|
Cách xưng
hô trong gia đình Việt Nam
(http://forum.gocit.vn/threads/cach-xung-ho-trong-gia-dinh-vit-nam.4237/)
Có người cho rằng việc xưng hô trong tiếng Việt rất phức tạp và
gây phiền phức trong khi giao thiệp. Cứ ” you, me” hay ” toi,
moi” ráo trọi như trong tiếng Anh tiếng Pháp có phải tiện hơn
không? Thực ra, cách xưng hô trong tiếng Việt không phức tạp và
không phiền phức. Nó rất phong phú, rõ ràng, có tôn ti trật tự,
và rất văn minh. Cách xưng hô trong tiếng Việt tự nó không gây
phiền phức. Nếu có phiền phức chăng nữa, đó là do người sử dụng
nó không biết cách mà thôi.
Cách xưng hô trong tiếng Việt tượng
trưng cho một nền văn minh lâu đời về gia giáo và việc giao tế
ngoài xã hội. Lễ phép và tôn ti trật tự phân minh là cách để ta
phân biệt giữa dân tộc có văn hiến lâu đời với dân tộc mới phát
triển và giữa loài người với loài thú cùng bọn quỉ đỏ. Từ ngày
có bọn quỉ đỏ, tức là bọn Cộng Sản Việt Nam, việc xưng hô trong
tiếng Việt đã bị bọn này phá hoại tận gốc rễ vì bọn chúng khuyến
khích cách xưng hô bằng đồng chí, anh, chị mà không kể tuổi tác,
ngôi thứ, thân sơ, và không có tôn ty trật tự gì cả. Già cũng
đồng chí và trẻ cũng đồng chí. Lớn tuổi cũng anh chị và nhỏ tuổi
cũng chị anh.
Để hiểu rõ cách xưng hô trong tiếng
Việt, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại phong tục Việt Nam về cách
xưng hô. Trong phạm vi gia đình và họ hàng ta có cách xưng hô
riêng cho mỗi người. Trong xã hội cũng thế, ta có cách xưng hô
đặc biệt dành cho từng người ta quen biết. Trong phạm vi bài này,
chúng tôi trình bày những điều liên quan đến cách xưng hô trong
gia đình mà thôi.
I. Danh Xưng Dành Cho Mỗi Thứ Bậc
về Liên Hệ Gia Đình
Người sinh ra ta được gọi là cha mẹ.
Cha mẹ của cha mẹ, cô, dì, chú, và bác của ta được gọi là ông bà.
Cha mẹ của ông bà được gọi là cụ. Cha mẹ của cụ được gọi là kỵ.
Các ông cha đời trước nữa được gọi là tổ tiên. Cha mẹ sinh ra
các con. Những người con này là anh chị em ruột của nhau gồm có
các anh trai, các chị gái, các em trai , và các em gái.
Người con trai đầu lòng của cha mẹ
mình gọi là anh cả (người Bắc và Trung) hay anh hai (người Nam).
Anh hai còn có nghĩa là tiền trong nghĩa của câu: ” Trong túi
không có anh hai thì không làm gì được.” Người con gái đầu lòng
của cha mẹ mình gọi là chị cả (người Bắc và Trung) hay chị hai (người
Nam). Từ chị cả còn có nghĩa là vợ cả trong ý của câu ca dao sau:
” Thấy anh, em cũng muốn chào, / Sợ rằng chị cả giắt dao trong
mình.” Người con trai thứ hai gọi là anh thứ (người Bắc và Trung)
hay anh ba (người Nam). Từ anh ba còn được dùng để gọi một người
đàn ông con trai nào đó như trong trường hợp của câu ca dao sau:”
Anh Ba kia hỡi anh Ba, /Đầu đội nón dứa tay bưng ba cơi trầu./
Trầu này em chẳng ăn đâu,/ Để thương để nhớ để sầu anh Ba, / Để
em bác mẹ gả chồng xa,/ Thà rằng lấy quách anh Ba cho gần!” Từ
anh Ba còn để chỉ người đàn ông Hoa kiều.
Người con trai thứ bảy trong gia
đình gọi là anh bảy (người Bắc). Từ anh bảy còn để gọi người Ấn
Độ hay người Nam Dương.
Khi ta lấy vợ hay lấy chồng và sinh
ra các con (con trai và con gái), con của các con ta gọi là cháu
(sẽ nói rõ trong phần sau), con của cháu ta gọi là chắt, con của
chắt ta gọi là chút, và con của chút ta gọi là chít. Vợ của các
con trai ta gọi là con dâu. Chồng của các con gái ta gọi là con
rể.
Các anh chị em của cha mẹ ta gồm có:
chú, bác, cô, dì, cậu, mợ, và dượng (sẽ nói rõ ở mục sau).
II. Cách Xưng Hô Trong Gia Đình
Thứ bậc 10 đời trong gia đình gồm có:
tổ tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ, con, cháu, chắt, chút, và chít.
Con của chúng ta gọi chúng ta là cha mẹ. Con của các con chúng
ta gọi chúng ta là ông bà. Con của con gái chúng ta gọi chúng ta
là ông bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại, hay gọi tắt là ngoại. Con
của con trai chúng ta gọi chúng ta là ông bà nội, ông nội, bà
nội, hay gọi tắt là nội. Chắt của chúng ta gọi chúng ta là cụ.
Chút của chúng ta gọi chúng ta là kỵ. Và chít của chúng ta gọi
chúng ta là tổ tiên.
Danh xưng của hai gia đình có con
cái lấy nhau gồm có: thông gia, thân gia, hay sui gia. Tiếng
xưng hô giữa hai sui gia với nhau hay với bạn bè: ông bà thông
gia, ông bà thân gia, ông thân, bà thân, ông bà sui gia, ông
sui, và bà sui.
1. Xưng Hô Với Cha Mẹ:
Tiếng gọi cha mẹ trong khi nói
chuyện với bạn bè và trong lúc xưng hô với cha mẹ gồm có: bố mẹ,
cha mẹ, ba má, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song
thân, các cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các
cháu, v.v.
Tiếng xưng hô với mẹ gồm có: má, mẹ,
me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm, và đẻ, v.v Tiếng xưng hô với cha gồm
có: bố, ba, thầy, cha, cậu, và tía, v.v.
Tiếng xưng hô với mẹ nhiều hơn tiếng
xưng hô với cha. Điều này chứng tỏ người mẹ gần gũi các con
nhiều hơn bố. Nhờ đó mà tình cảm giữa các con và mẹ đằm thắm hơn
và có nhiều tiếng để xưng hô hơn. Tiếng gọi cha mẹ vợ gồm có:
ông bà nhạc, ông nhạc, bà nhạc, cha mẹ vợ, cha vợ, và mẹ vợ,
v.v.
Tiếng gọi cha vợ khi nói chuyện với
bạn gồm có: nhạc phụ, nhạc gia, bố vợ, ông nhạc, cha vợ, ông
ngoại các cháu, và trượng nhân, v.v.
Tiếng gọi mẹ vợ khi nói chuyện với
bạn bè gồm có: mẹ vợ, má vợ, bà nhạc, bà ngoại các cháu, nhạc
mẫu, v.v.
Tiếng gọi cha mẹ chồng gồm: cha mẹ
chồng, cha chồng, mẹ chồng, các cụ thân sinh của nhà tôi, ông bà
nội của các cháu, và những từ giống như phần dành cho cha mẹ
mình. Khi nói chuyện với cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng, tùy theo nề
nếp gia đình, ta chỉ cần xưng hô như đã đề cập ở trên, trong
phần xưng hô với mẹ cha. Người chồng sau của mẹ mình gọi là cha
ghẻ, kế phụ, cha, cậu, hay dượng. Người vợ sau của cha mình gọi
là mẹ ghẻ, mẹ kế, hay kế mẫu.
2. Cách Xưng Hô Với Anh Chị Em
của Cha Mẹ và Ông Bà
Anh của cha gọi là bác, em trai của
cha là chú, chị của cha còn được gọi là bác gái. Em gái của cha
là cô hay o (ca dao có câu ” Một trăm ông chú không lo, chỉ lo
một nỗi mụ o nỏ mồm.” ). Có nơi chị của cha cũng được gọi là cô
hay o.
Anh của mẹ gọi là bác hay cậu, em
trai của mẹ là cậu, chị của mẹ là già hay bác gái, và em gái của
mẹ là dì. Có những gia đình bắt con cái gọi cậu và dì bằng chú
và cô vì muốn có sự thân thiết giống nhau giữa hai gia đình bên
ngoại và bên nội, tức là bên nào cũng là bên nội cả.
