|  |  | 
  
    
      |  | THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ TRONG THƠ 
      NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG Đặng Thanh Ḥa
 Trung Tâm Từ Điển Học - Vietnam Lexicography Centre
 (Đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 4 – 2001)
 
      Người ta thường bảo “Nôm na là cha mách qué”, thế nhưng với 
      thơ Hồ Xuân Hương thì đó lại là một ngoại lệ, bởi vì người đọc 
      nhớ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ấy. 
      Nếu không có cái chất “nôm na”, “mách qué”, “xỏ xiên” đầy tinh 
      quái này thì có lẽ đã không có một Xuân Hương để cho người đời 
      chiêm ngưỡng và tôn vinh Bà thành Bà chúa thơ Nôm trong làng thơ 
      Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của Bà đã tạo nên một 
      chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta ngây 
      ngất, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê, mách qué” 
      như: đỏ lòm lom, già tom, mân mó, tấp tênh, lún phún, le te, 
      chín mõm mòm,... Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với 
      sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp 
      trong ngôn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ấy, người ta còn bắt 
      gặp ở Bà một biệt tài nữa trong việc vận dụng tiếng nói dân 
      gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, 
      làm cho câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc 
      đáo hơn.
 Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập Thơ Hồ Xuân Hương
      do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được Nhà 
      xuất bản Văn học xuất bản năm 1987, chúng tôi đã phát hiện được 
      15 trường hợp có xuất hiện các yếu tố của thành ngữ, tục ngữ 
      trong những câu thơ. Đây quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy 
      thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có vị trí và vai 
      trò đặc biệt quan trọng như thế nào. Quả là hiếm có một nhà 
      thơ nào lại quan tâm đặc biệt đến vai trò của ngôn ngữ dân gian 
      như Hồ Xuân Hương.
 
 Việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào tác phẩm đã được nhà thơ xử lí 
      rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn. Có những tác phẩm tuy 
      rất ngắn nhưng chúng ta đã không khỏi ngạc nhiên khi thấy tác giả 
      đã hai lần sử dụng đến yếu tố thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn 
      như: Bài Mời trầu có hai câu thành ngữ xanh như lá và 
      bạc như vôi được áp dụng trong câu thơ "Đừng xanh như lá, 
      bạc như vôi". Bài Khóc Tổng Cóc lại có hai câu thành 
      ngữ khác là nòng nọc đứt đuôi và gọt gáy bôi vôi 
      được áp dụng trong hai câu thơ “Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, 
      Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi”. Hoặc như ở bài Quan thị
      thì hai câu thơ "Đố ai biết đó vông hay trốc, Còn kẻ nào 
      hay cuống với đầu" lại chính là hai hình ảnh hết sức ví von 
      được rút ra từ hai câu tục ngữ[/i] ngồi lá vông, chổng mông lá 
      trốc [/i]và đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên.
 
 Thậm chí có bài như bài Làm lẽ, chỉ với tám câu thơ ngắn 
      nhưng lại có tới ba câu thành ngữ đã góp phần vào trong ấy, đó 
      là "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" lấy từ ý của câu 
      thành ngữ năm thì mười hoạ; “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm" 
      lấy từ ý của câu thành ngữ cố đấm ăn xôi; và câu "Cầm 
      bằng làm mướn, mướn không công" lấy từ ý của thành ngữ 
      làm mướn không công. Ngoài ra, còn có những bài khác cũng 
      được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: "Tài tử văn 
      nhân ai đó tá?" (Tự tình I) lấy ý của thành ngữ tài tử 
      giai nhân. "ấy ai thăm ván cam lòng vậy" (Tự tình III) lấy ý 
      thành ngữ thăm ván bán thuyền. "Bảy nổi ba chìm với nước non"
      (Bánh trôi nước) ý của thành ngữ ba chìm bảy nổi (bảy 
      nổi ba chìm). "Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo" (Đèo Ba Dội) 
      ý của thành ngữ mỏi gối chồn chân. "Bán lợi mua danh nào 
      những kẻ" (Chơi chợ chùa Thầy) ý của thành ngữ bán lợi 
      mua danh (mua danh bán lợi). Và "Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi"
      (Con ốc nhồi) từ ý của thành ngữ lăn lóc như cóc bôi vôi.
 
