|
Ngh́n Năm Bia Miệng
Thời gian làm phai nḥa bao trang giấy, làm mờ nhạt bao tấm bia đă từng
ghi khắc những lời hay ư đẹp. Riêng những ǵ được ghi tạc trong thâm tâm,
trong kư ức của con người, vẫn trường tồn với thời gian. Chính những ǵ
được ghi nhớ trong ḷng người đă làm nên văn chương truyền khẩu, đă là
nền tảng của bao nền văn hóa của nhân loại. Kư ức con người ghi tạc
những điều tốt và điều xấu để truyền lại cho những thế hệ kế tiếp. Cứ
như thế, thiên niên vạn đại về sau.
Ca dao tục ngữ nước ta có câu :
"Trăm năm bia đá cũng ṃn,
Ngh́n năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ".
Lịch sử Việt Nam đă kể chuyện nhiều trung thần lương đống đă bị triều
đ́nh hoặc quan quyền ganh ghét, hành tội. Có người như cụ Phan Thanh
Giản, dù đă mang cái chết để chứng minh ḷng trung liệt của ḿnh sau khi
Pháp dùng súng đạn tối tân chiếm mất 6 tỉnh Nam Kỳ, cũng bị vua tôi Tự
Đức kết án, lột hết chức tước, lại c̣n đục tên cụ ra khỏi bia tiến sĩ.
Tưởng chừng, mất tên trên bia đá, sử xanh sẽ quên vị trung thần hết ḷng
v́ nước v́ dân. Thế mà ngày nay, người đời c̣n nhớ tên và tấm ḷng trung
quân, ái quốc của cụ Phan Thanh Giản và trong dân gian, người ta c̣n lấy
cái gương trung nghĩa đó mà dạy cho con cái đời sau. Hỏi có c̣n ai nhớ
những bài thơ của ông vua Tự Đức, có ai khuyên con noi gương ông vua Tự
Đức ?... Lịch sử nước ta có những nhân vật, tuy không ghi tên trên bia
đá; nhưng tiếng thơm hoặc tiếng xấu c̣n lưu truyền vạn đại về sau. Có
những việc, những người, đă diễn ra hay đă từ hàng ngàn năm trước, mà
nay người dân Việt Nam vẫn nhắc lại như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua.
Thử duyệt lại chuyện của những ngàn năm trước để nghiệm những việc ngày
nay mà hàng ngàn năm sau vẫn c̣n bia miệng.
"Bia đá và Bia miệng"
Trải qua gần 5000 năm lịch sử thăng trầm của dân tộc Việt Nam, có nhiều
sự kiện, nhiều nhân vật được chính sử ghi chép để lại đời sau học hỏi.
Cụ Trần Trọng Kim, trong lời tựa cuốn Việt Nam Sử Lược đă viết : "Sử là
sách không những chỉ để ghi chép những công việc đă qua mà thôi, nhưng
lại phải suy xét việc gốc ngọn, t́m ṭi cái căn nguyên những công việc
của người ta đă làm để hiểu cho rơ những vận hội trị loạn của một nước,
những tŕnh độ tiến hóa của một dân tộc". Tuy nhiên, nếu lịch sử có loại
được ghi chép bằng giấy mực, th́ cũng có loại được truyền tụng bằng
miệng từ đời này qua đời khác. Không thể dễ dàng đánh giá loại nào có
giá trị hơn loại nào. Nói cách khác, mỗi loại có giá trị riêng của nó.
Nhiều câu chuyện "hoang đường, huyền hoặc" đă là khởi đầu của lịch sử
nhiều nước. Liên quan đến lịch sử nước ta, ông Trần Trọng Kim đă viết :
"Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không
có di tích ǵ mà khảo cứu cho đích xác". Hầu hết các dân tộc trên thế
giới đều có phần "dă sử" hay huyền hoặc như vậy, pha lẫn những nhân vật,
những hiện tượng tự nhiên với những nhân vật và hiện tượng siêu nhiên.
Nếu trong chính sử, các sử gia chú trọng đến những chi tiết dựa trên sưu
tầm uyên bác, ngày tháng chính xác th́ "dân sử" thể hiện cảm xúc trực
tính của nhân dân. Các sử gia ghi lại sử sách bằng sở học, bằng đầu óc.