Vợ của bác (anh của cha hay mẹ) gọi
là bác gái, vợ của chú gọi là thím, và chồng của cô hay dì gọi
là chú hay chú dượng hay dượng, chồng của bác gái hay già gọi là
bác hay bác dượng, và vợ của cậu là mợ.
Anh trai của ông bà nội và ông bà
ngoại mình gọi là ông bác (bác của cha hay mẹ mình), em trai của
ông nội và ông ngoại là ông chú (chú của cha hay mẹ mình), chị
của ông bà nội và ông bà ngoại hay vợ của ông bác gọi là bà bác,
em gái của ông nội ông ngoại mình gọi là bà cô (cô của cha mẹ
mình), em trai của bà nội bà ngoại gọi là ông cậu (cậu của cha
hay mẹ mình), em gái của bà nội bà ngoại gọi là bà dì (dì của
cha mẹ mình), và chồng của bà cô và bà dì gọi là ông dượng (dượng
của cha hay mẹ mình). Tuy nhiên, trong lối xưng hô hàng ngày,
người ta thường gọi giản tiện là chú, bác, ông hay bà để thay
cho chú dượng, bác gái, ông bác, ông chú, ông cậu, ông dượng, bà
bác, bà cô, hay bà dì.
3. Xưng Hô Với Anh Chị Em:
Anh của vợ hay anh của chồng gọi là
anh hay bác, còn khi nói chuyện với người khác thì dùng ông anh
nhà tôi, anh của nhà tôi, anh vợ tôi , hay anh chồng tôi. Tiếng
anh chồng còn dùng để gọi chồng của một người đàn bà nào đó
trong nghĩa của câu: Anh chồng thì đi vắng chỉ có chị vợ ở nhà
mà thôi. Chị của chồng hay chị của vợ gọi là chị hay bác, còn
khi nói chuyện thì dùng chị chồng, chị vợ, bà chị của nhà
tôi,v.v. Em trai của chồng hay vợ gọi là em hay chú.
Em gái của chồng hay vợ gọi là em,
cô, hay dì. Các từ bác, chú, cô hay dì trong các trường hợp xưng
hô với anh chị là cách chúng ta gọi thế cho con mình và có nghĩa
là anh, chị, em của mình.
- Các tiếng xưng hô về chị em còn
gồm có: Chị em gái: chị em toàn là gái. Chị em ruột: chị em cùng
cha mẹ trong đó có em trai. Chị gái hay chị ruột: người chị cùng
cha mẹ. Chị họ: chị cùng họ với mình. Chị em chú bác, chị em con
chú con bác, chị em thúc bá: các con gái và con trai của em trai
và anh bố mình, trong đó người con gái là chị. Chị em con cô con
cậu: con gái và con trai của em gái bố và em trai mẹ, trong đó
người con gái là chị. Chị em bạn dì, chị em đôi con dì con già:
các con gái và con trai của chị hay em gái mẹ trong đó con gái
là chị. Chị em bạn dâu: chị em cùng làm dâu trong một nhà. Chị
dâu: vợ của anh mình.
- Các tiếng xưng hô về anh chị em
gồm có: Anh chị là tiếng các em gọi anh chị hay cặp vợ chồng anh
chị mình, tiếng cặp vợ chồng tự xưng với các em của họ, tiếng
gọi cặp vợ chồng của bạn mình, tiếng cha mẹ dùng để gọi vợ chồng
con trai hay con gái mình, và tiếng dùng để gọi những kẻ ăn chơi
giang hồ, cờ bạc trong nghĩa của từ ” dân anh chị.” Anh chị em
là tiếng người ta dùng để gọi các con trong gia đình như trong
câu ” Anh chị em nhà ấy có hiếu.” Tiếng ” anh chị em” còn dùng
để gọi chung đàn ông đàn bà hay con trai con gái trong nghĩa của
câu ” Hỡi các anh chị em nghe đây!” Anh chị em bạn dì hay anh
chị em đôi con dì con già để chỉ các con trai con gái của chị và
em gái mẹ trong đó người con trai là anh. Anh em con chú con bác
hay anh em thúc bá để chỉ con trai con gái của em và anh bố mình,
trong đó người con trai là anh. Anh em con cô con cậu để chỉ con
trai con gái của em gái bố và em trai mẹ trong đó người con trai
là anh. Anh em bạn rể hay anh em cột chèo để chỉ các ông chồng
của chị vợ hay em vợ. Anh rể : chồng của chị mình. Tất cả những
người con của anh và chị của cha đều là anh và chị của ta ( anh
chị họ nội). Các người con của anh và chị của mẹ cũng là anh và
chị của ta (anh chị họ ngoại)
- Các tiếng xưng hô về em gồm có: Em
là tiếng chỉ các người con do cha mẹ sinh ra sau mình gồm có em
trai em gái và là tiếng gọi các người con của cô, dì, và chú của
mình. Em dâu: vợ của em mình. Em rể: chồng của em mình. Em út:
tiếng để chỉ người em cuối cùng do cha mẹ mình sinh ra. Tiếng em
út còn có nghĩa là đàn em, dùng để chỉ bộ hạ tay chân của người
ta trong nghĩa của câu: ” Đám em út của tôi sẽ giúp anh chuyện
đó, đừng có lo.” Họ nội và gia đình bên nội là họ và gia đình
của cha mình. Họ ngoại và gia đình bên ngoại là họ và gia đình
bên mẹ mình.
4. Xưng Hô Với Vợ Chồng:
Tiếng xưng hô với vợ gồm có: em,
cưng, mình, bu nó, má, má mày, má nó, má thằng cu, mẹ, mẹ nó, mẹ
đĩ, nhà, bà, bà xã, bà nó, ấy, mợ, mợ nó, đằng ấy, v.v.
Tiếng gọi vợ trong khi nói chuyện
với người khác gồm có: nhà tôi, bà nhà tôi, má tụi nhỏ, má sắp
nhỏ, má bày trẻ, tiện nội, nội tướng tôi, bà xã, bà xã tôi, và
vợ tôi, v.v. Tiếng xưng hô với chồng gồm có: anh, cưng, anh nó,
ba, ba nó, bố, bố nó, bố mày, bố thằng cu, đằng ấy, ông xã, cậu,
cậu nó, ông, ông nó, cụ, ấy, mình, v.v.
Tiếng gọi chồng trong khi nói chuyện
với người khác gồm: nhà tôi, ông nhà tôi, ba tụi nhỏ, ba sắp nhỏ,
ba bày nhỏ, phu quân tôi, ông xã, ông xã tôi, chồng tôi, trượng
phu tôi, anh ấy, v.v.
Tình vợ chồng người Việt rất đằm
thắm, họ yêu nhau với tất cả chân tình, đối đãi với nhau rất
lịch sự và tương kính. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao
giờ gọi nhau bằng mày và xưong tao. Họ tìm những lời lẽ dịu dàng
đầy tình tứ yêu thương để gọi nhau. Chính vì thế mà tiếng xưng
hô giữa vợ chồng người Việt có rất nhiều, hơn hẳn tiếng xưng hô
của vợ chồng người Tây phương. Những cặp vợ chồng có giáo dục
không bao giờ chửi thề và văng tục với nhau, nhất là trước mặt
bạn bè.
5. Xưng Hô Với Con Cháu:
Con trai đầu lòng của mình gọi là
con trai trưởng hay con trai trưởng nam (có người gọi một cách
thân mật là cậu trưởng tôi, thằng trưởng nam nhà tôi). Vợ của
con trai là con dâu. Vợ con trai trưởng nam là con dâu trưởng.
Con gái đầu lòng gọi là trưởng nữ. Chồng của con gái là con rể.
Chồng của con gái đầu lòng là con rể trưởng. Tất cả các con trai
hay con gái kế tiếp được gọi la thứ nam hay thứ nữ. Người con
được sinh ra trước tiên còn được gọi là con cả hay con đầu lòng.
Con trai hay con gái cuối cùng của gia đình gọi là con út, út
nam, hay út nữ. Nếu vợ chồng chỉ có một con, trai hoặc gái, thì
người con đó được gọi là con một. Con của vợ hay của chồng có
trước hay sau khi lấy nhau gọi là con ghẻ hay con riêng. Đứa con
mới đẻ ra gọi là con đỏ. Con còn nhỏ gọi là con mọn. Khi người
đàn ông già rồi mới có con, người ta gọi cảnh đó là cảnh cha già
con mọn. Con gia đình quyền thế gọi là con ông cháu cha. Con của
con trai mình gọi là cháu nội (cháu nội trai, cháu nội gái); con
trai đầu lòng của con trai trưởng nam là cháu đích tôn, đích tôn
thừa tự, hay đích tôn thừa trọng, tức là cháu trưởng nối nghiệp
lớn của ông bà và giữ việc thờ cúng tổ tiên sau này. Con của con
gái mình gọi là cháu ngoại (cháu ngoại trai, cháu ngoại gái).
