|
T́m hiểu câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại"
Bài viết được đăng lúc 3:15:35 PM, 15.04.2009
TRIỀU NGUYÊN
1. Câu
tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho
tàng tục ngữ người
Việt (Nguyễn Xuân
Kính (chủ biên), Nguyễn Thuư Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12
đầu sách có chép nó.
Sách này chép nghĩa từ hai nguồn:
- Theo sách Từ điển
thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Nguyễn
Lân; Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1989), tr 11: "Khuyên những người vợ kế
nên thương yêu con vợ trước";
- Theo Nguyễn Hùng Vĩ: "Đây là sự than phiền về nỗi vất vả của người
mẹ khi phải giúp đỡ con gái ḿnh bồng bế, chăm sóc cháu ngoại. Có
thể tái lập cả câu là: Thà
ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại".
Sách Đại từ điển
tiếng Việt (Nguyễn
Như Ư (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Vũ Quang Hào, Phan Xuân Thành;
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội,1999) (TĐ), tr 45, cũng có ghi câu tục
ngữ, kèm lời giải nghĩa: "Có tư tưởng coi trọng đàn ông, coi thường
phụ nữ, ví như thà ẵm con của chồng, tuy không yêu quư thích thú ǵ,
nhưng dẫu sao vẫn thuộc ḍng họ nội, c̣n hơn bế con của con gái ḿnh".
Nguyễn Đức Dương trong bài viết "Sao không đưa tục ngữ vào giảng dạy
ở bậc tiểu học?" (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 10 -
2004; tr 4 - 9) (NĐD), sau khi dẫn lời giải nghĩa trên của Đại
từ điển tiếng Việt, đă viết: "GS Nguyễn Như Ư cho rằng đây là
câu phê phán "tư tưởng coi trọng đàn ông, coi thường phụ nữ". Cách
giảng đó rơ ràng chưa nêu hết được chủ ư của tác giả câu tục ngữ
đang xét. Giá coi trọng hơn nữa những đặc trưng về văn hoá hôn nhân
lồng trong câu trên, chắc hẳn ông sẽ thấy ngay rằng mục đích chính
của câu ấy không phải là bàn chuyện "trọng nam khinh nữ", mà là tập
trung vào việc nhắc nhở các cô gái "cao số" (cho nên hay gặp chuyện
trắc trở trong đường t́nh duyên) một kinh nghiệm quư được đúc kết từ
thực tiễn nghiệt ngă của cuộc sống thời trước: [Thà lấy người goá vợ
làm chồng] và bế ẵm [=chăm
sóc] lũ con mà anh ta
đă có với người vợ trước [để
lúc về già có nơi nương tựa] c̣n
hơn là [ở vậy để đến
khi về già] chỉ c̣n
biết bồng bế đám cháu phía bên ngoại của chính ḿnh [cho
đỡ cô quạnh]".
2. Những
tŕnh bày trên cho thấy, đây là câu tục ngữ khá phổ biến, nhưng cách
hiểu không giống nhau giữa các nhà nghiên cứu. Vấn đề đặt ra ở đây
là hoàn cảnh nào và v́ sao ẵm con của chồng lại hơn bồng cháu ngoại?
"Ẵm" và "bồng" là hai từ đồng nghĩa(1) (miền Bắc hay dùng "ẵm", miền
Trung và Nam thường nói "bồng"), ở đây, chúng c̣n hàm nghĩa chăm sóc,
nuôi nấng.