Dân gian truyền tụng huyền sử bằng cảm t́nh, bằng con tim. Trong lúc
sách vở th́ có đọc mới biết, sự truyền tụng dân gian, ở đâu cũng có thể
biết, lúc nào cũng có thể nghe. Mục đích của người viết sử là muốn nêu
lên những "cái gương chung cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà
biết cái sự sinh hoạt của người trước...". Sự khen chê của các sử gia
thường chừng mực, đắn đo, dựa nhiều trên lư trí và ảnh hưởng văn hóa hấp
thụ, đôi khi là ngoại nhập. Sử truyền khẩu cũng nhằm khuyên người đời
noi theo những tấm gương tốt của người xưa và phê phán những điều tiêu
cực trong quá khứ. Những đánh giá của quần chúng xuất phát từ tấm ḷng
mộc mạc b́nh dân, nên rất thẳng thắn, đôi khi khắt khe, nhưng nặng tính
truyền thống dân tộc.
Theo sử gia Trần Trọng Kim th́ "nước Việt ta bắt đầu có sử từ đời nhà
Trần, vào thế kỷ thứ 13". Tức là từ đời Trần, mới có người viết sử. Vị
sử gia đầu tiên đó là ông Lê Văn Hưu, đỗ Bảng Nhăn trong kỳ thi Thái Học
Sĩ đầu tiên năm 1247. Ông đă soạn bộ "Đại Việt Sử Kư" dưới đời vua Trần
Thánh Tôn, ghi chép từ đời Vơ Vương Triệu Đà đến Lư Chiêu Hoàng. Như vậy,
những chuyện xảy ra từ ba ngàn năm trước, khởi đầu từ đời Hồng Bàng trải
qua nhà Thục, nhà Triệu, với chuyện Bà Trưng, Bà Triệu rồi các triều đại
Đinh, Lê Lư, đành rằng có thể sưu tầm sử Tàu, nhưng cũng phải công nhận
truyền sử đă đóng một vai tṛ quan trọng cho việc viết sử nước ta vào
các thời đại trước. V́ vậy, nếu chính sử là những ǵ được truyền lại,
ghi bằng giấy mực, khắc trên gỗ đá th́ dă sử được lưu truyền trong dân
gian bằng lời nói dưới h́nh thức truyện cổ tích, phương ngôn, tục ngữ,
hay thi ca b́nh dân.
"Trâu chết để da, người ta chết để tiếng"
Trước khi có chính sử th́ đă có dă sử. Nhưng không phải từ khi có chính
sử mà dă sử bị mất đi. Thực tế đă chứng minh là không có sự thay thế dă
sử bởi chính sử. Cả hai thể loại sử này song hành tồn tại. Thậm chí đôi
khi người ta c̣n thấy là dă sử có những đánh giá khác với chính sử. Lư
do là trong hơn 700 năm, qua các sử gia vốn là quan lại của triều đ́nh,
cho nên có nhiều việc đương thời khó mà giữ được khách quan.
Những chuyện thượng cổ thời đại bao gồm các truyện cổ tích đời Hồng Bàng
đă được phổ biến rộng răi trong dân gian, bất kể người có học hay không
biết chữ. Đến ngày nay, người Việt Nam nào cũng biết sự tích "bánh dày,
bánh chưng" ca tụng đức vua Hùng Vương thứ 6 là người cha hiền, một vị
vua biết quư những thứ do đất nước sản xuất ra ; ca tụng ḷng hiếu thảo
của hoàng tử nghèo nhất trong 20 ngựi con của vua, nhưng biết lấy nông
phẩm quê hương làm thành những món quà dâng hiến vua cha. Truyện "Phù
Đổng Thiên Vương", nhắn nhủ toàn dân, già trẻ lớn bé đều có bổn phận bảo
vệ tổ quốc khi bị quân giặc xâm lấn, đồng thời cũng nêu cao tinh thần
dũng mănh của dân tộc, có trời giúp khi làm đúng ḷng dân. Truyện "Trọng
Thủy Mỵ Châu"kể lại sự khờ dại của nàng công chúa Mỵ Châu đă bị chồng là
người nước địch đánh lừa lấy mất móng nỏ thần khiến cho đất nước Âu Lạc
bị mất vào tay Triệu Đà. Những truyện cổ tích như "Sơn Tinh, Thủy Tinh",
pha lẫn huyền bí, thần tiên không thiếu ǵ trong cổ sử nước ta.
