- TRÊN QUÊ HƯƠNG
NGÀY XƯA
-
-
Đào Đức Nhuận
-
- Có người bảo “Quảng Ngãi hay
co”, và họ cho đó là điều không tốt.
- Lại có người bảo “Quảng Ngãi
đãi ra sạn”, và họ cũng cho đó là điều không tốt.
- Tôi nghĩ khác. Tổ tiên của người
Quảng Ngãi một phần là “tội đồ” của chính quyền phong kiến bị
đày vào vùng đất ngoại biên này để làm phên giậu cho đất mẹ ở
phía bắc. Hạng “tội đồ” này phần lớn là những người chống đối sự
cai trị hà khắc của triều đình. Một phần khác trong số họ là
binh lính đi theo các quan cai trị trấn đóng vùng đất mới chiếm
của Chiêm Thành. Chẳng hạn như binh lính dưới quyền của Trấn Bắc
Quận Công Bùi Tá Hán (1496- 1568). Nhóm “tội đồ” lúc nào cũng
mang trong người dòng máu “phản kháng”. Nhóm binh lính lúc nào
cũng mang trong người dòng máu “can cường”. Dòng máu “phản
kháng” đó, dòng máu “can cường” đó luôn luôn chảy trong huyết
quản của người dân Quảng Ngãi. Nó sẽ bùng lên mỗi khi bị chèn
ép. “Co” là nguồn chủ lưu của dòng máu “phản kháng” và “can
cường” đó.
- Quảng Ngãi ta ngày xưa nghèo
lắm. Chính sử quan triều Nguyễn cũng đã xác nhận trong Đại Nam
Nhất Thống Chí : “Quảng Ngãi đất xấu, dân nghèo, tính tình kiệm
ước. . .”
- Không “đãi ra sạn” làm sao được
một khi nợ áo cơm vẫn ngày đêm giằng thúc con người ! Một số
trong chúng ta thường đánh giá “đãi ra sạn” theo cái nhìn phiến
diện của người ngày nay. Nhưng nếu chúng ta chịu đặt mình vào
vùng đất nghèo nàn này khoảng một trăm năm về trước, và lùi xa
hơn nữa, chúng ta sẽ hiểu tại sao tổ tiên của chúng ta đã phải
“đãi ra sạn”.
- Quảng Ngãi nằm trong một địa thế
luôn luôn phải hứng chịu những thiên tai khủng khiếp. Có lẽ
không năm nào đất Quảng quê ta không có giông bão hay lụt lội.
Đất đai thì cằn cỗi vì đầy những núi và đồi. Thực vậy, Quảng
Ngãi là một dải đất hẹp nằm ép giữa rặng Trường Sơn và biển
Đông. Từ Dốc Sỏi, địa đầu phía bắc Bình Sơn vào đến đèo Bình Đê,
địa đầu phía nam Đức Phổ, có biết bao nhiêu là núi cùng đồi nhô
lên giữa các cánh đồng hẹp: nào Trà Quân, Tham Hội, Thình Thình
. . . ở Bình Sơn, nào núi Tròn, núi Sứa, Long Đầu, Thiên Ấn . .
. ở Sơn Tịnh, nào Phú Thọ, Thiên Bút, La Hà, An Đại . . . ở Tư
Nghĩa, nào Đình Cương, Đầu Tượng . . . ở Nghĩa Hành, nào núi
Vom, Ông Đọ, Văn Bân . . . ở Mộ Đức, nào núi Dâu, núi Dàng . . .
ở Đức Phổ . . .
- Những ngọn núi, những đường đèo
trên quê hương đó một phần đã được ghi lại bằnng những câu ca
dao ngọt lịm tình người :
- Núi Thình
Thình, chùa cũng Thình Thình
- Ai lên tới đó
cho mình hỏi thăm :
- Vì đâu nên
tiếng, nên tăm
- Để cho miếng
đất nghìn năm thình thình !
- Đây là ngọn núi nằm về phía nam
quận Bình Sơn. Trên núi có ngôi chùa mang tên Viên Giác Tự,
nhưng dân địa phương vẫn gọi bằng cái tên dân dã quen thuộc:
Chùa Thình Thình. Sở dĩ có tên gọi nầy là vì ở về phía tây ngôi
chùa có một khoảng đất rộng, mỗi khi có bước chân người đi trên
đó nghe như có âm vang “thình thình” vọng lên từ lòng núi.
- Sơn Tịnh có núi
Chân Trâu,
- Có bàu Ông Xá, có
cầu Rồng Xanh (?)
- Lại có câu:
- Sông Trà có núi
Long Đầu,
- Nước kia chảy
mãi, rồng chầu ngày xưa.
