
này thành công thức:
-
-
C = A + B (ấy).
-
-
Kiến giải của bài báo thoạt nghe thì rất có lý, rất khoa
học, đến nỗi dễ dàng được chấp nhận như một giải pháp
cuối cùng về một hiện tượng ngôn ngữ quá quen thuộc.
-
Thế nhưng, Trịnh Sâm trong bài báo “Về từ “nậu” và “nẫu” ở
Nam Trung Bộ”(4) đă đưa một ư kiến hết sức thuyết phục
khi tác giả đặt ngược vấn đề: “nẫu” không phải là kết quả
của “nậu + ấy”. Căn cứ của ý kiến này là trong tiếng địa
phương Nam Trung Bộ không có từ “ấy” với tư cách là một từ
chỉ trỏ. Tư cách này thuộc các từ như: “đó, kia, này,
nọ…”, chứ không phải của “ấy”. Sự gán ép yếu tố “ấy” vào
các tiếng “nậu, ông, chị, ngoài, trong…” để giải thích cho các
hiện tượng “nẫu”, “ổng”, “chĩ”, “ngoăi”, “trỏng”… quả là không có
cơ sở thực tế, kể cả căn cứ về mặt ngữ âm và lịch sử.
-
Theo thiển ư của chúng tôi, hiện tượng “nậu” > “nẫu” có thể
đồng dạng với các hiện tượng sau đây trong tiếng nói của
người Phú Yên:
-
– “đừng” > “đững”.
-
– “coi” > “cỏi”.
-
– “không” > “hông” > “hổng”.
-
– “vậy” > “dậy” > “dẫy”
-
Nếu cứ lấy cái công thức C = A + B (ấy) để lý giải
những trường hợp mà chúng tôi đưa ra trên đây thì e rằng sự
giải thích ấy sẽ gượng ép và khó có thể chấp nhận được.
Nghĩa là tính đều đặn của dạng thức C = A + B (ấy) không
thể xảy ra đối với “đững, cỏi, hổng, dẫy”. Thật ra, không nên
xếp chúng vào loại tiếng ríu như “hăm = hai mươi, nghỉ một
tí = nghỉm tí, tóc mai = tóc (ở) mang tai, …” mà nên xem nó
như một hiện tượng biến âm đặc biệt nhằm mục đích tạo
từ hết sức độc đáo của người Việt nói chung và người
miền Nam nói riêng. Nói một cách chính xác, hiện tượng đang
bàn là kết quả của việc cấu tạo từ dựa trên sự biến đổi
thanh điệu với tư cách là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có chức
năng khu biệt nghĩa. Hiện tượng này có thể tìm thấy trong:
“con > cỏn, lui > lùi> lũi, tan > tán > tản…”. Nghĩa là nó tuân
theo quy luật thanh điệu của tiếng Việt cổ: ngang, hỏi, sắc/huyền,
ngă, nặng (so sánh với hiện nay: ngang, ngă, sắc/huyền, hỏi, nặng).
Quy luật này c̣n được dùng để giúp ta phân biệt thanh hỏi ngă của từ
láy tiếng Việt. Có điều, ở đây, sự phân bố của quy luật này chỉ
diễn ra đối với một số từ nhất định mang ư nghĩa chỉ vị trí,
chỉ thời gian, từ nhân xưng,…
-
Quá trình cấu tạo từ này diễn ra đồng loạt đối với tất
cả những tiếng mang các thanh điệu, trừ thanh sắc và hỏi
(vì đây là thanh điệu sau cùng, kết quả của việc biến đổi
ngữ âm). Chúng ta có:
-
– Từ chỉ vị trí: trong > trỏng, ngoài > ngoăi,
sau > sảu, trên > trển, bên bển…(không có “trước”, “dưới”
vì những từ này có thanh sắc).
-
– Từ chỉ thời gian: hôm > hổm, năm > nẳm…
(không có “tháng” vì mang thanh sắc; ngoại lệ: không có
“ngày” dù mang thanh huyền).
-
– Từ nhân xưng: ông > ổng, bà > bă, cậu > cẫu, mợ
> mỡ… (không có “chú, thím” vì mang thanh sắc).
-
– Các từ: đừng > đững, hông > hổng, coi > cỏi,
vậy > dẫy cũng đều theo quy luật trên.