Nhưng từ khi ông Lê Văn Hưu dưới triều vua Trần Thánh Tôn chép sử từ đời
Triệu Đà đến Lư Chiêu hoàng và ông Ngô Sĩ Liên soạn lại bộ Đại Việt Sử
Kư dưới thời vua Lê Thánh Tôn, tức là vào thế kỷ thứ 15, ghi chép từ đời
Hồng Bàng đến vua Lê Thái Tổ, chúng ta đă có lịch sử với những chi tiết
sưu tầm. Các triều đại kế tiếp nhau, những thăng trầm của ṇi giống với
nhiều biến cố, nhiều nhân vật đă được lịch sử ghi chép. Từ đó, người ta
không c̣n phân biệt chính sử hay dă sử nữa mà những ǵ được ghi chép
trong sách sử đều là lịch sử của nước ta. Lịch sử, hay nói văn hoa là
bia sử đă ghi công những anh hùng liệt nữ hay phê phán những kẻ thoán
đoạt, phản bội, những kẻ độc ác, vô nhân, dù là vua chúa hay quan quyền
trong suốt hành tŕnh của dân tộc hướng về tương lai.
Nền văn hóa nước ta, tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm của Trung Quốc với triết
lư Khổng Tử, Lăo Tử và Đạo Phật (Bắc tông) từ thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
nhất (111 trước Tây Lịch), nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng biệt của
giống ṇi. V́ bản chất hiền ḥa, bao dung của dân tộc ta mà những tôn
giáo, những nền luân lư đó đă được dung nạp ở đất Giao Châu và bám rễ
vào tâm khảm con người và xă hội Việt Nam. V́ vậy, ngay từ cái thuở hồng
hoang khai thủy, dân tộc ta đă biết phân biệt cái tốt, cái xấu, cái đúng,
cái sai. Một nền cương thường đạo lư đă sớm xuất hiện và trở nên khuôn
mẫu cho xă hội chúng ta từ thời dựng nước. Con người Việt Nam được đào
tạo trong gia đ́nh với những giá trị tinh thần cao quư. Đức tính đặc
trưng của người Việt Nam từ xưa là không những hiếu thảo trong gia đ́nh,
trung quân ái quốc ngoài xă hội, mà c̣n biết v́ đại nghĩa xả thân, hướng
về nhân quần xă hội mà phục vụ. Trong lúc chúng ta chưa có chữ viết,
những đức tính đặc trưng của dân tộc đă được truyền tụng qua phong dao,
tục ngữ để nhắc nhở người đời sau phấn đấu noi theo. Các cụ đă dạy, con
người chỉ sống trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, phải cố gắng học
hành, để thành tài làm được cái ǵ "lưu danh hậu thế". Con trâu là loài
gia súc mà khi chết đi nó c̣n để bộ gia để lợp cái trống. Mỗi khi người
ta đánh cái trống đó, người ta c̣n nhớ đến con trâu đă để lại bộ da tốt
làm cái trống có tiếng kêu to, có độ bền lâu với năm tháng. Con người
Việt Nam cũng vậy, "sĩ diện" là một điều quan trọng trong văn hóa nước
ta. Dân ta, ai làm điều ǵ cũng chú ư cẩn trọng, làm cho có kết quả tốt
đẹp kẻo "mang tiếng". Mang tiếng nhất thời đă là điều phải tránh, lưu
lại tiếng xấu về sau th́ thật là một điều bất hạnh. Theo quan niệm dân
tộc ta, tiếng tốt, tiếng xấu đều ảnh hưởng đến danh dự con người. Nó
không chỉ ảnh hưởng đến danh dự của người hành tác mà c̣n đến cả gia
đ́nh, gịng họ nữa. Một người làm điều hay, cả họ được tiếng "thơm lây".