- Núi Long Đầu, dân gian vẫn gọi
là núi Đầu Rồng, là phần nối dài của dãy Tham Hội khởi đi từ
phía nam quận Bình Sơn, nhấp nhô như hình một con rồng đang
trườn mình về phía nam vào đến sông Trà Khúc thì đầu rồng thả
vòi xuống sông hút nước: núi Đầu Rồng. Núi Đầu Rồng (Long Đầu)
có liên hệ tới câu chuyện “Cao Biền Trảm Long” và đã để lại câu
tục ngữ:
- Lẩy bẩy như Cao
Biền dậy non.
- Nằm về phía tây Long Đầu một
đoạn đường dài là núi Tròn, và về phía đông một đoạn đường ngắn
là núi Thiên Ấn mà ngày xưa dân gian vẫn quen gọi bằng cái tên
nôm na: núi Hó.
- Sớm mai xuống Quán Cơm
- Thấy hòn núi Hó
- Chiều về Đồng Có
- Nhìn ngọn núi Tròn
- Về nhà than với chồng con
- Ra đi gan nát, dạ mòn vì đâu?!
- Hay: Qua chùa núi Hó
- Thắp bó nhang
vàng
- Xin cho bạn cũ
lai hoàn như xưa . . .
- Núi Tròn còn có tên là núi Bình
Nin. Ngày xưa trên núi nầy có nhiều khỉ sinh sống, dân gian vẫn
thường gọi là khỉ Bìn Nin.
- Núi Hó tức núi Thiên Ấn. Ngày
xưa núi Thiên ấn được bao phủ bởi một rừng tranh, những vùng
tranh non có màu xanh mướt, những vùng tranh già ngả sang màu
vàng đất. Đứng từ xa nhìn về Thiên ấn thấy những mảng màu xanh
vàng lấp loáng bên nhau dưới ánh mặt trời trông thật ngoạn mục.
Rừng tranh Thiên ấn đã trở thành những biểu tượng nói về tình
yêu :
- Ngó lên Thiên ấn
nhiều tranh
- Liều mình lén mẹ
theo anh phen này . . .
- Hay: Bao giờ núi Ấn hết
tranh
- Sông Trà hết nước
anh mới đành xa em
- Thiên ấn được xem là “Đệ nhất
danh thắng” của Quảng Ngãi. Trên núi, ngoài ngôi chùa Thiên ấn
rất nổi tiếng, còn có ngôi mộ của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng
(1875-1947).
- Thiên ấn là một hòn núi khá đẹp
và có lẽ trên hành tinh của chúng ta ít có ngọn núi nào có hình
dáng tuyệt vời như hòn Thiên ấn. Từ tứ phương tám hướng, đứng ở
bất cứ nơi nào nhìn về, Thiên ấn cũng mang một hình dáng duy
nhất: hình thang cân. Có lẽ do đó mà nó được mang cái tên thật
xứng đáng: Thiên ấn (cái ấn của Trời).
- Chùa Thiên ấn được xem là ngôi
chùa đầu tiên tại Quảng Ngãi nên chùa vẫn được gọi là Tổ Đình
Thiên ấn. Tồ Đình Thiên ấn nguyên là một ngôi thảo am được Pháp
Hóa Hòa Thượng cho xây cất vào năm ất Hợi (1695) đời Quốc chúa
Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) và ngài được phong là Đệ Nhất Tổ.
Cạnh chùa có giếng nước sâu trên 20 thước. Tương truyền khi Pháp
Hóa Hòa Thượng phát nguyện cho đào giếng thì có một nhà sư trẻ
đến chùa xin tá túc và tiếp tay đào giếng với Hòa Thượng. Đến
khi giếng có nước, nhà sư trẻ cũng biến đi đâu mất, không ai
biết tăm dạng nơi đâu. Thế nên dân gian còn lưu truyền câu ca
dao:
- Ông thầy đào giếng
trên non
- Đến khi có nước
không còn tăm hơi.
- Vào năm 1751, khi giữ chức Tuần
Vũ Quảng Ngãi, Đạm Am Nguyễn Cư Trinh (1716-1761) đã nhìn núi La
Hà thuộc quận Tư Nghĩa như một thắng cảnh và căn cứ theo một câu
chuyện dân gian xa xưa, ông đã đặt cho nó cái tên được lưu danh
cho đến ngày nay: La Hà Thạch Trận.
- La Hà Thạch Trận
là đây
- Bốn phương tứ
hướng đá xây trận đồ !
- Tiếc thay dấu tích “đá xây trận
đồ” ngày xưa đã bị bàn tay của con người ngày nay phá đi gần hết
bởi cái nạn “chẻ đá” để lấy đá làm móng nền nhà!