III. Đặc Tính Lịch Sự và Lễ Phép
Trong Cách Xưng Hô của Người Việt
Từ lâu đời, người Việt mình có
truyền thống về lễ phép và lịch sự trong cách xưng hô. Các con
cháu có lễ phép và có giáo dục thường biết đi thưa về trình chứ
không phải muốn đi thì đi muốn về thì về. Khi nói chuyện với bố
mẹ và ông bà, con cháu thường dùng cách thưa gửi và gọi dạ bảo
vâng chứ không bao giờ nói trống không với người trên. Người
Việt chúng ta thường dùng tiếng thưa trước khi xưng hô với người
ở vai trên của ta, chẳng hạn như: ” Thưa mẹ con đi học. Thưa ông
bà con đã về học. Thưa cô con về. Thưa ba, ba bảo con điều chi
ạ?”
Khi trả lời bố mẹ hay ông bà, con
cháu thường dùng chữ ” dạ, ạ, vâng ạ, vâng.” Nếu bà mẹ gọi con:
” Tư ơi?” thì khi nghe thấy, người con phải thưa: ” Dạ.” Nếu
người mẹ nói tiếp: ” Về ăn cơm!” người con phải nói: ” Vâng.” (người
Bắc) hay ” Dạ.” (người Nam). Người ta còn dùng chữ ” ạ” ở cuối
câu để tỏ vẻ kính trọng và lễ phép. Thí dụ:” Chào bác ạ! Vâng
ạ!”
Trong cách xưng hô với người ở vai
trên của ta, ta không bao giờ gọi tên tục (tên cha mẹ đạt cho)
của ông bà, cha mẹ, cô cậu, dì dượng, và chú bác. Chúng ta chỉ
xưng hô bằng danh xưng ngôi thứ trong gia đình mà thôi. Nếu ông
có tên là Hùng, ba có tên là Chính, và chú có tên là Tài chẳng
hạn, ta chỉ nói là:” Mời ông bà xơi cơm, mời ba má dùng trà, mời
cô chú lại chơi.”
Đối với người trên, chúng ta không
được dùng tiếng ” cái gì” để hỏi lại một cách trống không vì nó
nghe có vẻ vô lễ. Người ta thường thế từ ” cái gì” bằng từ ”
điều chi” cho lịch sự và lễ độ. Thay vì hỏi: ” Cái gì?” hay ” Ba
bảo con cái gì?” thì hỏi: ” Ba bảo con điều chi ạ?” Từ ” cái gì”
chỉ sử dụng với người ngang hàng mà thôi. Thí dụ: ” Anh hỏi tôi
cái gì?” hay ” Chị nói cái gì vậy?”
Trong cách xưng hô với anh chị em,
chúng ta dùng từ anh, chị, hay em đứng trước tên hay ngôi thư.
Thí dụ: ” Anh Hùng đi vắng, em An đang học bài, chị Kim ra má
bảo, v.v.”
Các em không được phép gọi anh chị
bằng tên trống không. Tuy nhiên, anh chị có thể gọi các em bằng
tên trống không hay thêm từ em vào trước tên để gọi. Thí dụ: ”
Hải ra chị bảo cái này!” hay ” Em Hải ra chị bảo cái này!”
Anh chị em trong một gia đìng có
giáo dục không gọi nhau bằng mày và xưng là tao bao giờ. Những
người con gọi nhau bằng mày và xưng tao là do lỗi của bố mẹ
không biết dạy bảo các con ngay từ khi chúng còn nhỏ. Các con
gọi nhau bằng mày xưng tao mãi rồi thành thói quen. Khi đã thành
thói quen thì chúng không thể đổi cách xưng hô cho đúng phép
được.
Cha mẹ phải dạy con cái về cách xưng
hô ngay từ khi chúng còn nhỏ. Muốn chúng chào ai, cha mẹ phải
nói cho chúng biết cách chào và bắt chúng lập lại, chẳng hạn như
cha mẹ nói: ” Chào bác đi con!” Các con sẽ nói: ” Chào bác ạ!”
Khi có bà con họ hàng thân thuộc đến
chơi nhà, cha mẹ phải giới thiệu họ với các con mình và nhắc
chúng cách chào. Nếu các con mình chơi ở ngoài sân hay ở trong
buồng trong khi có thân nhân đến chơi nhà, ta phải gọi chúng ra
để chào bà con.
Khi cha mẹ đến chơi nhà con cái, nếu
trong nhà đang có khách, các con phải giới thiệu cha mẹ với
khách và giới thiệu khách với cha mẹ. Có như thế việc xưng hô
trong câu chuyện mới tự nhiên và thân mật. Bận cho đến mấy hay
bất cứ vì lý do gì, ta cũng phải thực hiện cho bằng được việc
giới thiệu khi có khách đến chơi nhà để mọi người biết nhau hầu
tiện cho việc xưng hô. Những người ở vai trên hay bậc trên phải
được giới thiệu trước.
Đối với trẻ, ta nên nhắc lại việc
chào hỏi nhiều lần chứ đừng tưởng bảo chúng một lần mà chúng nhớ
đâu. Chính vì thề mà một nhà giáo dục người Pháp đã viết ” La
répétition est l’ âme de l’enseignement” (Việc nhắc lại là linh
hồn của việc giáo huấn). Về phạm vi giáo dục, việc ” nhắc lại”
hay ” lập đi lập lại” có nghĩa là ôn tập thường xuyên: văn ôn vũ
luyện.
Có biết xưng hô đúng cách, bà con
mới thân cận nhau. Không biết cách xưng hô, dần dần bà con sẽ xa
lánh nhau. Có săn đón nhau bằng câu chào lời mời đúng cách, tình
gia đình họ hàng mới gắn bó lâu bền. Chính vì thế mà tục ngữ ta
có câu: ” Lời chào cao hơn mâm cỗ.”
Trong việc dạy trẻ về cách xưng hô
và chào hỏi, ta không nên quá khắt khe với chúng. Giải thích và
khuyến khích là cách tốt nhất để dạy trẻ. Nếu chúng quen cách
xưng hô ở Bắc Mỹ này mà chào ta là ” Hi Bác!” ta cũng đừng nổi
giận mà chửi chúng. Trong trường hợp này, ta nên vui vẻ xoa đầu
trẻ và chỉ cho chúng cách chào cho đúng cách của người Việt: ”
Chào Bác ạ!” Đừng bao giờ nổi nóng với trẻ vì chúng chưa hiểu và
cần phải được dạy dỗ. Khi ta nổi nóng lên là phát cơn điên thì
kẻ khôn hóa dại ngưới hiền hóa ngu.
Việc xưng hô và chào hỏi còn tùy
thuộc ở sự thân tình nữa. Nếu ta thường xuyên thăm trẻ hay chăm
nom và săn sóc trẻ với tất cả chân tình, trẻ sẽ cảm thấy và tự
nhiên chúng sẽ quí mến ta và vồn vã chào hỏi ta.
Việc dạy trẻ trong vấn đề xưng hô và
chào hỏi cần phải kiên nhẫn, khéo léo, và có nghệ thuật. Không
miễn cưỡng được. Nếu trẻ không muốn chào, ta phải từ từ giải
thích cho chúng hiểu. Khi hiểu, chúng sẽ vui vẻ chào khách. Đừng
quá khắt khe với chúng kẻo ta mắc phải khuyết điểm ” giáo đa
thành oán.”
CÁCH XƯNG HÔ
Ông sơ, bà sơ: Cao tổ phụ, cao tổ mẫu.
Chít: Huyền tôn.
Ông cố, bà cố: Tằng tỉ phụ, tằng tỉ mẫu.
Chắt: Tằng tôn.
Ông nội, bà nội: Nội tổ phụ, nội tổ mẫu.
Cháu nội: Nội tôn.
Ông nội, bà nội chết rồi thì xưng: Nội tổ khảo, nội tổ tỷ.
Cháu xưng là: Nội tôn.
Cháu nối dòng xưng là: Đích tôn (cháu nội).
Ông ngoại, bà ngoại: Ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu (cũng gọi là
ngoại công, ngoại bà).
Ông ngoại, bà ngoại chết rồi thì xưng: Ngoại tồ khảo, ngoại tổ
tỷ.
Cháu ngoại: Ngoại tôn.