 Qua một số dẫn chứng trên, chúng ta có thể thấy rằng Hồ Xuân 
      Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yếu thông qua 
      hai phương thức chính như sau:
 
 Phương thức thứ nhất là vận dụng trực tiếp thành ngữ, tục ngữ 
      vào thơ, tức là lấy nguyên văn, nguyên dạng những câu thành ngữ, 
      tục ngữ vốn có của dân gian để đưa vào thơ như trường hợp: 
      xanh như lá, bạc như vôi (Đừng xanh như lá, bạc như vôi - Mời trầu); 
      nòng nọc đứt đuôi (Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé - Khóc Tổng Cóc); 
      năm thì mười hoạ, (Năm thì mười hoạ chăng hay chớ - Làm lẽ); cố 
      đấm ăn xôi (Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm - Làm lẽ); bảy nổi ba 
      chìm (Bảy nổi ba chìm với nước non - Bánh trôi nước); mỏi gối 
      chồn chân (Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo - Đèo Ba Dội); bán 
      lợi mua danh (Bán lợi mua danh nào những kẻ - Chơi chợ chùa Thầy). 
      Cách xử lí này phải nói là tương đối khó bởi vì nó đòi hỏi 
      tác giả phải có một khả năng cảm nhận hết sức tinh tế về 
      nghĩa của những câu thành ngữ, tục ngữ mà họ định sử dụng để 
      xem nó có phù hợp với ý thơ mà mình định trình bày ở trong câu 
      và trong bài hay không. Đồng thời, tác giả cũng phải là người 
      hết sức giỏi về khả năng xử lí ngôn từ để có thể “ghép” những 
      câu thành ngữ, tục ngữ, vốn là một “khối từ ngữ đúc sẵn”, vào 
      với những từ ngữ chủ quan riêng của mình để tạo nên một câu thơ 
      hoàn chỉnh mà không bị cứng nhắc, gượng ép về nghĩa cũng như về 
      vần điệu.
 
 Những khó khăn nói trên đã được Hồ Xuân Hương xử lí thành công 
      một cách tuyệt vời. Chúng ta thử lấy một ví dụ nhỏ trong số 
      các ví dụ trên thì sẽ thấy rõ hơn biệt tài của Bà trong vấn đề 
      này. Ví dụ trong bài Làm lẽ, để miêu tả thân phận hẩm hiu, 
      thua thiệt của người vợ lẽ trong cuộc sống vợ chồng, tác giả đã 
      sử dụng hai câu thành ngữ năm thì mười hoạ và cố đấm 
      ăn xôi trong hai câu thơ "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" 
      và "Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm". Đối với tiềm thức văn hoá 
      của người Việt thì hai câu thành ngữ này vốn rất quen thuộc vì 
      nó thường được sử dụng để nói tới sự trái khoáy, trớ trêu của 
      một điều gì đó. Vì vậy trong trường hợp này phải nói rằng Xuân 
      Hương đã sử dụng nó rất hợp cảnh hợp tình.
 