- Lần về phía đông ta lại gặp :
- Tư Nghĩa cửa Đại là đây:
- Gành Hào, núi
Quế đá xây nên chùa
- Dưới thời bông
súng nở đua,
- Ngó lên trên
chùa đá dựng, kiểng giăng.
- Ngó quan bên
xóm Trường An
- Ngó xuống hòn
Sụp cát vàng soi dương.
- Vào Đưc Phổ ta gặp núi Xương
Rồng:
- Quê em có núi
Xương Rồng,
- Có cửa Mỹ Á, có
sông Thủy Triều.
- Lên miền tây ta lại gặp núi Quẹo
được dân gian ghi lại bằng những vần ca dao thật tài tình:
- Sáng mai anh
thức dậy
- Anh xách cái
rựa quéo
- Anh lên hòn
núi Quẹo
- Anh đốn cây
củi còng queo!
- Anh than với
em cha mẹ anh nghèo,
- Đũa tre yếu ớt
không dám quèo con mắm nhum!
- Nhum là một loại hải sản giống
như con hến lớn, vỏ mỏng hình rẽ quạt. Ruột nhum có thể ăn tươi
hay làm mắm.
-
Núi đồi nhiều thì đường đèo cũng nhiều.
- Ở Mộ Đức ta gặp đèo Đồng Ngổ:
- Đèo nào cao
bằng đèo Đồng Ngổ
- Bộ nào rộng
bằng bộ An Ba.
- Thấy anh ăn
noi thật thà
- Muốn vô gầy
dựng cửa nhà cùng anh.
- Ở Đức Phổ ta gặp đèo Sơn Cốc, đèo Mỹ Trang:
- Đèo nào cao
bằng đèo Sơn Cốc
- Dốc nào ngược
bằng dốc Mỹ Trang
- Một tiếng em
than hai hàng lụy nhỏ
- Phụ mẫu già
rồi biết bỏ cho ai!
- Ở Nghĩa Hành ta gặp đèo Eo Gió:
- Đèo nào cao
bằng đèo Eo Gió,
- Cỏ nào xanh
bằng cỏ Hố Cua
- Bao giờ cho
đến gió mùa
- Trèo đèo, vượt
suối dám đua bạn cùng!
- Vào một thuở thật xa xưa, con
đường thiên lý Bắc-Nam chỉ là một con đường được đắp bằng đất.
Nhiều đoạn đường phải vượt đèo, băng sông. Nhiều đoạn đường phải
luồn lách qua những truông dài, rừng rậm. Bọn thảo khấu thường
lợi dụng những đoan đường nầy để làm địa bàn hoạt động, cướp bóc
khách bộ hành.
- Để nói lên nạn thảo khấu nầy,
dân gian miền bắc Trung Phần đã từng truyền tụng câu ca dao:
- Đường vô xứ
Huế quanh quanh
- Non xanh nước
biếc như tranh họa đồ
- Yêu em anh
cũng muốn vô
- Sợ truông nhà
Hồ, sợ phá Tam Giang . . .
- Đoạn đường thiên lý Bắc-Nam chạy
ngang qua địa phận Quảng Ngãi ta ngày xưa cũng gặp phải nạn thảo
khấu tương tư ï:
- Đưa anh về Quảng em lo
- Ao Vuông là một, Ba Gò là hai.
- Kiêng dè trong buổi hôm mai
- Đàng trong ổ cướp, đàng ngoài hùm beo.
- Hay: Cách sông nên phải
lụy đò,
- Cách truông Ba Gò
nên phải lụy anh !
- Ao Vuông ngày xưa thuộc miền bắc
Bình Sơn. Truông Ba Gò nằm giữa địa phận hai quận Bình Sơn và
Sơn Tịnh. Xưa nơi đây là vùng cỏ cây rậm rạp, bọn thảo khấu mặc
sức tung hoành!
- Quảng Ngãi là vùng lắm núi,
nhiều rừng. Dân chúng miền cận sơn phải thường xuyên đối phó với
nạn phá hoại của thú rừng. Dân chúng Mộ Đức còn truyện tụng câu:
- Phèng la xóm
Bầu,
- Trống chầu Thi
Phổ,
- Mõ gỗ Thuận
Yên.
- Xóm Bầu thuộc xã Đức Thạch, có
con mương Bà Hệ là mạch sống của dân làng. Vào mùa mưa lũ, con
mương đầy phù sa. Sau mùa lũ, dân làng phải vét mương để đem
nước vào ruộng. Phèng la là tiếng báo hiệu cho dân làng biết mỗi
khi cần tập trung để vét mương.
