Không phải bây giờ, các nhà nghiên cứu 
		mới băn khoăn chuyện “danh” và “thực” trong công cuộc bảo tồn di sản. 
		Năm 1993, lần đầu tiên cả đất nước Việt Nam vinh dự có tên trong danh 
		sách những Di sản văn hoá Thế giới với di sản cố đô Huế. Hơn ai hết, 
		lănh đạo tỉnh Thừa Thiên – Huế là những người hiểu rơ nhất về giá trị 
		của cố đô Huế, với hệ thống cung điện, đền đài, lăng tẩm... c̣n lại khá 
		nguyên vẹn, như một pho sử sống về triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt 
		Nam. Nhưng đùng một cái, đầu năm 2005, người dân cả nước mới biết bên bờ 
		sông Hương, trên đồi Vọng Cảnh, cũng chính những người nắm quyền quản lư 
		cao nhất ở Thừa Thiên – Huế kư quyết định xây một khách sạn lớn. Những 
		ai từng đến Huế đều biết, đồi Vọng Cảnh là một địa điểm nổi tiếng thơ 
		mộng, từ đây có thể ngắm nh́n toàn cảnh thượng nguồn sông Hương, thành 
		phố Huế. Vọng Cảnh có một giá trị khá đặc biệt đối với cảnh quan sông 
		Hương và quần thể di tích các lăng tẩm xung quanh.
		Nếu ngày ấy, không có báo chí ra sức 
		“đấu” về khách sạn trên đồi Vọng Cảnh th́ có lẽ giờ, một công trường xây 
		dựng khách sạn với bê tông cốt thép những máy khoan máy xúc ầm ầm hoạt 
		động sẽ phá tan cảnh quan của khu vực được xem là thơ mộng nhất của cố 
		đô Huế này.
		Được UNESCO công nhận là Di sản Văn 
		hoá thế giới, điều ấy tất nhiên, là vô cùng quan trọng. Nó chứng tỏ được 
		nhiều điều, khi đó, di sản của người Việt, không chỉ c̣n giới hạn trong 
		đất nước h́nh chữ S này nữa, mà nó đă là di sản của nhân loại, di sản 
		mang tính toàn cầu. Nhưng dẫu sao, tấm bằng “Di sản” của UNESCO vẫn chỉ 
		là cái danh. Cũng như chức danh “Giáo sư”, chưa hẳn đă nói lên tŕnh độ 
		của người được mang cái “danh” ấy. Cái “danh” là di sản của nhân loại, 
		liệu có quan trọng bằng cái “thực” – hay việc di sản ấy được bảo tồn như 
		thế nào.
		Sau vụ “đ́nh đám” về đồi Vọng Cảnh, ít 
		ai biết rằng, một di sản văn hoá khác của Việt Nam, được UNESCO công 
		nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại đang bị phá hoại 
		một cách không thương tiếc. Hơn nữa, lại bị phá hoại một cách “có tổ 
		chức” hẳn hoi. Nạn nhân lần này là cồng chiêng Tây Nguyên.
		Có một điều rất đáng lưu ư, là UNESCO 
		công nhận “không gian văn hoá cồng chiêng”, chứ không công nhận cồng 
		chiêng ở khía cạnh một nhạc khí, hay một nghệ thuật biểu diễn. Hiểu đơn 
		giản, UNESCO công nhận cồng chiêng trong không gian sống của nó, trong 
		một tổng thể những sinh hoạt văn hoá – xă hội – tín ngưỡng – tâm linh 
		của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà những chiếc cồng chiêng chỉ là 
		một bộ phận cấu thành. Muốn hiểu rơ thêm điều này, nhất thiết phải hiểu 
		trong đời sống của đồng bào Tây Nguyên, cồng chiêng có vai tṛ như thế 
		nào?
		Theo quan niệm của các già làng M’nông 
		ở tỉnh Đắk Nông th́: “Cồng chiêng có thể giúp cho con người thông tin 
		trực tiếp với thần linh, với các Yàng (trời), là chiếc cầu nối giữa các 
		thành viên trong cộng đồng. Cồng chiêng không được sử dụng một cách bừa 
		băi, chỉ được sử dụng trong các nghi lễ, lễ hội của các gia đ́nh và buôn 
		làng ”. Cồng chiêng luôn gắn với đời sống tâm linh của các dân tộc Tây 
		Nguyên, và như vậy, “tính thiêng” được h́nh thành và phát triển thành 
		một không gian văn hoá cồng chiêng - không gian văn hoá có các yếu tố 
		tâm linh chi phối. Nh́n lại lịch sử âm nhạc, cồng chiêng là một phương 
		tiện để biểu đạt đời sống tinh thần của rất nhiều dân tộc trên thế giới. 
		Nhưng không phải ở bất kỳ tộc người nào, “tính thiêng” của cồng chiêng 
		cũng đều chi phối không gian văn hoá của họ. Nói cách khác, với các dân 
		tộc thiểu số Tây Nguyên, một khi cồng chiêng thoát khỏi không gian văn 
		hoá có yếu tố tâm linh chi phối th́ nó không c̣n là nó nữa.