-
Quy luật biến đổi thanh điệu tạo từ này đã sản
sinh ra một số từ mang ý nghĩa đặc biệt trong tiếng Phú
Yên. Ngoài nghĩa vốn có của yếu tố gốc khi chưa
bị biến đổi, những từ này còn có sự phân công ngữ nghĩa
như sau:
-
a. Ý nghĩa trực chỉ xa (distal terms)(5):
bao gồm các từ chỉ vị trí, chỉ thời gian và các đại từ
nhân xưng. Như vậy, khi nói “ở trển”, người Phú Yên hiểu là
“ở trên ấy” hoặc “ở trên kia”, tức chỉ địa điểm có khoảng
cách xa với người nói.
-
b. Ý nghĩa nhấn mạnh hoặc tăng cường mức độ: bao
gồm các từ “đững, cỏi, dẫy, hổng”. Người Phú Yên nói: “Đững
có làm chuyện bậy bạ” tức là muốn nhấn mạnh ý “Đừng
có làm chuyện bậy bạ”. Hoặc: “Cỏi, sao dẫy?” nghĩa
là “Coi kìa, sao lại như vậy?”.
-
Việc biến đổi thanh điệu tạo từ trong các trường
hợp nói trên cũng là một cách tiết kiệm theo quy luật tự
nhiên của hoạt động ngôn ngữ của con người. Tuy nhiên, trong
thực tế giao tiếp hằng ngày, sử dụng thường xuyên những từ
“rặc” địa phương đó có thể dễ gây ấn tượng nhầm lẫn là
tiếng nói của người Phú Yên nặng nề và nhiều khi khó gây
thiện cảm đối với người nghe ở địa phương khác. Bằng chứng
là có người đã lên tiếng cho rằng từ “nẫu” trong một số
bài ca dao, khi lâm thời làm đại từ ngôi hai thì mang sắc
thái chủ quan và trong chừng mực nào đó, “nẫu” mang nghĩa
xấu (majorité), “chỉ thói bội bạc thường tình”(6).
Nhận xét ấy chỉ đúng có một nửa nếu cho rằng có khi “nẫu”
lâm thời được dùng làm đại từ ngôi hai, trong:
-
Thương chi cho uổng tấm tình
-
Nẫu về xứ nẫu bỏ mình bơ vơ
-
Nhưng nếu cho rằng, cũng trong trường hợp này, “nẫu”
hàm ý xấu, “chỉ thói bội bạc đáng chê trách”, thì quả đó
là một nhận định quá nghiêm khắc, khó có thể chia sẻ ý
kiến với tác giả được. Tâm tình của người Phú Yên gửi vào
trong ca dao là một thứ tình cảm mộc mạc, chân chất, hồn
nhiên. Có thể nó còn thiếu cái gì đó ngọt ngào, êm dịu
như trong ca dao Nam Bộ hoặc cái mượt mà, sắc sảo như trong
ca dao Bắc Bộ. Nhưng có điều chắc chắn, người Phú Yên không
có ý trách móc ai là người phụ bạc qua cái từ “nẫu” rất
đỗi thân thương đó. Có trách thì nói thẳng:
-
Trách ai ăn ở hai lòng
-
Đang chơi với phụng thấy rồng bay
theo.
-
hoặc:
-
Trách ai trồng đám dưa hồng
-
Anh ăn mát dạ mát lòng quên em.
-
Trách nhau rất nhiều, tưởng như không thể trách nhau nhiều
hơn nữa. Nhưng bao giờ cũng vậy, tấm lòng của người Phú Yên
vẫn nhân hậu, sẵn sàng nhận về mình phần thua thiệt, và
nhất là vẫn một mực thuần khiết, chân chất như chính ngôn
từ mà họ đang nói. Đó chính là điều đáng quý đáng yêu
trong tâm tình và ở chừng hạn nào đó, trong cả tiếng nói
của người Phú Yên.