- Thi Phổ thuộc xã Đức Vinh lại có
tiếng trống chầu nhằm thúc giục, cổ võ dân làng đắp đập hay sửa
đập Thi Phổ trước mùa mưa lũ và đặc biệt là báo động cho dân
làng mỗi khi con đập sắp bị nước lũ xoang. Dân Thi Phổ còn
truyền câu:
- Dù ai tế lễ nơi
đâu,
- Ngũ liên Thi Phổ
mau mau trở về
- Ngũ liên tức 5 hồi trống liên
tục báo hiệu con đập sắp bị nước xoang!
- Làng Thuận Yên thuộc xã Đức Sơn
có 3 mặt giáp với núi đồi trùng điệp. Tuy là một vùng cận sơn
hẻo lánh nhưng đất đai màu mỡ nên dân chúng kéo nhau về đây sinh
sống mỗi ngày mỗi đông. Tai nạn thường trực của dân làng Thuận
Yên chính là dã thu ù: cọp, heo rừng, voi . . .Tiếng mõ được
phân biệt để dân làng biết mà đối phó. Cái mõ đối với dân làng
Thuận Yên thật cần thiết và cũng thật mầu nhiệm :
- Ai về thăm xứ
Thuận Yên
- Vang vang tiếng
mõ là kiêng dân làng.
-
Hay: Ông mõ lẫm liệt oai phuông
- Ông kêu thú dữ
tìm đường cút xa !
- Đất Quảng Ngãi tuy nghèo nhưng
cũng đả sản sinh ra nhiều đặc sản đáng trân quý :
- Chim mía Xuân Phổ
- Cá bống sông Trà
- Kẹo gương Thu Xà
- Mạch nha Thi Phổ.
- Đi qua lò mía
thơm đường
- Muốn vô kết nghĩa
cang thường cùng ai !
- Làng Xuân Phổ thuộc xã Tư Thịnh (Tư Nghĩa)
nằm sát bờ phía nam sông Trà Khúc trồng rất nhiều mía. Hàng năm,
vào cuối Thu sang Đông, khi mía đã bắt đầu trổ cờ, vào những lúc
chạng vạng, từng đàn chim hàng ngàn con gồm co ù: chim chéo,
chim chìa vôi, chim áo già, chim dồng dộc . . . sà xuống những
cánh đồng mía để ngủ qua đêm. Dân chúng dùng lưới vó để bắt
chim. Loại chim mía nầy thường được đem nướng để làm món nhậu
thật tuyệt.
- Sông Trà Khúc có loại cá bống thật ngon, đó
là cá bống cát. Xưa đất Quảng Ngãi ta nổi tiếng về món cá bống
kho tiêu:
- Anh
đi anh nhớ quê nhà
- Nhớ
món cá bống sông Trà kho tiêu !
- Hay: Đi đâu cũng nhớ Thu Xà
- Nhớ mùi cá bống mặn mà hương
tiêu !
- Món cá bống kho tiêu ngon lành làm vậy nên
có nhiều chàng trai đã tìm cách trêu chọc các cô :
- Bậu ra bậu lấy
ông câu
- Bậu câu cá
bống chặt đầu kho tiêu.
- Kho tiêu, kho
ớt, kho hành,
- Kho ba lạng
thịt để dành mà ăn !
- Nói đến đặc sản của sông Trà
Khúc, ngoài món cá bống, cá thài bai, còn có món “don”, một món
ăn đặc biệt Quảng Ngãi cũng thật hấp dẫn. Don là một loại hến
đòn xóc, chỉ sinh sản ở vùng nước chè hai trên đoạn sông từ Tư
Bình (Tư Nghĩa) xuống đến gần cửa biển. Đây được xem là quê
hương duy nhất của loài “don”. Aên một tô don nóng hổi, dằm một
trái ớt sim, vưa ăn vừa hít hà . . . thú tuyệt !
- Thế nên ta mới thường nghe câu
ca dao :
- Cô gái lòng son,
- Không bằng tô don
Vạn Tượng !
- Thực ra Hiền Lương thuộc xã Tư
Nguyên mới là nơi có món don ngon nổi tiếng. Dân địa phương cũng
đã có câu ca dao nói lên sự quyến luyến của họ đối với những con
người sống bằng nghề bán don:
- Có nghèo, có khó,
- Cũng lấy con vợ bán don
- Lỡ khi nó chết cũng còn cặp ui !
- Miền biển Đức Phổ còn lưu truyền
câu:
- Mắm Mỹ Á,
- Cá Vực Tre.
- Làng Cổ Lũy ngày xưa khá nổi
tiếng nhờ nó là một trong 12 thắng cảnh xưa của Quảng Ngãi : Cổ
Lũy Cô Thôn. Cổ Lũy còn được nhắc nhiều nhờ vào nghề dệt chiếu:
- Ai về Cổ Lũy xóm
Câu
- Nhớ mua đôi chiếu
đón dâu về làng.
