Triết lư dân tộc Việt Nam qua tục ngữ
Vơ Thu-Tịnh
Về ư nghĩa của tục ngữ, trong Việt-Nam văn-học sử yếu,
Dương Quảng Hàm đă nhận xét: "Các câu tục ngữ là do những điều kinh
nghiệm của cổ nhân đă chung đúc lại, nhờ đấy mà người dân vô học
cũng có một trí thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời... ".
(1)
Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên đă
ghi: "Tục ngữ là kho tàng kinh nghệm và hiểu biết của người xưa về
vũ trụ cũng như về nhân sinh.... Có thể nói đó là một quyển sách
khôn mở ngỏ và lưu truyền trong giới b́nh dân từ xưa đến nay."
(2)
Tóm lại, theo các nhà biên khảo nầy th́ các câu tục ngữ là một "quyển
sách khôn, một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và về
nhân sinh" giúp cho dân gian ta "có được một tri thức thông thường
để làm ăn và cư xử ở đời".
Trong các tục ngữ của chúng tôi đă sưu tập, ngoài những câu nói về "mưu
sinh" và "tâm lư người đời" ra (như canh nông, thời tiết, nghề
nghiệp, phong tục, luân lư, lư sự đương nhiên..., mà ở văn chương
truyền khẩu nước nào cũng có), th́ phần nhiều là những câu về "cái
biết", về "cái khôn" của người đời, rồi đến những câu về "vũ trụ"
(như đạo Trời, vận mệnh con người, Phật, tu hành, phúc đức...),
về "nhân sinh" (như trung với vua, quan lại tham nhũng, các kinh
nghiệm ứng xử khôn ngoan giữa xă hội với nhau).
Chúng tôi nghĩ rằng đây là cẩm nang, là bản chúc thư của tiền nhân,
truyền lại cho con cháu cả một "triết lư dân tộc" xây dựng trên cái
"biết" và cái "khôn", để cư xử cho đúng "đạo làm người", theo "Lẽ
Trời và T́nh người". Tuy tiền nhân không nói rơ ra, nhưng con cháu
chúng ta phải hiểu rằng dụng ư của các Ngài không ngoài mục đích tối
thượng là chỉ đường cho chúng ta "tranh đấu bảo tồn ṇi giống, đất
nước, chống xâm lăng cho khỏi bị đồng hóa, diệt chủng".
Các nhà Nho, các thành phần sang giàu, các thị dân có những sách vở
của Nho giáo để căn cứ vào đấy mà ứng xử với nhau. C̣n dân gian nông
thôn không có chữ, nên trong sự giao thiệp, ứng xử thường ngày, chỉ
căn cứ vào các câu tục ngữ, là kho tàng hiểu biết, khôn ngoan, kinh
nghiệm mà tiền nhân đă truyền miệng lại cho chúng ta. Tục ngữ nước
ta rất nhiều, không có một trường hợp nào mà dân gian không có thể
dùng một vài câu tục ngữ để minh chứng cho thái độ, hành vi của ḿnh.
Ở bài Parémiologie viêtnamienne et comparée ("Tục-ngữ-
học Việt Nam và đối chiếu"), học giả Thái Văn Kiểm có kể lại
câu chuyện về công dụng của tục ngữ trong một việc tranh chấp giữa
dân gian với nhau, tóm lược như sau:
"Trước đây có một lái buôn bán cho người
Việt Thượng một cái áo bằng vải bông giá 50 đồng, trả được 30, c̣n
thiếu 20 đồng, th́ người Thượng bỏ lên núi không thấy quay lại thanh
toán. Sau một thời gian khá lâu, người lái buôn gặp lại người Thượng
xuống đi chợ, liền túm lấy dẫn đến viên cai trị người Pháp để kiện.