Hai lối nghĩa ở KT và cách giải thích của TĐ chưa thoả đáng, bởi
không xác định được hoàn cảnh, bối cảnh tạo ra (hay ứng dụng) của
câu tục ngữ, cũng như chưa giải thích lí do v́ sao chăm sóc con
chồng lại hơn nuôi nấng cháu ngoại. Hướng tiếp cận của NĐD tuy có
nêu hoàn cảnh và lí do (rất vắn tắt) của vấn đề, nhưng lại có chỗ
cần bàn. Chúng ta thường dùng "ngoại" khi đặt trong quan hệ đối sánh
với "nội". Người chưa có chồng / vợ th́ chỉ phân biệt "nội", "ngoại"
ở phía bà con thuộc cha hay mẹ ḿnh. Nên khi nói người phụ nữ "ở vậy
để đến khi về già chỉ c̣n biết bồng bế đám cháu phía bên ngoại của
chính ḿnh", th́ nghe rất lạ tai. V́ người phụ nữ trong trường hợp
này chỉ có hai loại cháu để có thể chăm sóc, đó là con của anh chị
em chú bác cô cậu d́ ruột(2) (ít gặp), và con của anh chị em ruột (gặp
nhiều hơn), cả hai đối tượng là cháu này, người phụ nữ đều được gọi
bằng cô (một số tỉnh miền Trung gọi là O), bằng d́, trong nói năng
b́nh thường, không ai coi đó là cháu ngoại(3). Nên đây không phải là
lời khuyên dành cho các cô gái "cao số".
Như vậy, hoàn cảnh viện ra cho câu tục ngữ này chỉ có thể là: người
phụ nữ đă lớn tuổi nhưng chỉ sinh toàn con gái, nay người chồng cần
có con trai để nối dơi tông đường (thường bằng hai cách, hoặc lén
lút quan hệ với một người đàn bà nào đó, hoặc cưới vợ lẽ)(4), đặt
người phụ nữ này vào một sự lựa chọn, hoặc t́m mọi cách ngáng trở
chồng, chấp nhận lấy cháu ngoại làm vui khi tuổi già, ḥng bảo vệ
hạnh phúc, hoặc để chồng kiếm con trai, chịu hi sinh phần nào hạnh
phúc, và phải khó nhọc chăm sóc con trai của chồng để nhờ cậy về lâu
dài; và bà ta đă chọn (hoặc được cộng đồng khuyên nên chọn) cách sau:
"Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại".
V́ sao "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại"? "Con chồng" chẳng những
không có quan hệ máu mủ mà thường nằm ở vết thương ḷng của người
phụ nữ (bằng chứng về sự thiếu chung thủy của chồng). Có điều, vết
thương này đă có hai phương thuốc chữa: một là tâm lí đă được cộng
đồng chuẩn bị "trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng";
hai là sự báo đáp theo luật tục của con trai chồng: anh ta và con
cháu của anh ta có trách nhiệm phải phụng dưỡng khi già yếu, lo tang
chế khi mất, và sau đó, lo xây lăng đắp mộ, cúng giỗ phụng thờ măi
măi... "Cháu ngoại" (nói riêng đối với bà ngoại) th́ chắc chắn là
máu mủ của ḿnh, chăm sóc, cưng chiều chúng là hiển nhiên. Nhưng
cháu ngoại th́ khuyết điểm rất lớn, mà tục ngữ đă nh́n nhận: khi bà
c̣n sống th́ "Bà nuôi cho uổng công bà; đến khi nó lớn, t́m cha nó
về"; khi bà đă chết th́ "Cháu ngoại không đoái đến mồ". Như vậy, lấy
cái được mất của bản thân mà xét, th́ nuôi nấng "cháu ngoại" chỉ
thoả măn t́nh cảm trước mắt, c̣n nuôi nấng "con chồng" lại nhằm làm
chỗ dựa lâu dài. C̣n nếu đem vai tṛ "phụng sự gia nương chồng" ra
mà xét, th́ nuôi con chồng là giúp chồng được việc lớn, tục ngữ nói
"Gái có công, chồng không phụ", tất sẽ được chồng, gia đ́nh chồng
yêu quư. Theo đó mà suy, th́ quả là "Ẵm con chồng hơn bồng cháu
ngoại" (5).
3. Trở
lại với cách giảng giải câu tục ngữ của NĐD, nếu chúng ta xem "cháu
ngoại" là cháu không trực hệ, tức không do con ḿnh sinh ra, mà là
con (hay cháu) của anh chị em ḿnh, th́ có thể xem đó là hướng nghĩa
thứ hai của câu tục ngữ. Nhưng như trên đă phân tích, sức thuyết
phục của cách hiểu như vậy không cao.