Đại văn hào Nguyễn Du cũng có mối ưu tư cho tiếng tăm của ḿnh mai sau
khi ông viết : "Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố
Như" nghĩa là "Không biết ngoài ba trăm năm nữa, có c̣n ai khóc Tố Như
?". (Tố Như là tên tự của Nguyễn Du).
"Tiếng lành đồn Xa, tiếng dữ đồn xa"
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của tinh thần bất khuất, tinh thần độc lập
của dân tộc đă có những trang hào hùng lẫm liệt kể lại những cuộc chiến
đấu anh dũng đánh đuổi ngoại xâm. Nhưng cũng có những trang đen tối, đất
nước bị rơi vào tay ngoại xâm, dân tộc lầm than dưới ách nô lệ. Trải qua
biết bao thăng trầm, lịch sử Việt Nam đă có những vị anh hùng dân tộc,
được sử sách khắc ghi. Danh thơm c̣n lưu truyền măi măi về sau, không
những trên miệng lưỡi hậu thế mà c̣n được người đời xây dựng đền đài,
đúc tượng thờ kính. Nhưng trong suốt chiều dài lịch sử cũng có những con
người bị lịch sử lên án. Tiếng xấu không chỉ nằm trong sử sách, tuy
không ghi khắc vào bia đá, nhưng vẫn bị truyền tụng trong dân gian hết
đời này qua đời khác.
Những anh hùng kiệt xuất của dân tộc, những người có tài văn chương thi
phú mà có công trạng với nền văn chương, văn hóa, đương nhiên là tiếng
thơm muôn thuở. Ở đây chỉ nêu lên một số những trường hợp bị sử sách phê
phán và bia miệng chê bai. Đối với nền văn hóa Việt Nam, ngoài những xúc
phạm đến luân thường đạo lư, trên b́nh diện quốc gia, có hai tội lớn mà
dân ta không thể dung thứ : Đó là tội thoán nghịch tức là phản nghịch,
cướp ngôi vua ; và tội bán nước, tức là thông đồng với địch, dâng đất
cho giặc.
Sử gia Trần Trọng Kim kể lại đời Nhà Triệu (207 tr.TL), cháu 4 đời của
Triệu Đà lên làm vua (113 tr. TL) lúc c̣n nhỏ tuổi lấy tên là Triệu Ai
Vương. Mẹ là Cù Thị, người Tàu, trước là nghề ca kỹ, đă tư thông với sứ
nhà Tây Hán là An Quốc Thiếu Quư, xúi Ai Vương tính dâng đất Nam Việt
cho nhà Hán. Âm mưu bị quan thái phó Lữ Gia phát hiện, ông đă điều cấm
quân xông vào cung cấp giết chết mẹ con Cù Thị và sứ nhà Hán, rồi tôn
thái tử Kiến Đức lên làm vua, tức vua Triệu Dương Vương. Dù rằng đối với
một số sử gia không coi Triệu Đà là người Việt v́ ông gốc Tàu, ông không
phục nhà Hán và xưng đế, sát nhập quận Nam Hải và nước Âu Lạc chiếm được
của An Dương Vương lập ra nước Nam Việt, dân ta không để ư đến chi tiết
này, chỉ biết họ Triệu đă chống đánh lại nhà Hán. Nhiều nhà phê b́nh sử
cho rằng ông Lữ Gia là người không có tài nên để chuyện âm mưu bán nước
sắp đến lúc hoàn thành mới ra tay, nhưng không ai kết luận là ông giết
vua để thoán nghịch. Ông đă giết những kẻ âm mưu bán nước cho ngoại
bang.