Người Thượng nói áo mua, vải không tốt, không xứng 50 đồng, nay y
chịu trả thêm 10 đồng nữa mà thôi. C̣n người lái buôn nhất định đ̣i
cho được 20. Viên cai trị Pháp xét việc cũng không có ǵ rắc rối, mà
y lại nói tiếng Việt và tiếng Thượng thông thạo, thấy không cần gọi
viên chức Việt đến giúp. Không ngờ suốt cả buổi mai y giải thích
luật lệ, khuyên dụ đủ mọi cách, mà cả hai bên nguyên bị vẫn không ai
chịu nghe theo. Cùng lắm, y cho gọi viên chức Việt đến. Viên chức
Việt chỉ nói qua nói lại có mấy phút mà người lái buôn bằng ḷng
nhận 10 đồng. Viên cai trị Pháp lấy làm lạ, hỏi, th́ viên chức Việt
kể lại là đă dùng các câu thành ngữ, tục ngữ để nói với người lái
buôn rằng: "Anh cho người Thượng mắc chịu như vậy cũng như "thả trâu
vô rú", nay được người Thượng bằng ḷng trả thêm 10 đồng, là như
"của đổ mà hốt" lại thôi. Xưa nay anh có thấy ai hốt của rơi lại cho
đủ không? Ông bà ta thường nói: "gạo đổ lượm chẳng đầy thúng". Bây
giờ họ bằng ḷng trả 10 đồng là được rồi, chớ bày chuyện kiện cáo v́
tục ngữ ta có câu: "Được kiện mười bốn quan năm, thua kiện mười lăm
quan chẳn". Khôn dại, hơn thiệt thế nào, là một thương gia, anh hẳn
thấy rơ." Người lái buôn cho là phải, nên nghe theo."
(3)
1. Khôn dại trong thi ca
Vấn đề "khôn dại" rất quan trọng trong việc xử thế, cho nên trong
văn thơ của các bậc thức giả xưa nay, vẫn thường thấy được nói đến.
Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trăi, trong Quốc-âm thi tập, đă nêu
lên vấn đề "khôn dại" nầy:
"Chẳng khôn chẳng dại, chỉ ương ương,
"Chẳng dại người ḥa (tất cả) lại chẳng thưong."
Đại ư nói rằng nếu ta chẳng chịu nhận là dại th́ tất cả mọi người
chẳng ai thương ḿnh...
Đến thế kỉ thứ XVI, trong Bạch-Vân am quốc ngữ thi tập, Trạng
Tŕnh cũng phân biệt hai chữ "khôn dại" như sau:
"Khôn th́ người dái (sợ, nể), dại th́ thương,
"Nhắn bảo bao nhiêu người ở thế,
"Chẳng khôn đành dở, chớ ương ương."
Nghĩa là: Khôn th́ thật khôn cho người ta sợ, dại th́ rơ ràng dại
đi cho người ta thương, nếu không khôn được th́ đành chịu dại, chớ
không nên ương ngạnh.
Vào cuối thế kỉ thứ XIX, khi người Pháp bắt đầu đặt quyền thống trị
ở nước ta, Nguyễn Khuyến cáo bệnh từ quan, làm ra vẻ ngây ngô để
khỏi bị ép ra làm việc lại. Ở Nam Định thời bấy giờ, có một người
đàn bà tên là Mẹ Mốc, chồng đi mất tích (có thuyết cho là theo kháng
chiến), bà giả điên giả cuồng và hủy hoại nhan sắc để khỏi bị chọc
ghẹo. Nguyễn Khuyến thấy tâm sự của bà giống với tâm sự của ḿnh,
nên cảm tác ra một bài hát nói, có câu kết như sau:
"Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ,
"Đắp tai, ngảnh mặt làm ngơ,
"Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
"Khôn kia dễ bán dại nầy..." (4)
Rồi đến đầu thế kỉ thứ XX, Trần Thế Xương cũng than lên:
"Thiên hạ đua nhau nói dại khôn,
"Biết ai là dại, biết ai khôn?
"Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
"Dại chốn văn chương, ấy dại khôn..."