-
-
… đến “Ngọt ngào lời quê xứ nẫu” – công tŕnh sưu tầm ca dao dân ca
phản ánh tiếng nói của người Phú Yên
-
-
Nhưng tiếng Phú Yên đâu phải chỉ có từ “nẫu” mới là đặc
biệt, mà thật ra có rất nhiều từ ngữ khác nữa mang đậm phong cách
của một tiếng nói đặc thù trong hệ thống ngôn ngữ Việt Nam. V́ thế,
công tŕnh “Ngọt ngào lời quê xứ nẫu” tuy là một công tŕnh sưu tầm
dân ca ca dao dựa trên những tư liệu thu thập được từ những nghệ
nhân hiện đang sinh sống tại Phú Yên, nhưng mục đích đặt ra của công
tŕnh là chọn ra chỉ những bài hát nào có chứa các từ địa phương Phú
Yên với mục đích giới thiệu cho cả nước hiểu biết thêm về tiếng Phú
Yên, một phương ngữ mộc mạc và phần nào mang tính chất cổ xưa của
tiếng Việt.
-
Việc phân định từ địa phương nói chung dựa vào ba nhóm chính và các
tiểu loại sau:
-
a. Nhóm 1: Từ địa phương là từ gọi tên các sản vật, các
hiện tượng ở tại địa phương mà ở địa phương khác không có,
hoặc nếu có thì không trùng tên gọi hay có cùng ý nghĩa
với nó. Đây là từ địa phương dân tộc học, không có sự đối
lập với từ toàn dân. Nếu gọi từ địa phương là d và từ
toàn dân tương đương là D, đường tròn là nội dung ngữ nghĩa
của d và D thì ở trường hợp này, hai vòng tròn ngữ nghĩa
sẽ nằm ngoài nhau, như hình vẽ dưới đây:
-
-
Về lý thuyết, các từ địa phương loại này có khả năng trở
thành từ toàn dân nếu hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá
giữa các địa phương diễn ra một cách mạnh mẽ. Lúc này,
các ô trống trong từ vựng toàn dân sẽ được lấp đầy vì
không có sự tranh chấp về ngữ nghĩa trong hệ thống.
-
b. Nhóm 2: Từ địa phương phân biệt, đối lập với từ toàn dân
nói chung theo hai tiêu chí: ngữ âm và ngữ nghĩa. Trên cơ sở
hai tiêu chí cơ bản này, có thể phân loại từ địa phương
thành mấy loại chính sau:
-
– Loại 1: ý nghĩa giống, vỏ ngữ âm khác: Trong
loại này, dựa vào mức độ khác biệt về mặt ngữ âm, có
thể chia ra hai tiểu loại:
-
+ T1.1: vỏ ngữ âm khác hoàn toàn, ví dụ:
mận/roi, bông điệp/hoa phượng, khạp/vại, khúm/khóm…
-
+ T1.2: vỏ ngữ âm khác bộ phận, ví dụ:
chưn/chân, nhựt/nhật, tui/tôi, lanh/nhanh, ngăi/nghĩa, d́a/về,
nện/dện... Nói chung đây là những biến thể ngữ âm địa phương đối
với từ toàn dân.
-
Điều đáng nói là các tác giả ca dao dân ca thường sử dụng hiện tượng
này để tạo ra sự hiệp vần trong lời thơ của ḿnh. Ví dụ:
-
Đôi ta thắt thể dây đờn
-
Đứt th́ lại nối, cùng hườn như xưa
(hườn = hoàn)
-
hoặc:
-
Thiệt như chàng đúng mực danh nhu
-
Sương sa mấy cơi, dặm cù mấy nơi
(danh nhu = danh Nho)
-
hoặc:
-
Thân ai khổ như anh kia
-
Ngày đi cuốc băi, tối d́a nằm suông.
-
Trường hợp nêu trên đây có thể xem là một tiểu loại của từ
địa phương Phú Yên. Tuy nhiên, những trường hợp biến thể địa phương
đều đặn như về/dề, vui/dui, vạy/dạy… sẽ không được đưa vào
vốn từ địa phương với tư cách là một tiểu loại của nó.
-
– Loại 2: ý nghĩa khác, vỏ ngữ âm giống:
-
+ T2.1: ý nghĩa khác hoàn toàn, ví dụ:
hòm (Bắc Bộ) chỉ đồ dùng đựng quần áo – ḥm (Phú
Yên) chỉ quan tài chôn người chết...
