GS.TS. Trần Văn Khê
|
Múa “Lục cúng hoa đăng” - |
Nét đặc thù của âm nhạc Phật giáo
Trước hết, điểm độc đáo của âm
nhạc Phật giáo là không hề có khuôn mẫu cố định.
Xuất phát tại Ấn Độ với cách tán tụng theo truyền
thống Veda, nhưng nhạc Phật giáo ở từng quốc gia đều
được bản địa hóa theo tính cách đặc thù của mỗi nước
và thường được thể hiện theo âm nhạc truyền thống
của nơi đó. Cùng một bài kinh mà nét nhạc thay đổi
tùy quốc gia, tùy trường phái, thậm chí tùy từng
vùng. Chẳng hạn cùng niệm tên Phật A Di Đà mà hai
miền Nam Bắc ở nước ta niệm khác nhau, theo thang âm
điệu thức câu hát ru của mỗi miền; c̣n tại Hong Kong
hay Singapore th́ tăng ni niệm theo thang âm nhạc
Quảng Đông.
Ngoài ra, nhạc Phật giáo luôn
luôn liên quan đến các nghi thức hành lễ, như nghi
tiết tại chùa (ba thời kinh sáng, trưa, chiều), nghi
tiết trong tang ma, trong lễ hội tôn giáo lớn như
Phật đản, Vu Lan...
Nhạc Phật giáo lại đặt trọng tâm
vào thanh nhạc hơn khí nhạc. Ngoài phong cách tụng
và tán quen thuộc trong các cuộc lễ tế, c̣n có tŕ,
niệm, bạch, xướng, thỉnh, đọc, hô, tùy theo loại
kinh hay tŕnh tự của một thời kinh.
Quá tŕnh phát triển âm
nhạc Phật giáo Việt Nam
Đạo Phật vào nước ta từ rất sớm,
nhưng phát triển rực rỡ nhất là vào thế kỷ X với
triều Lư. Trên những phiến đá của chân cột chùa Phật
Tích (Bắc Ninh) - một trong những di tích Phật giáo
tiêu biểu của thời Lư - có chạm khắc hoa sen cùng
h́nh dàn nhạc công đang tấu nhạc dân tộc, với ư
nghĩa hướng dẫn chúng sinh vào con đường của đạo
pháp.
Theo nhà nghiên cứu Trần Đ́nh Sơn,
thời kỳ đó các vua thường cất chùa trước khi xây
dựng cung điện, và dàn nhạc tôn giáo cũng có thể
đồng thời dùng cho dàn nhạc cung đ́nh. Điều này cho
thấy, từ thời nhà Lư âm nhạc Phật giáo đă có liên
quan mật thiết với âm nhạc dân tộc.
Đến đời nhà Trần, Phật giáo vẫn
được xem là quốc giáo và tiếp tục thời kỳ phồn thịnh.
Theo sử sách, khi Thượng hoàng Trần Nhân Tôn qua đời
ở núi Yên Tử vào năm 1308, hỏa cốt của ngài được
mang về kinh sư, sau đó triều đ́nh rước về chôn ở
Phủ Long Hưng (Thái B́nh). Bá tánh nghe tin ấy đă
cùng nhau tụ tập đầy nghẹt chung quanh cung điện để
tiễn đưa linh cữu vị vua anh minh. Thấy khó ḷng xua
dân giăn ra, một vị quan là Trịnh Trọng Tử nghĩ ra
cách tập hợp quân sĩ và cho hát bài “Long ngâm” tại
sân Thiên Tŕ để thu hút thiên hạ lại nghe, nhờ đó
mới có thể di quan. “Long ngâm” là bài nhạc dùng
trong chùa vào những ngày lễ lớn, cho thấy trong
cung đ́nh lúc bấy giờ rất thường sử dụng nhạc Phật
giáo.