Vấn đề "khôn, dại" nầy, từ thời xa xưa, ở Trung Hoa, Khổng Tử
(551- 479 t.T.L.) cũng đă nêu ra để giảng dạy cho các môn đệ, rằng:
"Ninh Vơ Tử, khi trong nước có đạo lư th́ ông ta tỏ ra có tài trí
(để ra làm việc), nhưng gặp khi chính quyền vô đạo, th́ ông làm như
ngu dại (để khỏi bị ép ra cọng tác, tiếp tay với quân cường bạo sát
hại nhân dân). Cái khôn của ông nhiều người làm được, đến như cái
ngu của ông th́ không mấy ai b́ kịp." (5)
2. Khôn dại trong tục ngữ
Trong các câu tục ngữ của ta, dân gian đă nói nhiều về "khôn"
dại", và đặc biệt, cũng có một câu giống như các câu thơ của Nguyễn
Trăi và Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa thấy trên đây:
"Khôn cho người dái (nể, sợ), dại cho người
thương
"Dở dở ương ương, tổ cho người ta ghét."
Nhưng v́ sao dân ta cho rằng cần phải phân biệt dứt khoát "khôn",
"dại" như thể
Nguyên là trải qua bao thế kỉ, dân tộc Việt thường xuyên phải chọn
lựa giữa hai con đường: Đầu hàng, cọng tác với địch, hay kháng chiến
chống lại với ngoại xâm và bạo quyền độc tài tàn ác. Con đường nào
là khôn? Con đường nào là dại?
Nhưng khôn hay dại, thường bị các thành kiến chủ quan thiên lệch của
người đời chi phối. Lắm khi, điều mà ta cho là khôn, th́ người khác
lại cho là dại, hay ngược lại, như trong cổ tích "Trâu rừng
với trâu nhà": "Trâu rừng chê trâu nhà là dại, v́ để cho chủ
bắt làm việc cực nhọc, rồi cuối cùng cũng bị chủ làm thịt, và cho
ḿnh là khôn v́ đă chọn cuộc sống tự do, không bị cưỡng bách lao
lực. C̣n trâu nhà th́ chê lại trâu rừng là dại, v́ ở rừng bị đói
khát, nhất định có ngày sẽ bị beo cọp ăn thịt, và cho ḿnh là khôn
v́ thường ngày có cỏ để ăn, có nhà để ở, khỏi bị dăi dầu mưa nắng,
khỏi bị thú dữ sát hại. Bên nào cũng tự cho ḿnh là khôn hơn bên
kia, và cảnh cáo lẫn nhau: "Khôn th́ sống, mống (dại) th́ chết". (Truyện
cổ nước Nam, Nguyễn Văn Ngọc, tập 2, tóm lược truyện số 28).
Trong suốt bao nhiêu thế kỉ bị ngoại thuộc hay hay bị kềm hăm dưới
các chế độ bạo ngược, cái "khôn thật", "khôn giả", và cái "dại
thật", "dại giả" thường bị lẫn lộn với nhau.
Tuy vậy, dân gian không phải là không phân biệt được, song không dám
nói rơ ra, mà trái lại, thường c̣n làm như dại khờ không biết đến.
Cũng như Nguyễn Khuyến, dân gian đă có câu kín đáo tự hào rằng:
"Rù đầu, giả dại, làm ngây,
"Khôn kia dễ bán dại nầy mà ăn !"
Sau đây, chúng tôi xin mượn lời của Lê Văn Siêu, tác giả
Văn-minh Việt-Nam, để giải thích thêm về vấn đề nầy:
"Làm thế nào khác hơn được? khi một dân tộc
bị sống trong hoàn cảnh đe dọa diệt tộc thường xuyên, bởi một kẻ
mạnh gấp trăm ngàn lần ḿnh, ở ngay bên nách ḿnh, nếu chẳng nghĩ
tha thiết đến sự sống c̣n, đến con cái nối nghiệp, th́ chỉ sơ sẩy để
đầu óc viễn vông một chút thôi, cũng đủ mất tích vào trong bản đồ
của địch thụ Cho nên Trạng Tŕnh, một vị hiền triết được dân chúng
kính trọng là có tài tiên tri, đă chỉ dạy có một điều rất gọn:
"Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết th́
sống".
Biết tương quan lực lượng giữa ḿnh và
người, biết tâm lư khát vọng giữa ḿnh và người, biết dằn ḷng chờ
cơ hội thuận tiện để thực hiện ư định, biết giả dối để che đậy bí
mật hành động cho khỏi hại, biết cương quyết tiến lui, biết cứng mềm
tùy lúc, biết thích ứng hoàn cảnh để sống c̣n, biết lẩn tránh mũi
dùi của địch... toàn là những cái biết rất thực tế, có thể kiểm điểm
lại qua mọi sự kiện lịch sử, và có thể thấy rất rơ ràng là chính nhờ
cái biết ấy mà nước Việt Nam chúng ta c̣n được tới ngày nay".
