Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Tìm Hiểu Về Văn Hóa Việt Nam

Trích từ: http://www.viettranslate.com/aboutvietnam/qtrinhhthanhvptrienvh.html

(QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời
gắn liền với lịch sử h́nh thành và phát triển của
dân tộc.

 

Các nhà sử học thống nhất ư kiến ở một điểm: 

Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn
được h́nh thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ
vào giữa thiên niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hoá Đông Sơn. Cộng đồng văn hoá ấy phát triển
cao so với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng
vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam Á, v́ có chung chủng gốc Nam Á

Mongoloid phương Nam) và nền văn minh lúa nước. Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá
bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mă, sông Cả, ...) đă hội tụ với nhau, hợp
thành văn hoá Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước "phôi thai" đầu tiên của Việt Nam dưới h́nh
thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên
thủy phát triển thành dân tộc.

Giai đoạn văn hoá Văn Lang-Âu Lạc (gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỉ 1 trước CN) vào thời đại đồ
đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được coi là đỉnh cao thứ nhất của lịch sử văn hoá Việt Nam, với sáng
tạo tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định.

Sau giai đoạn chống Bắc thuộc có đặc trưng chủ yếu là song song tồn tại hai xu hướng Hán hoá và chống
Hán hoá, giai đoạn Đại Việt (từ thế kỉ 10 đến 15) là đỉnh cao thứ hai của văn hoá Việt Nam. Qua các triều
đại nhà nước phong kiến độc lập, nhất là với hai cột mốc các triều Lư-Trần và Lê, văn hoá Việt Nam được
gây dựng lại toàn diện và thăng hoa nhanh chóng có sự tiếp thu ảnh hưởng to lớn của Phật giáo và Nho
giáo.

Sau thời ḱ hỗn độn Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn chia cắt đất nước, rồi từ tiền đề Tây Sơn thống nhất đất nước
và lănh thổ, nhà Nguyễn t́m cách phục hưng văn hoá dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đă suy tàn
và văn hoá phương Tây bắt đầu xâm nhập nước ta. Kéo dài cho tới khi kết thúc chế độ Pháp thuộc là sự
xen cài về văn hoá giữa hai xu hướng Âu hoá và chống Âu hoá, là sự đấu tranh giữa văn hoá yêu nước với
văn hoá thực dân.

Giai đoạn văn hoá Việt Nam hiện đại được h́nh thành kể từ những năm 20-30 của thế kỷ này, dưới ngọn
cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác-Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn
minh thế giới hiện đại, đồng thời giữ ǵn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh
cao lịch sử mới.

Có thể nói xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đă có ba lớp văn hoá chồng lên nhau: lớp văn hoá bản địa,
lớp văn hoá giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hoá giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm
chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hoá bản địa vững chắc nên đă không bị ảnh hưởng văn hoá ngoại lai
đồng hoá, trái lại c̣n biết sử dụng và Việt hoá các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hoá dân tộc.

Văn hoá dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống cụ thể: xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp gỡ
của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa
nước, ...) đă tác động không nhỏ đến đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm
lư con người Việt Nam. Tuy nhiên điều kiện xă hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hoá
và tâm lư dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm khác biệt về văn hoá
giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ, ... Cùng cội nguồn văn hoá Đông Nam á, nhưng do sự
thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hoá Hán, nền văn hoá Việt Nam đă biến đổi theo
hướng mang thêm các đặc điểm văn hoá Đông Á.

Dân tộc Việt Nam h́nh thành sớm và luôn luôn phải làm các cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một
đặc trưng văn hoá nổi bật: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng
có nguồn gốc nguyên thuỷ đă sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ư thức
dân tộc. Chiến tranh liên miên, đó cũng là lư do chủ yếu khiến cho lịch sử phát triển xă hội Việt Nam có tính
bất thường, tất cả các kết cấu kinh tế-xă hội thường bị chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh
của sự phát triển chín muồi. Cũng v́ chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những công tŕnh văn hoá-
nghệ thuật đồ sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn.

Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lănh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, cho nên văn hoá
Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài văn hoá Việt-Mường mang tính tiêu biểu, c̣n có các
nhóm văn hoá đặc sắc khác như Tày-Nùng, Thái, Chàm, Hoa-Ngái, Môn-Khơme, H’Mông-Dao, nhất là văn
hoá các dân tộc Tây Nguyên giữ được những truyền thống khá phong phú và toàn diện của một xă hội
thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên.

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18