		Nhưng giờ đến du lịch Tây Nguyên, cứ 
		có tiền, là du khách được xem đánh cồng chiêng – phương tiện giao tiếp 
		với thần linh, với trời khi xưa. Người ta tổ chức hẳn những đội cồng 
		chiêng chuyên đi “đánh thuê” phục vụ khách du lịch. Nhà văn Nguyên Ngọc, 
		người từng nhiều năm gắn bó với đồng bào Tây Nguyên cực lực phản đối 
		chuyện “festival hoá” cồng chiêng, hay nói cách khác, là “sân khấu hoá”, 
		tầm thường hoá cồng chiêng. Cũng theo ông, rất nhiều già làng Tây Nguyên 
		phản đối việc đem “phương tiện để giao tiếp với Yàng” của đồng bào Tây 
		Nguyên đem ra đánh bính boong trên sân khấu. Chắc rằng, chủ nhân của 
		không gian văn hoá cồng chiêng, sẽ c̣n thất vọng hơn, khi biết rằng, sau 
		“thành công của Festival văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên”, các nhà chức 
		trách c̣n dự định tổ chức một Festival cồng chiêng quốc tế tại Tây 
		Nguyên!
		Trên đây, là cách hành xử với những di 
		sản văn hoá của Việt Nam đă được UNESCO công nhận, c̣n với những di sản 
		đang trong lộ tŕnh trở thành di sản văn hoá thế giới th́ sao? Chúng tôi 
		gặp nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Ca trù Thái Hà khi 
		Việt Nam đang lập hồ sơ đề nghị công nhận ca trù là di sản. Câu lạc bộ 
		Ca trù Thái Hà, là câu lạc bộ do ông Nguyễn Văn Mùi lập lên. Các thành 
		viên đều là con cháu ông Mùi. Quan trọng hơn, họ đều là hậu duệ của ḍng 
		họ Nguyễn, một ḍng họ khi xưa từng có nhiều ca nương, kép đàn phục vụ 
		cung đ́nh nhà Nguyễn. Khi được hỏi về suy nghĩ khi ca trù sắp bước lên 
		một “nấc thang mới”, ông Mùi cho biết: “Được công nhận th́ tốt quá c̣n 
		ǵ. Nhưng giá như được quan tâm để ca trù thoát cảnh “xuân thu nhị kỳ”, 
		cứ có dịp nào đó mới gọi chúng tôi hát vài buổi, bồi dưỡng ít tiền th́ 
		hay biết mấy”. Đó chẳng qua cũng là một cách nói khác về chuyện “danh” 
		và “thực” trong công tác bảo tồn của người nghệ nhân già – người từng 
		trải nhiều cay đắng với ca trù.
		Người ta vẫn bàn về chuyện “cứu” ca 
		trù, nhưng bàn nhiều mà làm ít. Gia đ́nh nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi vẫn 
		chưa nguôi ngoai khi nhớ lại lớp dạy hát ca trù mà gia đ́nh ông tham gia 
		cách đây vài năm. Đáng buồn là lớp dạy đó, do Quỹ Ford – quỹ của hăng xe 
		ô tô lớn thứ ba thế giới tổ chức – tài trợ chứ không phải do ngân sách 
		chi ra của ngành văn hoá!
		Những ngày này, dư luận nói nhiều đến 
		Hoàng thành Thăng Long đang trên đường trở thành di sản văn hoá thế giới, 
		khi bộ hồ sơ công phu về Hoàng thành Thăng Long đă được hoàn thành và 
		được đệ tŕnh lên UNESCO. Tuy chủ yếu là phế tích, những giá trị mang 
		tính toàn cầu của Hoàng thành Thăng Long là không thể phủ nhận. Đó là sự 
		kết hợp hài hoà các phong cách kiến trúc châu Á, kỹ thuật xây dựng, quy 
		hoạch đô thị, nghệ thuật tạo h́nh,... mang giá trị lịch sử về một trung 
		tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước trong gần 1.000 năm. Một 
		điều đặc biệt nữa, trên một phạm vi khai quật không lớn tại 18 Hoàng 
		Diệu, nhưng chúng ta thấy nhiều tầng văn hoá nối tiếp nhau từ thời An 
		Nam đô hộ phủ - Đại La thế kỷ VII-IX; rồi thời Lư, Trần, Lê sơ đến Mạc, 
		Lê trung hưng thế kỷ XI-XVIII đến thời Nguyễn thế kỷ XIX, mang bề dày 
		lịch sử - văn hoá từ thời Thăng Long và gần 1.000 năm thời Thăng Long - 
		Hà Nội. Đây là điều cực hiếm ở các kinh đô trên thế giới. Với những lư 
		do này, những nhà nghiên cứu cũng như nhân dân thủ đô rất tự tin về khả 
		năng Hoàng thành Thăng Long trở thành Di sản văn hoá thế giới.
		Nếu Hoàng thành Thăng Long rồi tiếp đó, 
		quan họ, ca trù, rối nước... được công nhận là di sản văn hoá vật thể và 
		phi vật thể của thế giới th́ Việt Nam đang dần trở thành một “cường quốc” 
		về di sản văn hoá thế giới. Nhưng trước khi tự hào, với cách bảo tồn 
		kiểu như xây đồi Vọng Cảnh hay sân khấu hoá cồng chiêng, chúng ta có là 
		người thừa kế xứng đáng những di sản mà cha ông để lại?
		Kinh Bắc