- Đất Quảng Ngãi ta nghèo lắm, thế
nhưng cũng có một vài địa phương có đời sống tương đối sung túc
nhờ vào một vài loại sản phẩm đặc biệt của địa phương, chẳng
hạn:
- Tiếng đồn Đông
Phước nhiều tre,
- Tham Hội nhiều
lúa, Châu Me nhiều tiền.
- Tham Hội và Đông Phước là 2 thôn
thuộc xã Bình Hoàng (Bình Sơn), Châu Me thuộc xã Bình Đức (Bình
Sơn).
- Trong chúng ta, ai cũng yêu quê
hương mình tha thiết. Trong chúng ta, ai cũng tự hào về quê
hương của mình :
- Củ lang mỏng
vỏ, đỏ da
- Ai về Long
Phụng theo ta mà về.
- Ai về Long
Phụng thì về,
- Gần sông tắm
mát, chợ kề một bên.
- Thôn Long Phụng thuộc xã Đức
Phụng, quận Mộ Đức, nằm ven bờ nam sông Vệ. Phổ Minh, một xã mìn
biển quận Đức Phổ cũng có câu ca dao gần tương tự:
- Củ lang mỏng
vỏ, đỏ da,
- Em muốn về An
Thổ theo ta mà về
- Hải Môn với
bển cùng quê,
- Gần sông tắm
mát, chợ kề một bên.
- Thôn An Thổ nằm bên sông Trà
Câu, có ngôi chợ làng tên là chợ Mới.
- Ai cũng muốn khoe làng mình có
chợ, có sông, bởi lẽ, người xưa đã từng đưa ra nhận xét: “nhất
cận thị, nhị cận giang” (thứ nhất là ở gần chợ, thứ nhì là ở gần
sông vì những nơi nầy dễ sinh sống làm ăn).
- Mộ Đức là quận có nhiều cánh
đồng tương đối phì nhiêu và rộng : đó là đồng Tú Sơn và đồng Chu
Me:
- Không đi thì mất
lòng chồng,
- Ra đi thì sợ cánh
đồng Tú Sơn.
-
Hay: Không đi sợ mất lòng chồng,
- Ra đi lại sợ cánh
đồng Chu Me.
- Tú Sơn là cánh đồng màu mỡ. Dân
Tú Sơn tương đối sung túc. Các cô con gái Tú Sơn mỗi lần chải
tóc thường xức một chút dầu dừa cho đầu tóc được bóng mượt và
đẹp, do đó mới có câu ca dao :
- Gái Tú Sơn đầu
trơn như mỡ,
- Gạo trì trì nứt
nở như ươi.
- Đối với những kẻ nặng tình với
quê hương, mỗi địa danh là một kỷ niệm, mỗi tên gọi là một nhớ
nhung
- Đi ngang qua
mũi Sa Kỳ
- Ngó ra lao Ré
xiết chi thảm sầu !
- Cù lao Ré là tên gọi nôm na của
hải đảo Lý Sơn. Phải chăng trên hòn đảo xa xôi nầy, cặp tình
nhân nào đó đã hơn một lần hò hẹn, đã hơn một lần thề thốt nặng
lời:
- Lên núi trồng
tỏi,
- Xuống đất sỏi
trồng hành,
- Vái trời cho
tỏi tốt, hành xanh,
- Chàng mua,
thiếp bán kết thành nợ duyên.
- Vậy mà giờ đây nợ duyên không
thành, khiến cho ai đó mỗi lần nhìn ra hòn đảo ngày xưa mà chợt
thấy lòng mình sầu thảm !
- Và có lẽ cũng vào một ngày xa
xưa nào đó, trên chùa Thiên ấn của hòn núi Hó quê hương cũng đã
có một cặp tình nhân nào đó, cũng đã hơn một lần thề thốt nặng
lời, vậy mà . . .
- Qua chùa núi
Hó,
- Thắp bó nhang
vàng,
- Xin cho bạn cũ
lai hoàn như xưa!
- Trông trời
chẳng thấy trời mưa,
- Lựu tìm đào,
đào chẳng tìm lê.
- Lên non tìm
quế, quế về rừng xanh!
- Trách ai treo
ngọn, thắt ngành,
- Cho chàng xa
thiếp, cho anh xa nàng!
- Trách ai? Trách Đất, trách Trời?
Trách duyên, trách phận? Trách mẹ, trách cha? Trách cho lễ giáo?
Nào biết trách ai!