Ông nội vợ, bà nội vợ: Nhạc tổ phụ, nhạc tổ mẫu.
Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng: Nhạc tổ khảo, nhạc tổ
tỷ.
Cháu nội rể: Tôn nữ tế.
Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, hiền tỷ.
Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử, cô nữ (cô tử: con trai,
cô nữ: con gái).
Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử, ai nữ.
Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, cô ai nữ.
Cha ruột: Thân phụ.
Cha ghẻ: Kế phụ.
Cha nuôi: Dưỡng phụ.
Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ.
Con trai lớn (con cả, con thứ hai): Trưởng tử, trưởng nam.
Con gái lớn: Trưởng nữ.
Con kế. Thứ nam, thứ nữ.
Con út (trai): Quý nam, vãn nam. Gái: quý nữ, vãn nữ.
Mẹ ruột: Sanh mẫu, từ mẫu.
Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ kêu vợ lớn của cha là má hai:
Đích mẫu.
Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu.
Mẹ có chồng khác: Giá mẫu.
Má nhỏ, tức vợ bé của cha: Thứ mẫu.
Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu.
Bà vú: Nhũ mẫu.
Chú, bác vợ: Thúc nhạc, bá nhạc.
Cháu rể: Điệt nữ tế.
Chú, bác ruột: Thúc phụ, bá phụ.
Vợ của chú: Thiếm, Thẩm.
Cháu của chú và bác, tự xưng là nội điệt.
Cha chồng: Chương phụ.
Dâu lớn: Trưởng tức.
Dâu thứ: Thứ tức.
Dâu út: Quý tức.
Cha vợ (sống): Nhạc phụ, (chết): Ngoại khảo.
Mẹ vợ (sống): Nhạc mẫu, (chết): Ngoại tỷ.
Rể: Tế.
Chị, em gái của cha, ta kêu bằng cô: Thân cô.
Ta tự xưng là: Nội điệt.
Chồng của cô: Dượng (Cô trượng, tôn trượng).
Chồng của dì: Dượng (Di trượng, biểu trượng).
Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm.
Còn ta tự xưng là: Sanh tôn.
Cậu vợ: Cựu nhạc.
Cháu rể: Sanh tế.
Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn.
Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm.
Vợ bé: Thứ thê, trắc thất.
Vợ lớn: Chánh thất.
Vợ sau (vợ chết rồi cưới vợ khác): Kế thất.
Anh ruột: Bào huynh.
Em trai: Bào đệ (cũng gọi: Xá đệ).
Em gái: Bào muội (cũng gọi: Xá muội).
Chị ruột: Bào tỷ.
Anh rể: Tỷ trượng.
Em rể: Muội trượng.
Anh rể: Tỷ phu.
Em rể: Muội trượng, còn gọi: Khâm đệ.
Chị dâu: Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử.
Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức.
Chị chồng: Đại cô.
Em chồng: Tiểu cô.
Anh chồng: Phu huynh: Đại bá.
Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc.
Chị vợ: Đại di.
Em vợ (gái): Tiểu di tử, Thê muội.
Anh vợ: Thê huynh: Đại cựu: Ngoại huynh.
Em vợ (trai): Thê đệ, Tiểu cựu tử.
Con gái đã có chồng: Giá nữ.
Con gái chưa có chồng: Sương nữ.
Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử.
Tớ trai: Nghĩa bộc.
Tớ gái: Nghĩa nô.
Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn con của trưởng tử đứng để
tang, gọi là: Đích tôn thừa trọng.
Cha, mẹ chết chưa chôn: Cố phụ, cố mẫu.
Cha, mẹ chết đã chôn: Hiền khảo, hiển tỷ.
Mới chết: Tử.
Đã chôn: Vong.
Anh em chú bác ruột với cha mình: Đường bá, đường thúc, đường
cô, mình tự xưng là: Đường tôn.
Anh em bạn với cha mình: Niên bá, quý thúc, lịnh cô. Mình là
cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, lịnh điệt.
Chú, bác của cha mình, mình kêu: Tổ bá, tổ túc, tổ cô.
Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn.
Đại từ xưng hô trong văn hoá giao tiếp của người Việt miền Tây
Nam Bộ
http://khoanguvan.com.vn/nghien-cuu/van-hoa-lich-su-triet-hoc/276-2015-01-08-08-57-10.html
Văn hoá giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ là một trong những lĩnh
vực thể hiện đậm nét đặc trưng văn hoá của từng dân tộc, từng
khu vực hay nhỏ hẹp hơn là của từng miền. Bởi lẽ, văn hoá giao
tiếp của từng dân tộc, từng khu vực, từng miền ấy chính là sản
phẩm của một khối chủ thể thống nhất, được sinh ra trong quá
trình khối chủ thể ấy tương tác với môi trường và được lưu giữ
lại những đặc trưng của nó trong suốt một thời gian lâu dài. Có
thể nói rằng, văn hoá giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ là một
trong những bộ phận mang dấu ấn của văn hoá một cách đậm nét
nhất.
Ở
Việt Nam, người Việt đã cộng cư với nhiều tộc người thiểu số bản
địa và ngoại lai, trong đó, khối người Việt ở miền Tây Nam Bộ
trong quá trình Nam tiến và định hình văn hoá đã gắn chặt vận
mệnh lịch sử của mình với cộng đồng người Hoa và Khmer. Mặt
khác, với một tâm thức của những con người đi mở cõi đứng trước
một miền đất mới mẻ, những tầng lớp tiên dân này đã trở thành
những con người mới, và chính họ sẽ là chủ nhân trên miền đất
Tây Nam Bộ này. Là một tầng lớp con người mới, sống ở trên dải
đất mới, họ đã hình thành cho mình những nét văn hoá giao tiếp
và nghệ thuật ngôn từ khác biệt rất nhiều với những vùng miền
khác, tuy rằng họ vẫn lưu giữ lại những vốn liếng ngôn từ và
phong cách giao tiếp vốn xuất phát từ cái nôi đã sản sinh ra nó:
vùng văn hoá Bắc Bộ. Có thể nói rằng, văn hoá giao tiếp và nghệ
thuật ngôn từ của người Việt miền Tây Nam Bộ như là một bộ mặt
mới trong văn hoá giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ truyền thống
của người Việt.
Trong bài viết này, chúng tôi chú trọng đến một khía cạnh nhỏ
của văn hoá giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ: cách sử
dụng đại từ xưng hô.
1. Theo chúng tôi, cách sử dụng đại từ xưng hô của người Việt
miền Tây Nam Bộ chủ yếu được hình thành trên những yếu tố sau:
1. lối xưng hô trong cơ tầng văn hoá truyền thống; 2. điều kiện
tự nhiên miền Tây Nam Bộ; 3. lối xưng hô của các tộc người thiểu
số bản địa hoặc di cư, trong đó, yếu tố Hoa là đậm nét nhất.
Ảnh hưởng từ lối xưng hô truyền thống của người Việt
Trong môi trường làm nông nghiệp có lịch sử lâu đời, con người
cần tranh thủ sự hỗ trợ của người khác nên người Việt Bắc Bộ
thường xuyên trau chuốt lời ăn tiếng
nói của mình. Đối với họ, “ăn có nhai, nói có nghĩ”, “lời nói
chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Chính
vì vậy, người Việt thường có lối “xưng khiêm, hô tôn”, tức tự hạ
thấp mình và nâng người khác lên cao.
Khi hai người cùng trang lứa gặp nhau, người ta thường tự xưng
là
em và gọi đối phương là anh / chị. Khi đã quen
biết và thân thiết nhau, người ta thường sử dụng cặp đại từ
tớ – cậu, hoặc mình – cậu. Ở những người đàn ông
trung niên, cặp đại từ em – bác lại được sử dụng như một
phương thức thể hiện lòng kính trọng của bản thân với đối
phương. Trong gia đình, khi em trai hay em gái lập gia đình,
người làm anh hay chị sẽ thể hiện sự tôn trọng của mình đối với
em rể hoặc em dâu bằng cách tự xưng là anh / chị
hoặc tôi và gọi là dượng (đối với em rể), thím
(anh đối với em dâu), mợ (chị đối với em dâu); thậm chí,
khi đã lập gia đình, em út trong nhà cũng được nâng vị trí lên
cao bằng cách gọi là chú (anh đối với em trai), cậu
(chị đối với em trai), cô (anh đối với em gái) hay dì
(chị đối với em gái).