Đến đời nhà Lê, năm 1437 vua Lê
Thái Tôn giao cho Nguyễn Trăi và Lương Đăng định
nhạc lễ, nhưng do quan điểm về Nhă nhạc bất đồng nên
Nguyễn Trăi dâng sớ thoái thác. V́ thế, Nhă nhạc nhà
Lê đều do một tay hoạn quan Lương Đăng phỏng theo
quy chế nhạc cung đ́nh nhà Minh. Âm nhạc Phật giáo
cũng v́ thế mà lắng xuống.
Qua đời nhà Nguyễn, cũng không
nghe nhắc đến nhạc Phật giáo trong các quyển Lê
Triều Hội điển, Lịch triều hiến chương loại chí và
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.
Tuy không được coi trọng ở các
đời vua sau, nhưng nhạc Phật giáo vẫn được sử dụng
nghiêm túc trong nhà chùa. Các cách tán tụng vẫn bảo
tồn theo âm hưởng từ thời xa xưa và được phát triển
ngày càng phong phú.
Sang thời kỳ cận đại, có vài sự
thay đổi trong tinh thần giản dị hóa nghi thức Phật
giáo, mà đáng lưu ư là những thay đổi trong những
dàn nhạc lễ miền Nam với việc sử dụng hai nhạc khí
nước ngoài là ghita phím lơm và organ để phụ họa
theo những bài tán trong các lễ hội. Đàn ghita phím
lơm, vốn thông dụng trong những dàn nhạc tài tử cải
lương, tuy đă được Việt Nam hóa nhưng âm sắc sôi
động của nó không mang lại không khí trang nghiêm
cần thiết trong lễ hội tôn giáo. Riêng đàn organ c̣n
làm cho bản sắc dân tộc bị lu mờ hơn nữa. Chúng ta
đừng quên âm nhạc Phật giáo rất gần gũi với văn hóa
dân tộc.
Liên quan mật thiết giữa
âm nhạc Phật giáo và âm nhạc dân tộc
Âm nhạc Phật giáo có khá nhiều
điểm tương đồng với âm nhạc truyền thống, từ nét
nhạc, thang âm, điệu thức, tiết tấu đến nhịp phách,
chỉ khác nhau về mục đích. Âm nhạc truyền thống giúp
người nghe thưởng thức nghệ thuật, c̣n âm nhạc Phật
giáo nhằm mang lại cho người nghe (hay người đọc)
một trạng thái tâm hồn an tịnh, thanh thản hầu thấu
cảm giáo lư nhà Phật. Nhạc Phật giáo hướng nội,
trong khi nhạc nghệ thuật hướng ngoại. Nhưng không
phải v́ thế mà âm nhạc Phật giáo không mang tính
chất nghệ thuật. Nét nhạc và cách tán các bài như
Dương chi tịnh thủy (Nhành dương liễu rải nước cam
lồ xuống trần), Tào khê (Nước trong suối) rất phong
phú và tinh vi.
Về nhạc khí, ngoài một số dụng cụ
đặc thù như mơ gia tŕ, chuông gia tŕ, đẩu, mộc
bảng, th́ trong Phật giáo cũng sử dụng các nhạc khí
truyền thống dân tộc như đàn nhị, đàn nguyệt, kèn,
trống phách.
Về bài bản th́ nhạc lễ dùng trong
Phật giáo giống như nhạc lễ dùng trong cung đ́nh và
ngoài dân gian, ngoài một vài bài bản đặc biệt như
bài Trống bát nhă.
Thang âm điệu thức hầu như giống
nhau hoàn toàn, ngoại trừ tiết tấu trong các bài tán
theo truyền thống miền Trung có những nhịp đặc biệt
cho các điệu tán rơi, tán xấp, tán trạo với cách
nhịp tang, mơ khác nhau.
Ảnh hưởng qua lại giữa âm
nhạc Phật giáo và nhạc truyền thống
Nhạc Phật giáo chịu ảnh hưởng của
âm nhạc truyền thống rơ nhứt là trong cách niệm và
tụng kinh mang âm hưởng của tiếng hát ru từng miền.