Đầu thế kỷ thứ 15, Hồ Quư Ly giết vua, cướp ngôi nhà Trần là một trong
những việc bị dân ta kết án. Sau đó Quư Ly lại áp dụng chính sách cai
trị độc tài, khủng bố nên đă bị dân chúng cũng như giới sĩ phu trong
nước bất b́nh. Tuy trên cái nh́n của thời buổi ngày hôm nay, nhiều người
cho rằng Hồ Quư Ly đă làm một cuộc cách mạng kinh tế trước thời đại,
nhưng dưới con mắt của người thời bấy giờ vẫn coi Quư Ly là phường phản
nghịch. Sử gia Phạm Văn Sơn chép rằng khi bị quân Minh đuổi chạy vào đến
Nghệ An, "Ngự đạo được các kỳ lăo ra yết kiến và tâu : "Xứ này tên là Cơ
Lê, có núi tên là Thiên Cầm, đó là điềm không lành, xin nhà Vua chớ lưu
lại ở đây", (chữ cơ lê có nghĩa là trói họ Lê --Quư Ly trước họ Lê--
Thiên cầm là trời bắt). Sự thật các kỳ lăo có ư đọc trệch chữ Kỳ La ra
Cơ Lê. Chữ Thiên Cầm chỉ có nghĩa là đàn trời.... Quư Ly hiểu rơ tên
sông núi Thanh Nghệ, biết rằng bọn phụ lăo nguyền rủa ḿnh, giận lắm cho
chém hết". Sau đó quả thật Quư Ly và con là Hồ Hán Thương đều bị giặc
Minh bắt ở núi Cơ Lê.
Cũng liên quan đến tội thoán nghịch của Hồ Quư Ly, sau khi Lê Lợi đuổi
được quân nhà Minh ra khỏi bờ cơi, bản B́nh Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trăi,
có đoạn viết : "Gần đây, nhân : Họ Hồ ngang ngược, Ḷng người căm hờn,
Quân Minh thừa dịp hại dân, Đảng nguỵ manh ḷng đem bán nước...".
Liên quan đến Mạc Đăng Dung, cho dù sử gia Phạm Văn Sơn có t́m cách biện
hộ cho họ Mạc về cái tội thoán nghịch hay tự trói đến trước dinh của
tướng Tàu Mao Bá Ôn cầu ḥa, nhưng việc dâng đất 5 động cho Tàu là điều
mà bia miệng vẫn c̣n ghi nhớ.
Chuyện mà người dân Việt Nam ai cũng biết, cũng c̣n nhắc nhở là chuyện
Lê Chiêu Thống "cơng rắn cắn gà nhà", cầu viện với thiên triều để quân
nhà Thanh sang chiếm nước ta khiến vua Quang Trung Nguyễn Huệ phải một
phen đánh đuổi xâm lăng sau chiến thắng Đống Đa, tết Mậu Thân 1789.
Vẫn biết rằng, người xưa có nhiều hoàn cảnh mà phải làm những điều phản
nghịch như sử gia Phạm Văn Sơn thường nói, nhưng bất trung, bất nghĩa,
thông đồng với ngoại bang, phản bội tổ quốc, cắt đất cho giặc đều là
những điều đáng bị dân ta nguyền rủa.
Luận cổ suy kim : đảng CSVN cắt đất cho Trung Quốc
Ngày 30/12/1999, tại Hà Nội đă diễn ra cuộc kư kết "Hiệp Ước Về Biên
Giới Trên Đất Liền" giữa cộng sản Hà Nội và cộng sản Trung Quốc. Hiệp
Ước này đă được Quốc Hội bù nh́n Hà Nội khóa 10 thông qua trong kỳ họp
từ 9/5 đến 9/6/2000. Sau đó đôi bên đă trao đổi Hiệp Ước được hai nước
ban hành. Buổi lễ được tổ chức tại Bắc Kinh, ngày 6/7/2000.
Năm tháng sau khi trao đổi văn kiện, Trần Đức Lương, chủ tịch nước Cộg
Ḥa XHCN Việt Nam đă có mặt tại Bắc Kinh để chứng kiến lễ kư kết Hiệp
Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá Trong Vịnh Bắc
Bộ. Hai hiệp định này, đến nay chưa được Quốc Họi thông qua.