Khi vào vùng đất Tây Nam Bộ sinh cơ lập nghiệp, con người nơi
đây vẫn luôn giữ gìn lại một hình ảnh của một người “cũ” ở nơi
chôn nhau cắt rốn, do vậy, lối xưng hô kiểu “xưng khiêm hô tôn”
này vẫn được sử phổ biến, nhất là ở những vùng nông thôn với
kiểu xưng hô. Lối xưng hô này được xem là một trong những chuẩn
mực để đánh giá tính lịch sự, nền nếp của một người, nhất là
người phụ nữ đã có chồng (“ngôn” là một trong tứ đức của người
phụ nữ: công, ngôn, dung, hạnh).
Ảnh hưởng từ điều kiện tự nhiên miền Tây Nam Bộ
Ở
vùng châu thổ Bắc Bộ, người Việt đã sinh sống và canh tác đất
phù sa từ hàng ngàn năm trước công nguyên, vì vậy, nơi đây đất
hẹp người đông, từ xưa đã hình thành một khu vực làm nông nghiệp
khép kín.
Trong khi đó, ở miền Tây Nam Bộ, người Việt di cư đã làm chủ
trên những mảnh đất màu mỡ được bồi đắp từ hệ thống sông Cửu
Long, dân cư lại thưa thớt, vì thế mà hình thành những làng xã
mang tính mở. Sống trong vùng đất ít tính cạnh tranh như thế,
con người trở nên sống thật với bản thân hơn và sống thật với
người khác hơn. Do vậy, tuy lối “xưng khiêm hô tôn” vẫn được xem
là tiêu chuẩn của một con người có giáo dục, nhưng ở nơi đây vẫn
rất phổ biến lối xưng hô tao – mày. Cặp đại từ xưng hô
này không chỉ dành riêng cho những người thân thiết cùng trang
lứa, mà nó còn xuất hiện trong trường hợp người trên (tiền bối)
nói với người dưới (hậu bối). Ngược lại, những người dưới có thể
xưng là tui (tức tôi) đối với những người trên.
Lối xưng hô này có thể được xem như là sản phẩm của điều kiện
sống thuận lợi, mỗi người đều có thể nhấn mạnh đến cái tôi cá
nhân của mình và ý thức được vai trò xã hội của mình. Mặt khác,
lối xưng hô mở này (tức dùng cho nhiều trường hợp) một
phần cũng đã phản ánh thái độ phóng khoáng, bình đẳng như chính
thiên nhiên nơi đây đã có.
Ảnh hưởng từ lối xưng hô của tộc người Hoa
Trên chiều dài lịch sử, người Hoa sống trên lãnh thổ Trung Quốc
đại lục và cảng đã tích luỹ một kho tàng văn hoá vô cùng đặc sắc
và lâu dài và có một khả năng lan toả văn hoá một cách mãnh
liệt. Do vậy, nhóm người Minh hương trong quá trình di cư sang
miền Nam Việt
Nam
đã tạo nên một cuộc tiếp xúc văn hoá sâu đậm với người Việt. Một
trong dấu đó chính là việc sử dụng các đại từ xưng hô trong cuộc
sống thường nhật. Trong đó, khu vực các tỉnh Sóc Trăng, An
Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Tiền Giang… vẫn còn lưu giữ nhiều dấu
tích của quá trình tiếp xúc văn hoá này.
2. Xuất phát từ những yếu tố trên, đại từ xưng hô của người Việt
miền Tây Nam Bộ trở nên vừa quen vừa lạ đối với những người Việt
trên các vùng miền khác. Những điểm tương đồng và khác biệt đó
đã tạo nên những đặc trưng riêng trong cách sử dụng đại từ xưng
hô của người Việt miền Tây Nam Bộ.
2.1. Tính trọng tình, trọng mối quan hệ
Nếu ở Bắc Bộ, nền văn hoá nông nghiệp lúa nước lâu đời đã khiến
cư dân nơi đây chú trọng đến việc sử dụng các đại từ xưng hô sao
cho khéo léo, văn nhã, vận dụng tối đa lối xưng khiêm hô tôn, do
vậy, đối với người đồng đẳng, người ta thường xưng em gọi
bác hoặc xưng tớ gọi cậu, cha mẹ gọi con
cái đã trưởng thành (bao gồm cả con rể và con dâu) theo cấu trúc
anh / chị + thứ bậc, như anh cả, chị tư...
Đồng thời, do thuyết chính danh theo học thuyết Nho giáo đã bám
rễ vững chắc trong lòng văn hoá Bắc Bộ nên người ta thường gọi
đối phương theo chức danh, cách gọi này tương tự như cách gọi
của người Trung Quốc, Hàn Quốc. Chúng ta có thể bắt gặp kiểu gọi
như: cậu cử, ông tú, ông nghè, ông ký…
Ở
Tây Nam Bộ, cách xưng hô của người Việt mang đậm tính xem trọng
mối quan hệ hơn (nhất là mối quan hệ theo huyết thống), ít mang
tính khách sáo, xã giao. Trong cách xưng hô chênh lệch một cấp
bậc với người ngoài, người ta thường xưng là con mà không
phải hoặc ít khi là cháu, vì theo mối quan hệ huyết
thống, con có huyết thống gần hơn so với cháu. Thậm chí, người
Việt miền Tây Nam Bộ còn hỏi thứ bậc để khi xưng hô sẽ tăng thêm
mối quan hệ huyết thống, như: dì hai, chú tư… Nếu đã biết thứ
bậc mà chỉ gọi duy nhất một đại từ xưng hô như dì, chú, bác… thì
cũng chưa được xem là đúng chất Tây Nam Bộ. Trong quyển Folk
culture of the Viet people in Southern Vietnam (Văn hoá dân
gian người Việt ở Nam Bộ) có viết: “Đối với nữ lớn hơn mình một
cấp, để thể hiện tình cảm thân mật và kính trọng, thì thường gọi
bằng dì hoặc dì hai và tự xưng là con,
cháu hoặc tui đều được” [Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh
Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992: 240].
Giữa những người đồng đẳng, thay vì xưng em gọi bác,
người Việt miền Tây Nam Bộ đã kéo mối quan hệ lại gần hơn bằng
cách xưng em hoặc tui và gọi anh / chị + thứ
bậc, như anh hai, chị ba. Thậm chí, đối với
trường hợp chênh lệch hai cấp bậc, người ta còn xưng con
và gọi ngoại (cho lẫn ông và bà). Kiểu xưng hô này khiến
người ta cảm thấy giữa những người xa lạ được kết nối lại với
nhau, trở thành thành viên trong gia đình. Điều này có thể xuất
phát từ điều kiện sống của người Việt nơi đây: khi vào Nam khai
phá, lúc ấy đất rộng người thưa, con người cảm thấy cô đơn và
hụt hẫng vì phải lìa xa quê cha đất tổ, trong khi “nơi đây xứ
sở lạ lùng, con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh”,
thì nhu cầu được quan tâm, chia sẻ bằng tình cảm chân thật lại
trở nên vô cùng bức thiết. Do vậy, không còn xuất phát từ việc
lấy lòng nhau trong không gian sống chật hẹp như ở vùng châu thổ
Bắc Bộ, việc xưng hô bằng đại từ chỉ mối quan hệ gia đình (theo
huyết thống) trở thành một chuẩn tắc chung cho các thế hệ sau ở
nơi đây.
2.2. Tính hào sảng
Trên thực tế, người Việt miền Tây Nam Bộ vốn xuất thân từ thành
phần nông dân phiêu tán, những tù khổ sai, những trí thức bất
mãn trước thời cuộc, những binh lính đào ngũ… của vùng Ngũ Quảng
đã dám rũ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình, “trước mặt họ là
biển cả, sau lưng họ là chế độ phong kiến đang xua đuổi” [Nguyễn
Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường 1990: 30]. Do vậy, họ không
cần phải sống chỉ theo lề thói truyền thống, mà họ còn dám sống
với ý nghĩ của mình. Ở nơi đây, họ có thể sống vì lý lẽ, vì bản
thân, sống để làm giàu, sống để hưởng thụ những thú vui ngắn
ngủi trong đời. Chính vì thế, họ sẵn sàng vứt bỏ những tập quán
phức tạp không phù hợp, những sự khéo léo giả tạo, sự cam chịu
trước khó khăn, mà thay vào đó là sự giản dị, sòng phẳng, chân
thật…
Trong lối xưng hô, người Việt miền Tây Nam Bộ cũng thể hiện bản
chất của khách “tứ chiếng giang hồ” này. Một trong những từ được
người Tây Nam Bộ sử dụng nhiều nhất chính là tôi (ngôi số
1) và ông / bà (ngôi thứ 2). Ở Bắc Bộ và Trung Bộ và cả
Đông Nam Bộ, cấp trên được gọi thân mật là sếp và bản
thân tự xưng là em thì ở Tây Nam Bộ, chất dân chủ, không
phân ngôi thứ và chất sòng phẳng sẵn có của người dân nơi đây đã
khiến chữ sếp bị biến dạng để trở thành chữ síp,
thậm chí còn thay bằng đại ca. Đặc biệt, chữ tôi
vốn được sử dụng ở ngôi thứ nhất một cách hạn chế hay có chút
nghiêm trang trong hầu hết các trường hợp ở Bắc Bộ và Trung Bộ,
khi đi vào Nam Bộ và nhất là Tây Nam Bộ thì nó đã bị thay thế
bằng biến thể của nó là tui. “Trong ca dao nói
chung, đại từ tôi, vốn mang tính chỉ định cá thể cao, ít
xuất hiện. Thế nhưng, trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long lại
có nhiều mô hình xưng hô mà ngôi thứ nhất lại mạnh dạn dùng
tui” [Nguyễn Văn Nở 2000].