-
+ T2.2: ý nghĩa khác bộ phận, ví dụ:
ngon (Phú Yên) vừa có nghĩa là “ngon”, vừa có nghĩa
“tốt, tiện lợi...”
-
c. Nhóm 3: Từ địa phương có từ toàn dân tương ứng
nhưng không tương đồng về ngữ nghĩa. Nhóm này giống với
loại 1 của nhóm 2 ở chỗ vỏ ngữ âm khác nhau nhưng có điểm
khác biệt là về mặt ý nghĩa thì chỉ giống bộ phận. Nếu
căn cứ vào tính chất và mức độ tương ương về nghĩa, nhóm 3
này có thể có 3 trường hợp:
-
– Trường hợp 1: Giữa từ địa phương và từ toàn dân
có một số nét nghĩa giống nhau, các nét nghĩa còn lại
thì khác biệt nhau, ví dụ: chén trong tiếng địa
phương Phú Yên tương ứng với từ bát của từ toàn dân với
nghĩa “đồ dùng để đựng cơm hay thức ăn, bưng lên tay khi ăn”,
nhưng chén trong từ toàn dân còn có nghĩa khác nữa
(“hành động ăn uống”). Có thể biểu diễn trường hợp này bằng
hai vòng tròn giao nhau:
-
-
-
– Trường hợp 2: Nghĩa của từ địa phương hẹp hoặc nghèo hơn
từ toàn dân. Ví dụ: để trong tiếng Phú Yên có nghĩa
là “bỏ vợ”, nghĩa này cũng có trong từ bỏ của từ
toàn dân. Nhưng ngoài nghĩa này, từ bỏ còn có nhiều
nghĩa khác không có trong từ để của tiếng Phú Yên.
Có thể biểu diễn trường hợp này bằng hai hình tròn: hình
tròn từ toàn dân bao hàm hình tròn biểu thị từ địa phương:
-
-
-
– Trường hợp 3: Nghĩa của từ địa phương rộng hơn, phong phú
hơn nghĩa của từ toàn dân, ví dụ: vườn (Nam Bộ) vừa
có nghĩa “vườn” vừa có nghĩa “vùng nông thôn”. Sơ đồ biểu
diễn là hình tròn nghĩa từ địa phương bao hàm hình tròn
nghĩa từ toàn dân:
-
-
Dựa vào những tiêu chí phân loại như trên, công tŕnh tạm thời đưa
ra một bảng kê từ vựng của tiếng địa phương Phú Yên (xem phụ lục) để
người đọc có thể tham khảo, đối chiếu để hiểu được nội dung ư nghĩa
của những lời thơ mộc mạc mà giàu nghĩa t́nh của người quê xứ nẫu.
Những b́nh luận có tính chất chuyên môn ngôn ngữ học xin được dành
cho một công tŕnh khác. Ở đây, chỉ xin nêu mấy nhận xét sơ bộ về từ
vựng tiếng Phú Yên với tư cách là chất liệu ngôn từ trong sáng tác
văn chương.
-
Trước hết, qua bảng từ vựng, chúng ta dễ dàng nhận thấy tiếng Phú
Yên cũng giống như các phương ngữ khác, được hình thành trên
cơ sở một ngôn ngữ thống nhất, đó là tiếng Việt. Trong quá
trình phát triển, điều chắc chắn là tiếng nói của người
Phú Yên đã trải qua những thay đổi nhất định, tuy không đến
nỗi trở thành một tiếng nói khác, một ngôn ngữ khác, nhưng
vẫn có những khác biệt nhất định so với tiếng chuẩn trên
các cấp độ: ngữ âm, từ vựng và có khi về ngữ pháp nữa.
Nguyên nhân của những biến đổi ấy có thể tìm thấy trong
lịch sử phát triển của tiếng Việt, trong những điều kiện
địa lý, xã hội và văn hoá tác động đến tiếng nói của
người bản ngữ trong suốt chiều dài lịch sử, từ những bước
khai phá đầu tiên trên mảnh đất hẹp miền
Nam
Trung Bộ cho đến ngày nay, khi mà Phú Yên đã được khẳng
định vị trí máu thịt của mình trên bản đồ đất nước Việt
Nam.