Việc kư kết thỏa ước về biên giới giữa chính phủ hai nước để giải quyết
những vụ tranh chấp là chuyện b́nh thường. Vấn đề đă trở nên sôi nổi từ
tháng 10/2001 khi ông Đỗ Việt Sơn, một đảng viên cộng sản lăo thành với
78 tuổi đời, 54 tuổi đảng đă viết một lá thư ngỏ tung trên mạng
internet, yêu cầu Quốc Hội không phê chuẩn hai Hiệp Định về vịnh Bắc Bộ
nói trên. Theo ông th́ Hiệp Ước về biên giới trên đất liền cũng như trên
Vịnh Bắc Bộ, "Việt Nam đă nhượng bộ quá nhiều". Tuy Hà Nội vẫn dấu nhẹm
nội dung các bản hiệp ước, hiệp định về biên giới, nhưng qua tiết lộ của
nhiều người trong cũng như ngoài Việt Nam th́ ít nhất cộng sản Hà Nội đă
cắt nhượng cho Trung Quốc trên 10.000 cây số vuông trên Vịnh Bắc Bộ và
trên 700 cây số vuông trên đất liền thuộc địa giới tỉnh Cao Bằng và Lạng
Sơn. Theo lời thú nhận của Lê Công Phụng, thứ trưởng ngoại giao và cũng
là trưởng phái đoàn đàm phán về biên giới th́ hiện nay, Ải Nam Quan
thuộc về Trung Quốc. Nhiều nhân chứng đă cho biết Ải Nam Quan hiện nằm
sâu trong đất Tàu. Cũng theo Lê Công Phụng th́ Hà Nội cũng đă cắt nhượng
thác Bản Giốc ở Cao Bằng cho Bắc Kinh.
Việc nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội kư kết những hiệp ước, hiệp định cắt
nhượng đất đai, mặt biển cho Trung Quốc đă gây nhiều thắc mắc không
những trong các tầng lớp nhân dân, mà c̣n trong chính hàng ngũ đảng viên
của họ. Trước đây v́ áp lực nặng nề của quân xâm lược phương Bắc, người
xưa đă có lúc phải cắt đất, nhường dân để cầu ḥa. Tuy vậy, mà bia miệng
c̣n phê phán nặng nề. Ngày nay, kể từ khi Hà Nội "nối lại bang giao" hữu
nghị với Bắc Kinh, không thấy nói có tranh chấp biên giới, không thấy
nói có áp lực chiến tranh mà Việt Nam chống không nổi. Cớ sao có việc
nhượng đất, nhượng biển ? Chắc chắn là có những nguyên nhân sâu xa mà
cộng sản Hà Nội đă dấu diếm. Có thể phải nh́n lại quan hệ Việt - Trung
từ trước đến nay, nhất là từ khi Trung Quốc xâm lăng biên giới năm 1979.
Dân ta đă chứng kiến, sau khi cộng sản Hà Nội, với sự trợ giúp của cộng
sản Trung Quốc và Liên Xô đă thôn tính toàn cơi Việt Nam vào năm 1975,
cộng sản Hà Nội đă ngả hẳn theo phe Liên Xô, chống lại Bắc Kinh. Đầu năm
1979, sau khi Hà Nội xâm lăng Kampuchia lúc ấy đang được sự che chở của
Bắc Kinh, Đặng Tiểu B́nh đă xua quân tiến vào biên giới phía Bắc Việt
Nam. Cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đă thực sự
diễn ra từ ngày 17/2/1979 đến ngày 16/3/1979 với tổn thất nặng nề cho
đôi bên. Phía Trung Quốc thiệt hại 26.000 người chết, 30.000 người bị
thương; phía cộng sản Hà Nội có 30.000 tử thương, 32.000 bị thương và
1.638 tù binh. Quân Trung Quốc đă chiếm được tỉnh lỵ Cao Bằng, Lạng Sơn
và tiến sâu vào nội địa Việt Nam. Theo những chứng nhân là dân cư th́
trong lúc quân Trung Quốc chiếm đóng, họ đă dời các cọc biên giới đă có
từ thời Pháp thuộc vào sâu trong nội địa Việt Nam. Thực ra, cũng theo
tiết lộ của những cán bộ, đảng viên cộng sản Hà Nội, th́ trong cuộc
chiến tranh thôn tính miền Nam, có lúc những người lănh đạo cộng sản Hà
Nội đă mượn quân đội Trung Quốc đem quân vào đất nước ta để bảo vệ miền
Bắc trong lúc họ xua quân đội của họ vào đánh miền Nam. Trong thời gian
này đă có hiện tượng quân Trung Quốc di dời các cột mốc biên giới, lấn
đất của Việt Nam.