Có thể nói rằng, với lối sống giản dị, phóng khoáng và có chút
ngang tàng của người Việt miền Tây Nam Bộ, những cặp đại từ xưng
hô mang tính trang nghiêm hay tỏ ý kính trọng đối phương một
cách khách sáo đã trở nên khập khiễng, ngượng nghịu. Đối với
những trường hợp đó, người ta thường tạo ra những biến thể bằng
cách thay đổi nguyên âm theo quy luật chung (đổi nguyên âm rộng
thành nguyên âm hẹp, như ê → i, ô → u, a → ơ, như cơm nếp →
cơm níp, thối → thúi, mai → mơi) [Nguyễn Kim Thản 1984:
142]; thay đổi thanh điệu (thay thanh một [không dấu], thanh hai
[huyền], thanh sáu [nặng] thành thanh ba, tức thanh hỏi). Vì
vậy, ngoài cặp đại từ xưng hô em – síp, em – đại ca,
tui – ông / bà, đối với đại từ xưng hô ngôi thứ ba là
ông ấy / bà ấy / anh ấy / chị ấy / cậu ấy, em ấy…, người ta
còn đơn giản hoá cách gọi này bằng cách giản lược từ chỉ ngôi
thứ ba là “ấy”, đồng thời, thay thanh điệu thành thanh thứ ba,
tức là hiện tượng hỏi hoá đại từ ngôi thứ ba: ổng / bả /
ảnh / chỉ / cẩu / ẻm… Thậm chí, chúng ta còn có thể bắt gặp hiện
tượng gộp ba âm tiết lại thành một âm tiết bằng cách hỏi hoá
đối với âm tiết giữa và tắc thanh hầu đối với âm tiết đầu
tiên: thằng cha ấy → chả, con mẹ ấy → mẻ. Đây là
hiện tượng sử dụng đại từ xưng hô tương đối phổ biến trong dân
gian người Việt miền Tây Nam Bộ, dù rằng đây bị xem là cách thể
hiện sự bất kính tột độ trong văn hoá giao tiếp của người Việt
Bắc Bộ và Trung Bộ.
2.3. Tính trọng họ ngoại
Trong văn hoá vùng Bắc Bộ và Trung Bộ, do cư dân nơi đây độc tôn
Nho giáo trong thời gian lâu dài (thời kỳ nhà Lê – Bắc Bộ và nhà
Nguyễn – Trung Bộ) nên quan niệm trọng nam khinh nữ luôn được đề
cao. Người con trai là trụ cột của gia đình, và vì thế, dòng họ
nội chiếm ưu thế hơn.
Từ thế kỷ XVII trở đi, người Việt ở Bắc Bộ và Trung Bộ (đa số là
cư dân ở Quảng Ngãi) đã bắt đầu sinh cơ lập nghiệp vùng đất nay
là Nam Bộ. Với hành trang chỉ là bản thân cùng với các dụng cụ
gia đình, những di dân này vứt bỏ lại nơi quê cha đất tổ của
mình những ràng buộc, những câu nệ, khuôn phép… không hợp với
bản chất của những con người nghèo khổ, hèn mọn này. Chính vì
thế, những luân lý và quan niệm của Nho giáo dần dần bị nhạt dần
theo quá trình
Nam
tiến, trong đó có quan niệm trọng nam khinh nữ. Có thể nói rằng,
những người đàn bà di dân này thật sự đã tìm lại được quyền sống
và mưu cầu hạnh phúc của mình chỉ khi họ sẵn sàng sát cánh bên
những người đàn ông, cùng trải qua những gian khó ở vùng đất
mới. Thậm chí, người đàn bà còn chiếm ưu thế nhiều hơn đàn ông,
họ trở thành biểu tượng của sự trung trinh, đảm đang và có cá
tính, trong khi người đàn ông lại ít được đề cao (đàn ông Trung
Bộ và Bắc Bộ vốn chủ yếu được đề cao qua sức học và khả năng làm
quan, trong khi Nam Bộ lại là vùng đất xem nhẹ danh phận). Do
vậy, để thể hiện sự kính trọng trong khi xưng hô, người Việt
miền Tây Nam Bộ thường tránh dùng những từ xưng hô chỉ bên dòng
họ nội.
Do vậy, đối với phụ nữ lớn hơn một cấp, người cấp dưới tự xưng
là con và gọi dì hay dì hai mà không phải
là xưng cháu gọi cô như trong cách giao tiếp của
người Trung Bộ hay Bắc Bộ. Đối với phụ nữ lớn hơn hai cấp, người
cấp dưới tự xưng là con và gọi là bà ngoại hay nói
tắt là ngoại. “Không gọi là bà nội vì như thế là không
kính trọng [Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh
1992: 240]. Đối với đàn ông lớn hơn hai cấp, người ta cũng xưng
con gọi ngoại hoặc ông, nhất thiết không gọi là
nội hay ông nội, vì cách gọi cha nội, ông nội
tương tự như cách gọi ông tướng, ông Trời con, chúng hàm
nghĩa sự khinh bạc, xem thường hay có ý trêu đùa. “Những cách
gọi cha, bà nội, ông nội, ông cố nội, bà cố nội đối với những
người không xứng với những cách xưng hô ấy thì chỉ có nghĩa là
coi thường họ, hoặc không có thiện cảm, thậm chí ác cảm đối với
họ mà thôi” [Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh
1992: 241].
Trong khi đó, để gọi người đàn ông lớn hơn một cấp, người ta
thường gọi là chú hay bác mà không gọi là cậu.
Điều này tưởng chừng như mâu thuẫn với nguyên tắc chung nhưng có
thể được lý giải như sau: người phụ nữ chủ về tình cảm, do vậy,
cần nhấn mạnh đến vai trò của họ ngoại để dẫn dắt tình cảm trong
quan hệ xã giao được tự nhiên hơn; người đàn ông lớn hơn hai cấp
(hàm nghĩa là người già), mang tính âm, thiên về tình cảm hơn
sức mạnh và lý trí, do vậy, việc gọi ông ngoại hay
ngoại cũng có ý nghĩa tương tự; trong khi người đàn ông chỉ
lớn hơn một cấp (hàm nghĩa là người trẻ), mang tính dương, thiên
về sức mạnh và lý trí hơn tình cảm, do vậy, việc gọi cậu
đối với người không có quan hệ huyết thống lại là một điều kiêng
kỵ, vì nó hàm nghĩa châm biếm, coi thường.
2.4. Tính dung hợp văn hoá
Miền Tây Nam Bộ là vùng đất của sự cộng sinh từ những nhóm người
khác nhau, trong đó, chủ thể quan trọng nhất chính là người Việt
từ miền Trung Bộ và Bắc Bộ. Bên cạnh người Việt di cư, người
Pháp và Mỹ trong quá trình tiếp xúc văn hoá cũng để lại những
đặc trưng riêng, như cách gọi ba (từ chữ papa),
má (từ chữ mama) thay cho cách gọi truyền thống là
cha, mẹ hay thầy, u. Người Khmer bản
địa và đoàn người Hoa vượt biển lưu trú tại vùng viễn Tây Việt
Nam cũng để lại dấu ấn văn hoá riêng. Trong số những tộc người
thiểu số ấy, người Hoa gốc Quảng Đông, Triều Châu và Phúc Kiến
có tác động mạnh mẽ hơn cả đến văn hoá người Việt.