Sách KT ngoài ghi lại câu tục ngữ đang bàn từ 12 đầu sách có chép nó
đă nói, c̣n ghi thêm một "bản khác", từ sách Nam
âm sự loại (sách Hán
nôm, sưu tập cả tục ngữ và ca dao, do Vũ Công Thành biên soạn năm
1925), quyển 2, tr 6a, đó là: "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ruột". "Cháu
ruột" ở đây là con của anh chị em ruột. Cách hiểu của NĐD phù hợp
với câu này hơn (với một bổ sung, là không chỉ người con gái "cao số"
- hiểu như luống tuổi, hết khả năng sinh nở - mà c̣n cả những người
phụ nữ lấy chồng đúng dịp xuân th́, nhưng v́ một lí do ǵ đó mà
không sinh đẻ được) (6).
Nắm hiểu nghĩa của tục ngữ là chuyện không mấy dễ dàng. Như câu tục
ngữ đang bàn, vấn đề không nằm ở bản thân câu nói, mà thuộc vào hoàn
cảnh, bối cảnh để câu nói ấy phát huy tác dụng. Thường th́ đó là một
vấn đề thuộc phong tục, tập quán, lĩnh vực văn hoá nói chung, mà để
hiểu được câu tục ngữ không thể không biết đến(7). Hoàn cảnh càng
hẹp, xác định càng khó, có khi người đọc có cảm giác khiên cưỡng.
Nhưng có lẽ trong trường hợp đang xem xét, không c̣n cách nào khác
hơn.
T.N.
(201/11-05)
-----------------------
(1)Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê (chủ biên); Nxb Khoa học xă
hội-Trung tâm từ điển học, Hà Nội, 1994): “ẵm đg. Bế (trẻ nhỏ). Mẹ
ẵm con.” (tr 10); “bồng đg. (cũ; hoặc ph.). Bế, ẵm. Bồng con. Bồng
trẻ dắt già.” (tr 81).
(2) Thường nói là anh chị em con chú con bác (ruột), anh chị em
con cô con cậu (ruột), anh chị em bạn d́ (ruột)
(3) Trong quan niệm của ngừoi Viêt, cháu gọi bằng cô thuộc về bên
nội, cả với người phụ nữ đă có chồng con tử tế. Riêng cháu gọi bằng
d́, th́ ít thấy đặt vào bên “nội” hay bên “ ngoại”.
(4) Lưu ư là tập quán ủng hộ việc làm này của người đàn ông, không
xem đó là hành động thuần tuư v́ nhục dục. Khi người đàn ông không
có con trai quan hệ vụng trộm với người đàn bà không phải là vợ ḿnh,
nếu sinh được con trai, người đàn bà ấy sẽ giao con lại cho ông ta,
xem như “đẻ giúp”, bấy giờ, người vợ của người đàn ông này sẽ sắm
vai mẹ, chăm sóc đứa trẻ.
(5) Cái lẽ th́ như vậy, nhưng có không ít người phụ nữ không đồng
t́nh. Người viết đă chứng kiến khá nhiều trường hợp người vợ (chỉ
sinh toàn con gái) không chấp nhận con riêng (là con trai ngoại hôn)
của chồng ḿnh, khiến những người con ấy vĩnh viễn không nhận được
họ cha, và người chồng phải tiệt tự.
(6) Theo đó, th́ vấn đề “bản khác” đối với tục ngữ cần hết sức thận
trọng, bởi lắm khi tưởng khác biệt một vài từ ngữ th́ chẳng ảnh
hưởng ǵ nhiều đến ư nghĩa cả câu, nhưng thực chất là vấn đề liên
quan đă bị chuyển lệch một khoảng rất lớn.
(7) Tương tự câu đang bàn, có câu “Góc ao không bằng đao đ́nh”. Hoàn
cảnh ứng dụng của câu này là chuyển trổ hướng nhà. “Nhà hướng vào
góc ao hay đao đ́nh đều độc, nhưng hướng vào đao đ́nh th́ độc hơn” (Vũ
Dung, Vũ Thuư Anh, Vũ Quang Hào; Từ điển thành
ngữ và tục ngữ Việt Nam; Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1993; tr 362).
|