- Tình yêu là một thử thách. Phải
vượt qua mọi thử thách, mọi trở ngại để đạt mục đích cuối cùng
của tình yêu:
- Anh chẻ tre
bện sáo ngăn sông,
- Cho đến khi đó
vợ, đây chồng hãy hay.
- Anh chẻ tre
bện sáo cho dày,
- Ngăn sông Trà
Khúc ắt có ngày gặp em!
- Tình yêu là một thử thách. Không
phải chỉ là thử thách của một không gian diệu vợi mà con là thử
thách của một thời gian dằng dặc :
- Đồng nào sâu
bằng đồng Thi Phổ,
- Thổ nào cao
bằng thổ Ba Tơ.
- Em thương anh
chín đợi, mười chờ,
- Mía kia lên
ngọn trổ cờ đã lâu !
- Ba Tơ là tên gọi của đất An Ba
ngày xưa, không phải là quận Ba Tơ ngày nay.
- Ôi! Ngày xưa một lời hò hẹn kết
nghĩa đá vàng, một lời giao ước thủy chung. Vậy mà rồi “chàng âu
duyên mới, nỡ phụ tình xưa” :
- Bước xuống ghe
nan,
- Chèo sang Bến
Thóc,
- Vừa chèo, vừa
khóc
- Kêu: Bớ anh
ơi!
- Bây giờ duyên
mãn, tình ôi,
- Để cho người
khác đứng ngồi với anh!
- Đập Bến Thóc nằm về phía tây
quận Mộ Đức.
- Nỗi ghen tuông làm cho ruột gan
dường như héo hắt. Thế nhưng, dù cho ai đó có phụ tinh thì nàng
vẫn một mực đợi chờ:
- Anh về Mỹ Á chi
lâu,
- Để em ôm chiếc
thuyền câu một mình !
- Những nàng con gái Quảng Ngãi
ngày xưa sao mà chung tình làm vậy:
- Đời nào bánh
đúc có xương,
- Dây tơ hồng có
lá, nghĩa đá vàng vô tư !
- Cửa Tam Quan
nước cạn bày cừ,
- Biển Sa Huỳnh
khô tắc em mới từ nghĩa anh!
- Họ luôn luôn thề nguyền một đời
gắn bó keo sơn:
- Thuốc ngon chợ
Huyện,
- Giấy quyến Sa
Huỳnh.
- Nẫu xa thì mược
nẫu, hai đứa mình đừng xa !
- Và họ luôn luôn lo lắng cho
người yêu:
- Đò đưa sông Vệ
nghenh ngang,
- Bạn hàng nô nức
sao chàng ngồi đây?
- Lo cho cả cha mẹ của người mình
yêu:
- Ăn chanh chíp
miệng chua chua,
- Em đưa anh cho
đến Chợ Chùa xa xa.
- Mảng lo cha
yếu mẹ già,
- Đặt chân xuống
đất con nhạn đà trở canh !
- Nhớ người yêu là chuyện đã đành.
Nhớ cha, nhớ mẹ cũng là chuyện đã đành. Mà nỗi nhớ quê hương sao
cũng ray rứt lòng người:
- Nhớ ai như nhớ
Nghĩa Hành,
- Nhớ phiên Tam
Bảo không đành không đi.
- Chợ phiên ngày
bảy, ngày hai,
- Không đi thì
nhớ, đi hoài mỏi chân!
- Chợ phiên Tam Bảo được xem là
phiên chợ lâu đời nhất của tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn tồn tại đến
ngày nay. Đây là phiên chợ quy tụ những con buôn và khách hàng
là người Kinh và người sắc tộc Hrê thuộc các quận Nghĩa Hành,
Minh Long, Ba Tơ và Sơn Hà. Tương truyền chợ phiên Tam Bảo xuất
hiện từ trước thời vua Tự Đức (1848-1883). Phiên chợ chính thức
họp tại Kim Thành Hạ thuộc quận Nghĩa Hành. Mỗi tháng chợ họp 2
phiên vào ngày mồng 2 và ngày mồng 7 âm lịch.
- Là người dân Mộ Đức, ai mà không
nao nao tấc lòng mỗi khi nghe nhắc đến những tên gọi quen thuộc
thân thương qua bài ca dao sau đây:
- Kể từ Sông Vệ, Chợ Gò,
- Ngó vô Thi Phổ
thấy đò Dắt Dây.
- Chợ Đồng Cát
buôn bán sum vầy,
- Ngó vô Lò Thổi
thấy cây sùm xòa.
- Tú Sơn một đỗi
xa xa,
- Ngó vô Quán
Sạn bạn hàng đà nghỉ ngơi.
- Chợ Huyện là
chỗ ăn chơi,
- Ngó vô Quán
Vịt là nơi hữu tình.