Cách sử dụng đại từ xưng hô ngôi thứ hai như chế (chị
[gái]), hia (anh [trai]), tía (cha, đại từ này đặc
biệt đã trở thành một đại từ thay thế cho tuyệt đại đa số các
trường hợp gọi cha hay bố, ba ở miền Tây
Nam Bộ trong thế kỷ XX, và hiện nay vẫn còn được sử dụng phổ
biến ở các tỉnh có nhiều người Hoa sinh sống hoặc gần với khu
vực có người Hoa sinh sống, như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau),
ní (bạn), ý (dì), tài có (anh) và cặp đại từ
xưng hô ngôi số một và số hai là qua (tôi, ta đối với
trường hợp là trưởng bối) – bậu (mình, em, nàng), đã trở
thành một trong những đặc trưng để nhận định mức độ thâm nhập và
gắn kết của văn hoá Trung Hoa trong lòng văn hoá Việt Nam. Đặc
biệt, nếu chế, hia, tía, ní, ý, tài có chỉ
phổ biến ở các tỉnh viễn Tây của đất nước là Sóc Trăng và Bạc
Liêu, thì cặp đại từ xưng hô qua – bậu đã vượt không gian
và lan toả rộng rãi khắp cả miền Tây Nam Bộ, nó cũng được sử
dụng khá phổ biến ở Đông Nam Bộ và một ít ở Trung Bộ.
Theo Bình Nguyên Lộc, cặp đại từ này có lẽ xuất phát từ tiếng
Mạ, theo Nguyên Nguyên thì có lẽ nó xuất phát từ tiếng Mường,
nhưng theo Lê Ngọc Trụ thì cách giải thích cho rằng cặp đại từ
này xuất phát từ tiếng Triều Châu là có lẽ dễ chấp nhận hơn cả.
Trong bài viết của mình, Phan Tấn Tài tán thành quan điểm này và
cho rằng: Nếu “qua” đã là “tôi” từ âm Triều Châu thì “bậu” cũng
rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Tuy Bình Nguyên Lộc có đưa ra
gốc từ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì
được biết trong tiếng Triều Châu có tiếng „pa_u“ hay „pấu“ hay
“bô” (giọng đọc khác nhau tùy vùng: Bạc Liêu, Nam Vang, Sài Gòn)
là vợ, hoặc đàn bà […] Từ pa_u (pấu, bô) này chỉ khi ghép vào
một chữ nữa mới phân rõ ngôi thứ như „cha pấu“, „cha pa_u“,
“chao bô” (=vợ tôi) „deo pa_u“ (= vợ yêu) như ta dùng Hán Việt
“tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền thê ...”. Từ ngữ ghép của chữ
pau (pấu, bô) chỉ có ý nghĩa rất bình thường” [Phan Tấn Tài
2010].
Ngay từ đầu thế kỷ XIX, người Việt miền Tây Nam Bộ đã sử dụng
cặp đại từ xưng hô này, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cặp đại
từ này đã thay thế cho các cặp đại từ khác trong hầu hết các
trường hợp. Có khi người ta còn dùng những biến thể khác để sử
dụng trong những tình huống khác nhau: qua – bậu, qua – em… Cặp
đại từ xưng hô mang đặc trưng của tính dung hợp sẵn có của người
Việt này đã đi sâu vào các hình thức nghệ thuật như văn chương,
cải lương, kịch nói hay ca khúc mang âm hưởng dân gian Tây Nam
Bộ:
“Bậu sang phà Rạch Miễu
Qua lẽo đẽo theo sau
Đội bóng trăng trên đầu
Tưởng như áo cô dâu…”
(Ca khúc Phải lòng con gái Bến Tre – Thơ: Phan Huy Tấn,
lời: Luân Hoán)
Đặc biệt, trong văn học dân gian, cặp đại từ này chiếm một số
lượng đáng kể: 79 từ bậu và 28 từ qua xuất hiện trong 925 câu ca
dao của Tây Nam Bộ được sưu tầm ở trang web e-cadao.com, chiếm
đến 11.56%. “Ngoài cách sử dụng những cặp từ xưng hô thường thấy
trong ca dao nói chung, chúng ta còn thấy những cách nói riêng
mang đậm tính địa phương và phản ánh lời ăn, cách nói, nếp nghĩ
của cư dân vùng cực Nam của Tổ quốc. Nổi bật nhất là cặp từ xưng
hô “qua- bậu” và những biến thể của cặp xưng hô này”
[Nguyễn Văn Nở 2000].
3. Lời ăn tiếng nói là một lĩnh vực gắn liền với lối suy nghĩ
của con người. Ở miền Tây Nam Bộ, cách sử dụng các đại từ xưng
hô phần nào cũng thể hiện được tính cách, hoàn cảnh sống của
người Việt. Đó là một lớp từ được gói ghém lại từ nơi nó được
sinh ra và được mang đến miền đất mới bằng những con người mang
tâm thức mới. Do đó, một mặt nó vẫn thể hiện đầy đủ tính chất
chung của lối xưng hô truyền thống, một mặt lại được thay đổi để
phù hợp hơn trong hoàn cảnh tồn tại ở miền đất Tây Nam.
Trần Duy Khương
Khoa Ngữ văn, ĐH Thủ Dầu Một
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường 1990: Văn hoá &
cư dân đồng bằng sông Cửu Long. NXB Khoa học Xã hội
-
Nguyễn Kim Thản 1984: “Về tiếng nói vùng đồng bằng sông
Cửu Long”. In trong Lê Anh Trà 1984: Mấy đặc điểm văn
hoá đồng bằng sông Cửu Long (cb). NXB Viện Văn hoá
-
Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992:
Folk culture of the Viet people in Southern Vietnam. –
Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội
-
Nguyễn Văn Nở. Cách xưng hô trong ca dao trữ tình đồng
bằng sông Cửu Long. In trong Kỷ yếu học ngữ
Trẻ 2000
http://www.ctu.edu.vn/colleges/education/bmnv/nvno.html9.html
-
Phan Tấn Tài 2010: Qua và bậu trong văn thơ miền Nam
Tại sao người miền Nam gọi anh Cả là “anh Hai”?
Ngôn ngữ là loại hình văn hoá phi vật thể, phản ánh văn
hoá vùng, miền rất rõ nét. Cách xưng hô “anh Cả” ở miền Bắc so
với “anh Hai” ở miền Nam là điển hình.
http://baocamau.com.vn/van-hoa-xa-hoi/tai-sao-nguoi-mien-nam-goi-anh-ca-la-anh-hai--38050.html
Ngôn ngữ là loại hình văn hoá phi
vật thể, phản ánh văn hoá vùng, miền rất rõ nét. Cách xưng hô
“anh Cả” ở miền Bắc so với “anh Hai” ở miền Nam là điển hình.
Rất nhiều người đặt câu hỏi tại
sao người miền Nam gọi “anh Cả”, “chị Cả” (người con trưởng,
theo cách gọi miền Bắc) là “anh Hai”, “chị Hai”? Ðây là một hiện
tượng văn hoá có thể lý giải từ phương pháp tiếp cận liên ngành:
ngôn ngữ học, khoa học lịch sử, văn hoá dân gian…
Chữ “cả” trong tiếng Việt có nghĩa
là lớn, to lớn (cả giận, cả gan, cả vú lấp miệng em, ao sâu nước
cả…), còn có nghĩa khác là tất cả, bao gồm (cả lớp, cả nhóm, cả
đời…). Người miền Bắc gọi “anh Cả”, “chị Cả” nghĩa là anh lớn,
chị lớn, người được sinh ra đầu tiên trong gia đình. Trong khi
đó, người miền Nam không gọi “anh Cả”, “chị Cả” mà gọi là “anh
Hai”, “chị Hai”. Hiện tượng này đến nay có một số cách hiểu phổ
biến như sau:
Cách hiểu thứ nhất có nguồn gốc từ
nguyên tắc “tứ bất” (bốn không) của triều Nguyễn: “bất thiết Tể
tướng, bất thủ Trạng nguyên, bất lập Hoàng hậu, bất phong Ðông
cung”, nghĩa là các vua triều Nguyễn không đặt chức Tể tướng,
trong thi cử không lấy đỗ Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu và
không phong Ðông cung Thái tử. Trong đó việc không lập Hoàng hậu
và Ðông cung Thái tử vì cho rằng vua Gia Long vì tiếc thương
người vợ là Tống Thị Lan và con trai cả là Nguyễn Phúc Cảnh
(Hoàng tử Cảnh) nên dành vị trí này để tưởng nhớ người đã mất,
từ đó trong dân gian không ai dám gọi con lớn là con cả.