-
Những biến đổi ấy có thể còn do nhiều nguyên nhân
khác nữa, nhưng điều quan trọng là những khác biệt mà
chúng tạo ra không làm thành hố sâu ngăn cách phương ngữ Phú
Yên với tiếng Việt chuẩn, mà ngược lại, trong một chừng mực
nào đó, nó còn cho thấy tính chất đa dạng, phong phú của
ngôn ngữ người Việt. Điều này khẳng định sự đối lập giữa
phương ngữ và ngôn ngữ dân tộc chỉ diễn ra ở bề ngoài mà
thôi, vì thật ra – nói như giáo sư
Hoàng Tuệ – “phương ngữ không phải là một hình thái
“thấp kém”, hay “hư hỏng” của ngôn ngữ. Có thể đó là một
hình thái tương đối cổ hơn hay, ngược lại, mới hơn của ngôn
ngữ”.
-
Thật vậy, ta không thể phủ nhận những khác biệt trong thể
hiện ngữ âm giữa các phương ngữ, nhưng mối quan hệ qua lại
giữa từ vựng địa phương và từ vựng toàn dân vẫn là điều
được các nhà ngôn ngữ học khẳng định từ lâu. Đặc biệt,
trên lĩnh vực ngôn ngữ văn học, ranh giới giữa hai lớp từ
này rất sinh động, thay đổi tuỳ theo cách sử dụng chúng
trong những bối cảnh, phong cách nghệ
thuật khác nhau. Nói như vậy có nghĩa là ở một khía
cạnh nào đó, từ vựng địa phương là nguồn bổ sung làm giàu
cho ngôn ngữ toàn dân, giúp cho ngôn ngữ văn học một công cụ
đắc lực để diễn đạt một cách hiệu quả hiện thực phong
phú của cuộc sống. Tất nhiên, vấn đề là do ở mức độ và
liều lượng sử dụng từ địa phương cộng với tài năng sáng
tạo của tác giả, vì lẽ, nghệ thuật, xét cho cùng là sự
lựa chọn thích đáng, không có từ nào hay hơn từ nào, chỉ
có từ dùng đúng chỗ và từ dùng sai chỗ mà thôi. Sự thành
công hay thất bại của một tác phẩm về mặt ngôn ngữ chính
là ở chỗ đó.
-
Từ vựng Phú Yên, tuy có số lượng khiêm tốn so với
các phương ngữ khác và một số có thể vay mượn ở nhiều
nguồn khác nhau trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, nhưng nó
vẫn có những đóng góp nhất định vào ngôn ngữ văn học Việt
Nam. Công lao ấy trước hết là nhờ ở những người dân quê mùa
Phú Yên, tác giả của những bài ca dao mộc mạc, nghĩa tình.
Họ là con em của “đất Phú trời Yên”, họ được sinh ra, được
nuôi dưỡng bằng những lời hát ru ấm áp tình người và lớn
lên trong tiếng nói mộc mạc, chân quê của người nông dân hiền
lành, chịu thương chịu khó. Tác phẩm của họ, vì thế, luôn
luôn dành một vị trí xứng đáng cho tiếng nói Phú Yên. Điều
đó thật dễ hiểu vì các sáng tác của họ đều lấy bối
cảnh Phú Yên để miêu tả, với những nhân vật là người Phú
Yên đang sử dụng tiếng nói địa phương để chuyện trò, trao
gửi tâm tình với nhau.
-
Khảo sát trong ca dao dân ca Phú Yên, chúng tôi nhận
thấy tần số xuất hiện rất cao của một số từ như: các từ
chỉ vị trí (bển, trỏng, ngoăi...), các từ xưng hô (ổng,
bă, nẫu,...), các từ cảm thán (dẫy na, úi chu cha, mẹ
chay...), các phụ từ (đững, hổng...), các từ láy đặc
trưng Phú Yên (buồn tối buồn
tăm, buồn thỉu buồn thiu...) và những từ địa phương khác
nữa. Chẳng hạn:
-
- Khuyên anh ở lại chốn này
-
Để em về bển, cha mẹ ngầy em
chịu cho.
-
- Anh về ở ngoăi chi lâu
-
Chiều em ra đứng hàng dâu ngó chừng.
-
- Thôi thôi đững nói nữa mà
-
Trâu băng ruộng sạ dấu mà còn đây.