- Trà Câu sao
vắng bạn mình,
- Hai hàng châu
lụy như bình nước nghiêng !
- Và những ai đã từng lênh đênh
trên biển cả, ra Bắc vào Nam với những tay lưới nghề quen thuộc
mà không thấy lòng nôn nao khác thường mỗi lần nghe bài ca thủy
trình sau đây:
- .
- Sa Cần, Châu Ổ
bao xa
- Ngoài mũi Cây
Quýt thiệt là Tổng Binh.
- Lâm châm cỏ
ngựa trời sinh,
- Làng Gành, Mỹ
Giảng ăn quanh Vũng Tàu.
- Nới lèo ráng
lái mau mau,
- Ngước mắt xem
thấy Bàn Thang,
- Ngoài thời lao
Ré nằm ngang Sa Kỳ.
- Quảng Nghĩa
Trà Khúc núi chi?
- Có hòn Thiên
ấn dấu ghi để đời.
- Hòn Sụp ta sẽ
buông khơi
- Trong vịnh,
ngoài vời núi đất mênh mang.
- Buồm giăng ba
cánh sẵn sàng,
- Anh em chúng
bạn nhiều đàng tư lương.
- Mỹ Á, cửa Cạn,
Hàng Thương
- Chạy hết Bãi
Trường xích thố bang băng.
- Ngước ra khỏi
mũi Sa Hoàng (Sa Huỳnh)
- Kìa kìa ngó
thấy Tam Quan nhiều dừa. . .
- Quảng Ngãi tuy nghèo nhưng “học
trò thì tư chất thông minh, nhiều kiến thức”(Đại Nam Nhất Thống
Chí – Quảng Nghĩa Tỉnh). Do đó, vào thời Nho học còn được trọng
dụng, Quảng Ngãi đã có nhiều người đỗ đạt cao, đặc biệt là từ
khi nhà Nguyễn cho lập trường thi Bình Định thì sĩ tử Quảng Ngãi
đã có nguồn hứng để thi nhau dùi mài kinh sử.
- Năm Tự Đức thứ 3 (Canh Tuất,
1850), nhà vua cho lập trường thi Bình Định dành riêng cho sĩ tử
từ Quảng Ngãi đến Khánh Hòa, và sau đó cho cả Bình Thuận và Ninh
Thuận.
- Khoa hương thí đầu tiên được tổ
chức vào năm Nhâm Tý (1852). Khoa nầy và 2 khoa kế tiếp, sĩ tử
Bình Định đoạt Thủ khoa, sĩ tử Quảng Ngãi chỉ đạt chức Á khoa.
Do đó tại Bình Định xuất hiện câu ca dao:
- Tiếc công Quảng
Ngãi đường xa,
- Để cho Bình Định
thủ khoa ba lần !
- Sĩ tử Quảng Ngãi “hận” lắm. Họ
cố dồi mài kinh sử. Quả nhiên, đến khoa Mậu Thìn (1868) và khoa
Canh Ngọ (1870), sĩ tử Quảng Ngãi giành được cả 2 chức thủ khoa
và á khoa. Do đó lại xuất hiện câu ca dao sau đây:
- Tiếc công Bình
Định xây thành
- Để cho Quảng Ngãi
vô giành thủ khoa !
- Truyền thống hiếu học đó cũng đã
sản sinh ra những vị quan danh tiếng của triều đình phong kiến.
Chính các sử quan triều Nguyễn cũng đã nhận xét: “Địa thế tuy
hẹp mà khí mạch tốt, nên đời nào cũng có nhiều người làm đến
quan to chức trọng . . .” (Đại Nam Nhất Thống Chí – Quang Nghĩa
Tỉnh). Cái “khí mạch” đó đã sản sinh ra những vị quan danh tiếng
một thời như Phan Khắc Thận người Bình Sơn, Trương Đăng Quế
người Sơn Tịnh, Tạ Tương người Tư Nghĩa, Nguyễn Bá Nghi người Mộ
Đức . . . Đáng lưu ý nhất là dòng họ Trương ở xã Sơn Mỹ, quận
Sơn Tịnh với Trương Đăng Quế là người Quảng Ngãi đầu tiên đậu
Hương cống (tức Cử nhân) dưới đời vua Gia Long, sau ra làm quan
to trải các triều Minh Mạng (1820- 1840), Thiệu Trị (1841- 1847)
và Tự Đức (1848- 1883). Về sau con cháu của ông cũng nhiều người
làm quan to trong triều ngoài quận, do đó dân gian địa phương đã
truyền tụng câu ca dao :
- Bao giờ thiện mã
qua sông
- Thì thôn Mỹ Lại
mới không công hầu !