Cách hiểu thứ hai cho rằng liên
quan đến yếu tố kiêng kỵ, kỵ huý, do trùng với cách gọi “Hương
Cả” là một chức vụ đứng đầu ở làng, xã thời Pháp thuộc. Năm
1904, để quản lý các địa phương ở Nam Kỳ, thực dân Pháp cho
thành lập Hội đồng Hương chức (Hội đồng xã, còn gọi là Ban Hội
tề) gồm 12 chức vụ: Hương Cả, Hương Sư, Hương Chủ, Hương Trưởng,
Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Quản, Hương Bộ, Hương Thân, Xã
Trưởng, Hương Hào và Chánh Lục Bộ. Trong đó Hương Cả là chức vụ
cao nhất. Người dân không dám gọi con trai lớn của mình là
“thằng Cả” vì sợ phạm thượng.
Cách hiểu thứ ba từ tâm lý sợ cọp,
có rất nhiều câu chuyện kể về việc những lưu dân thế hệ trước bị
cọp bắt, cọp vồ ở khắp các vùng đất Nam Bộ như: Ðồng Nai, An
Giang, Cà Mau… Những người con trưởng, con cả trong gia đình bị
cọp ăn thịt dẫn đến nỗi sợ hãi trong dân gian, không dám gọi con
trưởng là con cả vì sợ xui rủi; thậm chí gọi cọp là “Hương Cả
cọp” (có thể còn hàm ý mỉa mai bọn Hương chức Hội tề hung dữ như
cọp). Giả thuyết này không mấy thuyết phục vì đối tượng bị cọp
vồ rất nhiều, không phân biệt con trưởng hay con thứ…
Trong quá trình nghiên cứu văn hoá
dân gian ở miền Trung, người viết tìm được chứng cứ khác có thể
xác định cách gọi “anh Hai” đã có trước thời Khởi nghĩa Tây Sơn
(năm 1771), lúc đó Nguyễn Nhạc (là anh cả trong ba anh em:
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) đã được Nhân dân địa phương
gọi là “anh Hai Trầu”. Trong cuốn “Lễ hội Việt Nam”, bài Lễ hội
Quang Trung, các tác giả Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý cũng xác định:
“Tại làng Kiên Mỹ còn di tích Bến Trầu - nơi tương truyền ngày
xưa Nguyễn Nhạc thường đưa trầu từ phía thượng nguồn về bán ở
vùng An Thái, An Nhơn… cho nên Nguyễn Nhạc còn có tên là anh Hai
Trầu”.
Như vậy các giả thuyết liên quan
đến triều Nguyễn (từ năm 1802) hay thời Pháp thuộc (từ năm 1858)
là không thuyết phục, vì cách gọi “anh Hai” thay cho “anh Cả” đã
xuất hiện từ trước năm 1771.
Ngược dòng lịch sử, trở lại thời
chúa Tiên Nguyễn Hoàng cùng với binh sĩ, tuỳ tùng và Nhân dân ở
một số địa phương miền Bắc vào khai phá vùng đất phương Nam, có
thể giả thuyết cách gọi “anh Hai” xuất phát từ thời kỳ này. Sử
sách ghi rằng trong đoàn quân Nam tiến lúc đó, hầu như không có
ai là “anh Cả”, vì xác định công cuộc “mang gươm đi mở cõi” là
“sinh ly, tử biệt” nên các gia đình phải để người con trưởng ở
lại để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc mộ phần tổ tiên; những
người ra đi đều là con thứ, kể cả Nguyễn Hoàng cũng là con trai
thứ.
Về sự kiện này, sách “Ðại Việt sử
ký toàn thư”, quyển XVI, có chép: “Tháng 10 (Mậu Ngọ, tức năm
1558), Thái sư Trịnh Kiểm vào chầu, dâng biểu xin sai con thứ
của Chiêu Huân Tĩnh công là Ðoan quận công Nguyễn Hoàng đem quân
vào trấn thủ xứ Thuận Hoá để phòng giặc phía đông cùng với Trấn
quận công ở Quảng Nam cứu viện cho nhau. Mọi việc của xứ này,
không cứ lớn hay nhỏ, và các ngạch thuế đều giao cả cho, hằng
năm đến kỳ hạn thì thu nộp”.
Sách “Việt Nam sử lược” của Trần
Trọng Kim (1919) cũng ghi: “Ông Nguyễn Kim có hai người con là
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cũng làm tướng lập được nhiều công.
Người anh là Nguyễn Uông được phong làm Lang quận công, người em
là Nguyễn Hoàng được phong là Thái uý Ðoan quận công. Nhưng vì
Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền mình, bèn kiếm chuyện mà
giết Nguyễn Uông đi. Còn Nguyễn Hoàng cũng sợ Trịnh Kiểm có ý ám
hại, chưa biết làm thế nào mới ra Hải Dương hỏi ông Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Ông ấy bảo rằng “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”
(nghĩa là một dãy Hoành Sơn (chỗ đèo Ngang, Quảng Bình) kia có
thể yên thân được muôn đời).
Nguyễn Hoàng mới nói với chị là bà
Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam.
Năm Mậu Ngọ (1558) đời vua Anh Tông, Trịnh Kiểm mới tâu vua cho
Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá. Bấy giờ những người họ hàng
ở huyện Tống Sơn cùng những quân lính ở đất Thanh, Nghệ nhiều
người đưa cả vợ con theo đi…”.
Nhiều thế hệ cư dân miền Bắc vào
Nam khai phá theo chính sách của Nguyễn Hoàng đã ý thức được
công cuộc tha hương sẽ khó có ngày quay trở lại. Vì vậy, những
người dân Nam tiến này đều là những “anh Hai”, “anh Ba”… Vì cuộc
mưu sinh trên vùng đất mới, vì muốn thoát khỏi sự trói buộc của
luật lệ phong kiến khắt khe, họ phải ra đi nhưng trong lòng vẫn
canh cánh nhớ về quê cha đất tổ.
Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ trong bài
thơ “Nhớ Bắc” (viết năm 1940) có những câu thơ diễn tả tâm
trạng này:
“Ai đi về Bắc ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc -
Hồng
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng
Long”
Ðể tưởng nhớ quê hương, các thế hệ
dân cư miền Nam đã giành vị trí “anh Cả” cho những người còn lại
ở đất Bắc, nên những người con trưởng sau này được gọi là “anh
Hai”, “chị Hai”, lâu dần thành thói quen, thành phong tục, thành
truyền thống đạo lý của dân tộc.
Hiện tượng này có nguyên nhân từ
truyền thống Nho học và đạo lý xem trọng chữ Hiếu, người con
trai cả có vai trò rất lớn trong gia đình: “quyền huynh thế phụ”,
khi cha mẹ mất thì người anh cả có trách nhiệm gánh vác việc gia
đình, thờ cúng tổ tiên, nuôi dạy các em nên người… Khi cha mẹ
còn sống cũng không được đi xa “Phụ mẫu tại, bất khả viễn du”.
Cũng cần nói thêm rằng, người dân
miền Nam đã sáng tạo rất nhiều từ những “giá trị văn hoá” gốc
của miền Bắc, việc gánh vác gia đình, phụng dưỡng tổ tiên của cư
dân miền Nam không còn là vị trí độc tôn của người con trưởng,
mà thường giao người con út. Từ đó có quan niệm “giàu út ăn,
nghèo út chịu”. Người con út trở thành trụ cột trong gia đình,
lo phụng dưỡng cha mẹ già, thờ cúng tổ tiên; nhiều người thứ út
cũng được đặt tên Út, thậm chí còn sáng tạo: Út Tám, Út Chín, Út
Mười, Út Thêm, Út Nữa, Út Chót, Út Hết…
Liên quan đến cách xưng hô của
người miền Nam còn có cách gọi theo thứ của người đối diện, thể
hiện thái độ tôn trọng, tránh gọi tên thật, nhất là đối với
người lớn tuổi. Ví dụ, người ta thường gọi: chú Hai, chú Ba, chú
Út… hoặc anh Hai, anh Ba, anh Tư… Ðây có lẽ là sáng tạo của
người miền Nam do ảnh hưởng văn hoá ứng xử phương Tây trong
những năm bị thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cai trị, người phương Tây
thường gọi họ trong giao tiếp (ông Nguyễn, ông Trần…) để thể
hiện sự tôn trọng, thay vì gọi tên (Nguyễn Văn A, Trần Văn B;
ông A, ông B…).
Ngôn ngữ trong đời sống của người
miền Nam đã trải qua quá trình lịch sử, giao lưu, tiếp biến văn
hoá hàng trăm năm, xét dưới góc độ văn hoá là “đặc sản” của địa
phương, thể hiện bản sắc văn hoá vùng miền, góp phần làm cho nền
văn hoá Việt Nam thêm phong phú, đa dạng nhưng đậm đà bản sắc
dân tộc./.
Huỳnh Thăng
Post ngày:
12/08/18 |