-
- Thương chi cho uổng tấm tình
-
Nẫu về xứ nẫu bỏ mình bơ vơ.
-
- Ngó lên đám đất thổ
-
Thấy bầy chim đỗ
-
Một con mổ
-
Chín mười con bay
-
Em thương anh từ chín tháng nay
-
Còn ba tháng nữa thì đầy một năm
-
Buồn sao buồn tối buồn tăm
-
Buồn ăn không đặng, buồn nằm không yên
-
Ví dù cha dứt mẹ riềng
-
Khổ em em chịu, em cũng nguyền theo anh.
-
Những từ ngữ nói trên đã tô đậm thêm sắc thái địa phương
mộc mạc mà chan chứa nghĩa tình trong câu hát của người dân
quê Phú Yên. Cùng với sắc thái
đó,
chúng ta còn bắt gặp trong nhiều câu ca dao các từ chỉ địa
danh một số nơi ở Phú Yên, một mặt để xác định xuất xứ
của câu hát, một mặt thể hiện tình cảm gắn bó, tự hào
của con người với quê hương, xứ sở:
-
- Sông Bàn Thạch quanh co uốn khúc
-
Núi Đá Bia cao vút từng
mây
-
Sông kia đá nọ còn đây
-
Mà người non nước ngày nay phương nào?
-
- Cá ngon là cá Cù Mông
-
Gạo ngon là gạo ở đồng Phú Lương
-
- Chàng về Mỹ Á chi lâu
-
Để em ôm chiếc thuyền câu đợi chàng
-
- Khoai lang Suối Mít
-
Đậu phụng Hòn Vung
-
Chàng đào thiếp mót đổ chung một gùi
-
Bây giờ nhân nghĩa sụt sùi
-
Lấy chân đá hất cái gùi lăn chiêng
-
v.v.
-
Đọc những câu
ca dao nói trên, chúng ta càng thấy rõ không phải đợi đến
khi ngôn ngữ văn học viết hình thành, người Phú Yên mới có
ý thức lựa chọn và sử dụng từ ngữ địa phương trong sáng
tác của mình. Tài hoa của người bình dân là ở chỗ không để
cho các yếu tố địa phương lấn át tính trong sáng của tiếng
Việt thống nhất, mà trái lại, họ đã làm cho chúng hoà
quyện với nhau để tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật ngôn
từ có sức truyền cảm rất lớn trong tâm hồn người đọc. Đây
là điều rất có ý nghĩa vì nó chứng tỏ, trước sau, tiếng
Việt văn hoá là một ngôn ngữ thống nhất, sự khác biệt về
mặt từ vựng với các phương ngữ, trong đó có tiếng Phú Yên
chỉ là sự khác biệt bề ngoài, có tính chất tạm thời mà
thôi. Điều đó cũng khẳng định sự đóng góp của từ vựng Phú
Yên đối với ngôn ngữ văn học của dân tộc, đồng thời cũng
cho thấy khả năng phong phú của tiếng địa phương Phú Yên với
tư cách là phương tiện ngôn từ phục vụ cho sáng tác văn
chương.
-
Phú Yên, ngày
31/7/2007
-
Lư
Thơ Phúc
-
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
1) Ca dao dân ca trên vùng đất Phú
Yên – Hội văn nghệ dân gian và văn hoá các dân tộc Phú Yên,
1996. tr. 135.
-
2) Vương Hồng Sển, Tự vị tiếng
nói miền Nam, NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh, 1999, tr. 437.
-
3) Nguyễn Quang Hồng, Ríu tiếng và tiếng ríu trong tiếng
Việt, “Ngôn ngữ”, số 3, 2000, tr. 11-15.
-
4) Trịnh Sâm, Về từ “nậu” và
“nẩu” ở Nam Trung Bộ, “Ngôn ngữ và đời sống”, số 3 (29),
1988.
-
5) Thuật ngữ của George Yule trong “Pragmatics”, Oxford
University Press, 1997, tr. 9, phân biệt với proximal terms, trực
chỉ gần.
-
6) Trịnh Sâm, Về từ “nậu” và
“nẩu” ở Nam Trung Bộ, “Ngôn ngữ và đời sống”, số 3 (29),
1988.
-
-
|
|