 Phương thức thứ hai là chỉ lấy ý của thành ngữ, tục ngữ để 
      chuyển vào trong thơ chứ không áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ 
      nhất. Chẳng hạn như: thăm ván bán thuyền (ấy ai thăm ván cam 
      lòng vậy - Tự tình III); gọt gáy bôi vôi (Nghìn vàng khôn chuộc 
      dấu bôi vôi - Khóc Tổng Cóc); làm mướn không công (Cầm bằng làm 
      mướn, mướn không công - Làm lẽ); ngồi lá vông, chổng mông lá trốc 
      (Đố ai biết đó vông hay trốc - Quan thị); đầu trỏ xuống, cuống 
      trỏ lên (Còn kẻ nào hay cuống với đầu - Quan thị); lăn lóc như 
      cóc bôi vôi (Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi - Con ốc nhồi). Cách 
      xử lí này thường tạo nên tính ẩn ý kín đáo cho câu thơ và đôi 
      lúc khiến cho câu thơ như có hơi hướng của những câu đố, ví dụ 
      như trường hợp của "Đố ai biết đó vông hay trốc" (Quan thị) 
      hay như "Còn kẻ nào hay cuống với đầu" (Quan thị). Những 
      câu thơ được sáng tác theo kiểu này thường tạo cho người đọc có 
      những sự liên tưởng rộng hơn, thích thú hơn và đầy ấn tượng hơn 
      bởi vì dấu ấn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tồn tại phảng 
      phất trong câu thơ chứ không hiện hữu rõ ràng như ở cách thứ 
      nhất. Do đó, muốn phát hiện ra trong câu thơ ấy tác giả có sử 
      dụng các môtip của thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt nội dung hay 
      không thì người đọc phải có một vốn thành ngữ, tục ngữ nhất 
      định để làm cơ sở quy chiếu so sánh thì mới nhận ra được.
 
 Qua một số ví dụ trên, chúng ta thấy rằng ngôn ngữ dân gian nói 
      chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng có một vai trò, giá trị 
      rất lớn không chỉ trong đời sống ngôn ngữ nói hằng ngày mà còn 
      cả trong ngôn ngữ viết, đặc biệt là thơ. Những câu thành ngữ, 
      tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của Hồ Xuân Hương dường như 
      trở thành một thứ công cụ hết sức đắc dụng trong việc tạo hình, 
      tạo nghĩa cho thơ mà không cần phải nhờ tới những thứ mĩ từ 
      khác. Như chúng ta đã biết, thành ngữ, tục ngữ vốn là những đơn 
      vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt. Nó là một loại tổ hợp từ cố 
      định quen dùng nên rất dễ nhớ dễ thuộc, và đặc biệt hơn là 
      nghĩa của chúng thường có tính văn hoá, giáo dục cộng đồng, 
      cũng như tính khái quát rất cao. Cho nên, khi xuất hiện trong thơ 
      chúng thường đem lại tính gần gũi, bình dị và mộc mạc cho câu 
      thơ. Đồng thời, cũng tạo nên những chiều sâu về nghĩa thông qua sự 
      liên tưởng, suy luận của người đọc. Nói như vậy không có nghĩa 
      là chúng ta phủ nhận giá trị của nền ngôn ngữ văn chương, hay 
      ngôn ngữ phổ thông mà hiện nay chúng tađang phải học, phải tiếp 
      xúc hằng ngày. Điều quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta 
      thấy được những vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân gian. Và đặc 
      biệt là thấy được cái biệt tài của Bà chúa thơ Nôm trong việc 
      vận dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thế nào. Nói tóm lại, 
      bất kể là ngôn ngữ dân gian hay ngôn ngữ văn chương cũng đều cần 
      phải được tiếp thu có chọn lọc và phát huy đúng sở trường thì 
      mới có thể làm giàu thêm cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Điều đó 
      có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nên được giá trị thực sự khi và 
      chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí của nó mà thôi./.
 
 
 
        Tài liệu tham khảo 1. Hoàng Phê - Từ điển tiếng Việt, 2000 - Trung tâm Từ điển học - 
      Nxb. Đà Nẵng.
 2. Nguyễn Lộc - Thơ Hồ Xuân Hương - Nxb. Văn học - 1987.
 3. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào - Từ điển Thành ngữ và 
      Tục ngữ Việt Nam - Nxb. Văn hoá - 1997.
 4. Xuân Diệu - Ba thi hào dân tộc - Nxb. Thanh niên.
 
 Nguồn : vietsciences
   |  |