- Sống trong một vùng đất nghèo
nàn, cằn cỗi, “ăn bữa trưa, chừa bữa tối”, họ phải bòn mót tùng
hạt lúa rơi, từng củ khoai sót . . . để thêm vào với số lương
thực ít ỏi đã sản xuất được :
- Khoai lang Đồng
Ngổ,
- Đỗ phụng Đồng
Dinh
- Chàng bòn, thiếp
mót đổ chung một gùi.
- Đồng Ngổ thuộc xã Đức Sơn, quận
Mộ Đức, Đồng Dinh thuộc xã Nghĩ Chánh, quận Nghĩa Hành.
- Thậm chí có nơi người nông dân
còn phải dùng cả phân người để làm chất dinh dưỡng cho thực vật.
Có nhìn thấy cái cảnh người dân Cà Đó thuộc xã Đức Lương (Mộ
Đức), nhất là giới phụ nữ, kĩu kịt đôi giỏ ki trên vai, đi xa
khỏi làng hàng vài ba chục cây số, lang thang trong các cánh
đồng vắng còn trơ gốc mía hay gốc rạ để gắp từng cục phân người
đem về làm phân bón cho cây thuốc, ta mới thấy hết cái nỗi khổ
của người dân quê ta!
- Ai về Cà Đó
- Chịu khó xách ki
- Tay cầm đôi đũa, chân đi lòm khòm !
- Đời sống tuy có thiếu thốn, vất
vả như thế, nhưng người đân Quảng Ngãi vẫn luôn luôn ung dung tự
tại, nhiều khi còn biết dùng sự hài hước để mua vui cho quên đi
bao nỗi nhục nhằn trong cuộc sống hằng ngày.
- Những thể điệu dân ca miền ấn
Trà, đặc biệt là giọng hát “hố”, như có cái ma lực ghê gớm để
quyến rũ lòng người:
- Tai nghe tiếng hố
vọng đồng,
- Ai có con cũng
bỏ, ai có chồng cũng vong!
- Những giọng hố, giọng hò vang
lên trong mnhững đám thợ cấy, quanh những cối gạo, giữa đám trai
gái cho hàng ăn mía, giữa những đôi nam nữ tát nướcc đêm trăng .
. . đã chuyên chở và lưu truyền bao nhiêu là câu ca dao chan
chứa tình người. Họ hát đối đáp với nhau để gửi tình trao
duyên, và đôi khi cũng để chòng ghẹo nhau cho quên đi nỗi mệt
nhọc trong khi lao động! Sau mỗi khúc hát là những tiếng cười
đưa duyên, và cũng có thể là những tiếng cười xuề xòa, giả lả
như để xóa tan đi những hờn giận vu vơ:
- Ba La đất tốt
trồng hành
- Đã xinh con
gái, lại lành con trai.
- Vạn Tượng
những chông cùng gai,
- Con gái mốc
thếch, con trai đen sì!
- Ba La và Vạn Tượng là 2 thôn của
xã Tư Bình, quận Tư Nghĩa.
- Hay: Hải Môn ăn cá bỏ đầu,
- Tân Tự lượm được
xỏ xâu xách về!
- Hải Môn và Tân Tự là 2 thôn
thuộc xã Phổ Minh, quận Đức Phổ.
- Họ cũng lấy làm thích thú trong
cách chơi chữ ngộ nghĩnh:
- Gái Thanh Khiết
chuyên nghề “cải giá”,
- Trai Sung Tích
chuyên nghề “kén dâu”.
- Thanh Khiết thuộc xã Tư Nguyên
(Tư Nghĩa). Dân vùng nầy sống bằng nghề sản xuất rau sống –
trồng cải và làm giá đậu xanh. Bên kia sông trên bờ phía bắc là
làng Sung Tích thuộc xã Sơn Hội (Sơn Tịnh). Dân ở đây xưa làm
nghề trồng dâu, nuôi tằm. Cải giá vừa có nghĩa rau cải, rau giá,
lại vưà có nghĩa “có chồng lần nữa!”. Kén dâu vừa có nghĩa là
con kén và lá dâu tức nghề trồng dâu nuôi tằm lấy tơ kén để dệt
lụa, lại vừa có nghĩa “kén chọn cô dâu!”.
-
- Lượng Tục ngữ Ca dao của quê hương núi ấn
sông Trà nhiều lắm. Ở đây người viết chỉ chọn những câu ghi lại
địa danh của từng vùng thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Lượng ca
dao nầy có lẽ còn nhiều, nhưng vì tài liệu sưu khảo có ít, sức
hiểu biết của người viết cũng có ít, nên bài viết chắc còn nhiều
thiếu sót, rất mong được lượng thứ.
-
- ĐÀO ĐỨC NHUẬN