(6) "Khôn cũng chết " như Trạng Tŕnh nói, đó là
cái "khôn giả"; và "dại cũng chết " như Trạng Tŕnh nói, đó là cái
"dại thật". Chỉ ai biết phân biệt được "khôn thật" với "khôn giả",
"dại thật" với "dại giả", th́ mới có thể sống được mà thôi. Cũng như
Trạng Tŕnh, tục ngữ đă kết thúc rằng:
"Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết th́
sống."
Xem như thế, "biết" là điều kiện chính yếu để biện biệt cái
"khôn" với cái "dại", giúp cho chúng ta có thể thực hiện được "đạo
làm người", giúp cho dân và nước Việt Nam chúng ta khỏi bị diệt
vong.
Cho nên tưởng trước hết, chúng ta nên t́m hiểu qua các câu tục
ngữ: "Biết là thế nào?" và "Khôn là thế nào?"
A) "Biết " là thế nào ?
1 - Biết là suy xét cho đúng phép: suy chín, xét
xa, biết rơ gốc ngọn, vắn dài, đắn đo nặng nhẹ, nông sâu:
"Làm người suy chín, xét xa,
"Cho tường gốc ngọn, cho ra vắn dài"
..."Làm người phải đắn, phải đo,
"Phải cân nặng nhẹ, phải ḍ nông sâu."
Biết suy nghĩ rất quan trọng, cho nên dân gian thường nhắc đi
nhắc lại cho chúng ta ghi nhớ rằng:
"Làm người mà chẳng biết suy, "Đến khi nghĩ
lại, c̣n ǵ là thân."
2 - Biết c̣n là suy đoán phân biệt để
nhận diện đúng sự vật. Suy đoán là sở trường của những câu đố.
Câu đố - Câu đố có h́nh thức một câu gọn ngắn có vần hay không có
vần, có bản văn nhất định, nhưng câu đố cũng có h́nh thức một chuyện
kể ngắn, không có lời văn nhất định. Tuy vậy v́ nội dung hoàn toàn
thuộc về trí tuệ, suy luận, nên chúng tôi vẫn xem câu đố như là một
loại tục ngữ:
Câu đố thường dùng để mua vui, giải trí sau những giờ làm việc mệt
nhọc, nhưng câu đố cũng góp phần không nhỏ với tục ngữ để luyện tập,
một cách linh động, tinh thần và lề lối suy đoán, biện biệt cho dân
gian. Ở đây chúng tôi không thể đi sâu vào việc nghiên cứu toàn thể
các câu đố, mà chỉ dẫn ra một số câu đố liên hệ hơn cả với cách suy
đoán biện biệt, bổ túc thêm về cái "biết" trong các câu tục ngữ mà
thôi. Chúng tôi chú trọng nhiều đến các câu đố gọi là đố mẹo, nghĩa
là dùng những cách kín đáo, khéo léo để "gài bẩy", làm cho người
nghe hoặc không thấy được, hoặc hiểu sai lệch chủ đề, nên không biết
đâu mà suy đoán giải đáp.
a) Về loại câu đố mẹo nầy, trước hết, có những câu đố "vừa dố vừa
giảng" rất dung dị, song người nghe qua tưởng lầm là vấn đề khó
khăn, rắc rối, nên suy nghĩ xa xôi, đi t́m lời giải ở ngoài lời đố,
không ngờ lời giảng lại nằm sờ sờ trong câu đố rồi:
"Con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt, rơ ràng con
cua"
"Tổ kiến, kiển tố, vừa đố vừa giảng"
Đố: Là những con ǵ, vật ǵ ?
Giải: Là con cua và tổ kiến (có ghi rơ trong các lời đố).