Cộng sản thế giới sụp đổ năm 1989 khiến cộng sản Hà Nội bơ vơ trước "kẻ
thù" tư bản trong lúc nội bộ có nhiều xu hướng muốn thay đổi, tranh
giành quyền lực. Cộng Sản Việt Nam đă hồi đầu, nối lại quan hệ với Bắc
Kinh để cầu xin một sự che chở, để t́m một chỗ dựa chính trị đối với thế
giới và nhất là đối với ngay chính nội bộ cộng sản Việt Nam. Theo dơi sự
chạy chọt của Hà Nội kể từ khi Đỗ Mười và Vơ Văn Kiệt sang triều kiến
Bắc Kinh vào tháng 11/1991 và kư kết các văn kiện nối lại bang giao giữa
hai nước, người ta thấy rơ tham vọng ngàn đời của Trung Quốc không v́
chế độ cộng sản mà khác đi, và dù rằng thế giới cộng sản không c̣n nữa,
bản chất của cộng sản Việt Nam vẫn không thay đổi, tức là vẫn lệ thuộc
quan thầy. Nhưng qua vụ biên giới, người ta thấy rơ là cộng sản Hà Nội
đă tiến xa hơn một bậc : đó là họ đă đánh rơi chiếc mặt nạ dân tộc giả
hiệu và đă lộ chân tướng bán nước cầu vinh.
Kết Luận
Lịch sử Việt Nam chứng tỏ dân tộc ta có một nền văn hóa rất bao dung.
Việc đánh giá, phê b́nh của các sử gia uyên bác c̣n có thể không chính
xác; nhưng những phê phán của nhân dân ta rất là chí t́nh, chí lư. "Miệng
đời" là cái ǵ rất đáng quan tâm. Có những lỗi lầm mà sử xanh cũng như
bia miệng không tha thứ được. Đó là phản quốc và bán nước.
Trong suốt chiều dài gần 5000 năm lịch sử của dân tộc, nước ta đă bao
lần đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc. Nhưng dù ta thắng trận, ta cũng
biết cái thế của nước ta là một nước nhỏ sát nách với một nước lớn, luôn
luôn nḥm ngó và có ư đồ thôn tính nước ta. V́ thế tiền nhân ta đă khôn
khéo dùng tài ngoại giao để giữ yên bờ cơi. Mặc cho triều đ́nh phương
Bắc coi ta là chư hầu, miễn là ta giữa được độc lập, tự chủ. Trung Quốc
muốn xâm lăng nước ta là không được. Quân nhà Hán đă tan tành trên sông
Bạch Đằng. Quân Mông Cổ 3 lần bỏ chạy. Quân nhà Minh đă phải nhục nhă
rút quân về Tàu. Quân Nhà Thanh thảm bại ở đất Thăng Long... Sự thông
hiếu sau các cuộc chiến tranh long trời lở đất không khiến cho tiền nhân
ta bị lệ thuộc. Đó là sự khác biệt cơ bản với quan hệ giữa cộng sản Hà
Nội ngày nay với quan thầy Bắc Kinh. Sau chiến tranh biên giới năm 1979,
đảng CSVN đă bao lần chạy chọt với "thiên triều" cầu phong và sau khi
tổng bí thư đảng CSVN chịu cắt đất, dâng biển mới được Bắc Kinh ban cho
"16 chữ vàng" như sự bảo đảm cho tập đoàn lănh đạo ngồi yên vị. Hà Nội
sung sướng với 16 chữ là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai". Ngẫm nghĩ cho kỹ th́ đây là những
sợi dây trói cổ tập đoàn lănh đạo cộng sản Hà Nội và v́ họ mà nhân dân
cả nước ta sẽ bị liên lụy. Tập đoàn lănh đạo cộng sản Hà Nội quả thật là
những Ai Vương, Cù Thị, tệ hại hơn Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống. Ngàn
đời sau, người dân ta c̣n truyền tụng hành động phản quốc, bán nước ngày
hôm nay.
Trần Trọng Nghĩa |