| |
|
-
TỤC NGỮ
-
-
THANH LĂNG
-
-
I. H̀NH THỨC TỤC
NGỮ
1. Định nghĩa
Trước khi nói đến h́nh thức tục ngữ, ta nên phân biệt mấy danh từ hay bị
dùng lẫn lộn.
Tục ngữ (tục: thói quen có từ lâu đời; ngữ: lời nói) là những câu
nói gọn ghẽ, có ư nghĩa, lưu hành từ xưa do cửa miệng người đời truyền
lại.
Ngạn ngữ, cũng nghĩa như tục ngữ: v́ chữ ngạn có nghĩa là lời nói
người xưa truyền lại.
Phương ngôn, là những câu tục ngữ chỉ lưu hành trong một vùng chứ
không thông dụng khắp nước.
Cách ngôn, là những câu tục ngữ có nghĩa cao xa.
2. Thể cách và kết cấu
Thể cách và kết cấu của tục ngữ đơn sơ, mộc mạc chứ chưa được điêu luyện
như ca dao. Thường được cấu tạo do ba phương pháp sau đây:
a. Hội ư suy loại: Là đặt một câu cho có ư nghĩa c̣n lời chỉ cần
xác đáng, gọn ghẽ:
Nước đổ lá khoai.
Đèn soi ngọn cỏ.
Chó cắn áo rách.
b. Đối tự, đối ư: Cao hơn một nấc, cách cấu tạo thứ hai, tuy chưa
để ư đến vần điệu, đă có nhiều cố gắng về h́nh thức: đặt câu phải có hai
vế đối nhau, hoặc đối ư hoặc đối chữ.
Giơ
cao, đánh sẽ.
Giầu điếc, sang đui.
No nên bụi, đói nên ma.
c. Thanh âm hưởng ứng: Vượt hẳn hai thể cách trên về mọi phương
diện: ngoài việc đặt câu cho cân xứng, nhà văn c̣n phải chú trọng nhất đến
âm luật, đặt cho trong một câu có nhiều tiếng vần với nhau. Vần trong tục
ngữ thường là yêu vận chứ ít khi có cước vận. Cách gieo vần trong tục ngữ
hết sức tự do.
Những câu một vế: chỉ có yêu vận và thường là hai tiếng tiếp liền
nhau:
Tay làm hàm nhai.
Những câu có nhiều vế: vần có thể là chữ nhất câu dưới:
Khôn cho người ta dái
Dại cho người ta thương.
Vần ở chữ nh́ câu dưới:
Người giầu tham việc
Thất nghiệp tham ăn.
Vần ở chữ ba câu dưới:
Của người bồ tát
Của ḿnh lạt buộc.
Vần ở chữ tư câu dưới:
Sống về mồ mả
Không sống về cả bát cơm.
Vần ở chữ năm câu dưới:
Biết th́ thưa thốt
Không biết th́ dựa cột mà nghe.
Vần ở chữ sáu câu dưới:
Trông mặt mà bắt h́nh dong,
Con lợn có béo th́ ḷng mới ngon.
Như thế, ta nhận thấy trừ lối gieo vần ở chữ sáu câu dưới, tức thể lục
bát, c̣n ở các lối trên vẫn thường là vần trắc, họa hoằn mới có vần bằng.
II. NỘI DUNG TỤC NGỮ
Tục ngữ có thể gọi là cái túi khôn của người Việt Nam. Sự tinh khôn đây
không phải là triết lư cao siêu, tư tưởng thâm trầm, huyền bí. Đây chỉ là
những điều thường thức mà lương tâm dân chúng gom góp lại, như những luật
luân lư thực hành, hoặc ghi nhớ những kinh nghiệm thực tế. Như vậy, ta
nhận thấy nội dung của tục ngữ khác hẳn nội dung của câu đố, ca Huế, hay
ca dao. Tục ngữ là con người lư trí của đất Việt. Câu đố, ca Huế hay ca
dao là con người t́nh cảm huyết thống của ḍng dơi Trương Chi, Chử Đồng
Tử.
Tục ngữ, v́ thế thường diễn giải hai sự trạng luân lư và kinh nghiệm.
1. Luân lư thường thức
Nói đến luân lư, tức là nói đến bổn phẩn, đến sứ mạng phải chu toàn. Con
người ở thời nào cũng thế, vẫn phải đầy đủ hai bổn phận: với chính ḿnh và
với người khác.
Với ḿnh. Thu lại tất cả tục ngữ, ta sẽ có một cuốn luân lư rất đầy đủ về
đạo tu thân: huấn luyện t́nh cảm, huấn luyện lư trí, huấn luyện xă hội…
Người ta sinh ra cần phải giáo dục:
Cá không ăn muối cá ươm,
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.
Ăn uống phải cẩn thận đừng có bừa băi:
Vạ bởi miệng ra,
Bệnh chẳng qua bởi miệng vào.
Quần áo phải sạch sẽ:
Đói cho sạch,
Rách cho thơm.
Cư xử phải khôn ngoan:
Ăn cỗ đi trước,
Lội nước đi sau.
Đời sống phải trong sạch:
Sống đục sao bằng thác trong.
Với người ta. Ngoài những bổn phận đối với bản thân, con người sống trong
xă hội c̣n phải có những tư cách khả dĩ làm cho cuộc sống xă hội trở nên
yên vui, ḥa thuận. Tư cách xă hội nhiều khi c̣n là cách thế giúp ta thành
công.
Nói ngọt lọt đến xương.
Làm phúc như làm giàu.
2. Kinh nghiệm thường thức
Đây là những nhận xét thường thức về tâm lư, về phong tục người, về thời
tiết, về nông nghiệp.
Tâm lư người đời:
Dao năng liếc th́ sắc,
Người năng chào th́ quen.
Phong tục Việt Nam:
Một miếng giữa làng
Bằng một sàng xó
bếp.
Thời tiết
Chớp đông nhay nháy
Gà gáy th́ mưa.
Nông nghiệp
Lúa giỗ, ngả mạ,
Vàng rạ th́ mạ xuống được.
Đó là những câu ta được nghe cửa miệng người dân quê Việt Nam từ sáng chí
tối trong lúc nhàn rỗi ngồi dạy dỗ con cái cũng như trong khi làm ăn lặn
lội ngoài đồng. Đến cái túi khôn của dân tộc Việt, một cụ nho đă nói: “Các
cụ đời xưa đặt ra tục ngữ, phương ngôn thật là đi guốc trong bụng chúng
ḿnh chứ không sai”. Lời đó cực tả cái giá trị của tục ngữ về đường tâm lư
cũng như về đường phong tục.
-
-
THANG LĂNG
- Nguồn: AN VIỆT
TOÀN CẦU
|
|