Thông thường trong các lễ hội lớn
của Phật giáo luôn sử dụng dàn nhạc lễ trong dân
gian, đặc biệt theo truyền thống miền Trung là hai
dàn đại nhạc và tiểu nhạc trong cung đ́nh thâu nhỏ
lại. Một vài truyền thống Phật giáo ở Tiền Giang có
những cách tán dùng hơi và nhịp của lối hát Khách
của hát Bội, chỉ khác nhau trong cách dùng mẫu âm ở
những chỗ phải luyến láy.
Một số thang âm điệu thức trong
âm nhạc truyền thống được các nhà sư sử dụng để đặt
những bài tán. Hơi thiền trong Phật giáo có cấu trúc
âm thanh như hơi nhạc, hơi hạ của miền Nam, nhưng
tiết tấu chậm hơn. Hơi ai của nhạc Phật giáo giống
như những điệu ai dùng trong nhạc lễ hay cải lương
tài tử, nhưng đơn giản hơn.
Cách vận hành giai điệu trong âm
nhạc truyền thống cũng được các nhà sư áp dụng để
làm cho phong cách tán tụng được phong phú hơn.
Ngược lại, âm nhạc Phật giáo cũng
giúp ích và làm giàu thêm cho âm nhạc dân tộc. Nhạc
Phật giáo có phong cách “thài” (cách điệu hóa ngôn
ngữ theo những chữ nhạc trong thang âm ngũ cung mà
không chú trọng đến sự lên xuống đa dạng của nét
nhạc) mà các ca công trong cung đ́nh đă vận dụng vào
trong các ca chương, như nhận định của cụ Lữ Thi,
một nhạc công dàn nhạc cung đ́nh ngày xưa.
Hơi thiền với tiết tấu khoan thai,
nghiêm trang trong nhạc Phật giáo có thể dùng để
ngâm những bài thơ, bài kệ có thiền vị, đem lại tâm
b́nh an cho người nghe.
Về mặt tiết tấu, nhạc dân tộc chỉ
có nhịp hai, nhịp tư, nhịp tám, nhịp mười sáu mà
không có nhịp đánh theo chu kỳ như trong các bài tán
của Phật giáo. Truyền thống Phật giáo miền Trung có
những tiết tấu đặc thù rất tinh vi với nhịp tán rơi,
nhịp tán sấp, tán trạo. Đây là đóng góp của nhạc
Phật giáo làm giàu thêm tiết tấu cho âm nhạc dân tộc.
Ngoài ra điệu múa cung đ́nh Lục
cúng hoa đăng (múa đèn) chính là phỏng theo điệu múa
lục cúng trong Phật giáo khi dâng hương, đăng, hoa,
trà, quả, thực. Hoặc điệu múa Đấu chiến thắng Phật
trong cung đ́nh cũng từ một điệu múa trong chùa mà
ra.
Lịch sử Phật giáo lại là đề tài
cho âm nhạc kịch nghệ dân tộc, chẳng hạn sự tích
Phật Bà Quan Âm làm đề tài cho vở chèo Quan âm Thị
Kính, hoặc cuộc đời Đức Phật Thích Ca từng là đề tài
cho nhiều vở cải lương và phim ảnh.
Tóm lại, âm nhạc, văn hóa cũng
như ngôn ngữ Phật giáo giúp cho âm nhạc, kịch nghệ
truyền thống dân tộc có thêm nhiều yếu tố để làm
giàu và phát triển.
* * *
Trong lịch sử hàng ngàn năm đồng
hành với âm nhạc dân tộc, dẫu trải qua nhiều thịnh
suy nhưng âm nhạc Phật giáo vẫn giữ ǵn những giá
trị tinh thần truyền thống. Đằng sau các nghi thức
tôn giáo là tâm linh dân tộc, do đó chúng ta đừng v́
sự tiện lợi trong tổ chức hay biểu diễn mà làm mất
đi cái hồn của bản sắc văn hóa.