Người Pháp cũng có một câu đố mẹo như thế: "Quelle est la couleur
du cheval blanc d'Henri IV?" (Màu lông con ngựa trắng của Henri IV
là màu gi?). Giải: Màu trắng (có ghi rơ trong lời đố).
b) Có các câu đố mẹo khác, trong lời đố cố t́nh làm lẫn lộn các ư
niệm "đồng thời" với "lần lượt", "trọng lượng" với "khối lượng"
khiến cho người nghe nào sơ ư, hấp tấp sẽ giải đáp sai:
"Luộc 1 cái trứng 4 phút là chín, vậy muốn luộc chín 8
cái trứng phải tốn bao nhiêu phút?"
"Một tạ sắt với một tạ g̣n, tạ nào nặng hơn tạ nào?"
Giải: Luộc chín 8 quả trứng cũng 4 phút thôi (bỏ 8 trứng
chung vào một nồi mà luộc đồng thời với nhau). Một tạ sắt và
một tạ g̣n, không tạ nào nặng hơn tạ nào. (V́ tạ là 100 cân,
th́ tạ sắt cũng nặng 100 cân, tạ g̣n cũng nặng 100 cân như
nhau).
c) Có câu đố mẹo cố t́nh làm cho lẫn lộn các ư nghĩa (đồng âm dị
nghĩa) để đánh lạc hướng người nghe:
"Trục trục như con chó thui,
"Chín mắt, chín mũi, chín đầu, chín đuôi."
Đố là con vật gi?
Giải: Con chó thui (Vừa đố vừa giảng; chữ "chín" ở câu nầy
không phải là số 9, mà nghĩa là "thui chín", trái nghĩa với
"sống")
d) Cũng có câu đố mẹo đă cố t́nh sắp đặt sẵn một câu giải đáp
khôi hài nghe qua cũng hợp lư, mà thật ra th́ "lăng nhách" (trả lời
không đâu vào đâu cả) và ngộ nghĩnh, để "chọc quê" người giải câu
đố:
"V́ sao khi hành nghề, mọi tên ăn cắp, móc túi phải nh́n
trước rồi nh́n sau? "
Giải: V́ hắn không thể nh́n trước và nh́n sau cùng một lượt.
đ) Đặc biệt có câu đố mà có thể có nhiều lời giải đúng, như:
"Con ǵ đứng th́ thấp, ngồi th́ cao ? "
Trong sách, thấy ghi lời giải đáp là: "Con chó". Nhưng thật
ra, lời giải có thể là "con mèo" v́ mèo cũng "đứng th́ thấp,
ngồi th́ cao", như con chó. Mà con beo, con cọp cũng vậy.
Về "đố toán số" cũng có trường hợp một câu đố mà có thể có vô số
lời giải đúng. Chẳng hạn như: "Ba người mua trứng. Người thứ nhất
mua nửa giỏ và nửa quả, người thứ hai cũng thế (mua nửa só trứng c̣n
lại trong giỏ và nửa quả). Người thứ ba mua số trứng c̣n lại. Hỏi số
trứng là bao nhiêu? "
Trong sách chỉ thấy ghi có mỗi một lời giải như sau: Số trứng trong
giỏ là 7, rồi giảng thêm:
Người thứ nhất: Ba quả rưỡi + nửa quả = 4 quả
Người thứ hai : (c̣n lại: 7 - 4 = 3. Phân nửa của 3 = 1 quả
rưởi) một quả rưỡi + nửa quả = 2 quả
Người thứ ba: (7 - 4 - 2) = 1 quả
Nhưng thật ra có vô số lời giải đúng khác nữa, như số trứng trong
giỏ là 11, 15, 19, 23, 27... chẳng hạn.
Số trứng là 11: th́ người thứ nhất 6, thứ hai 3, thứ ba 2 quạ Số
trứng là 15: th́ - 8, - 4, - 3 quả- Số trứng là 19: th́ - 10, - 5, -
4 quạ Số trứng là 23: th́ - 12, - 6 , - 5 quả. Số trứng là 27: th́ -
14, - 7, - 6 quả.
Cái mẹo trong câu đố nầy là đưa ra việc mua thêm "nửa quả" trứng. Đó
là điều trên thực tế không thể làm được. Điều nầy làm cho người giải
câu đố bị hoang mang. Cho nên trước tiên, phải t́m hiểu v́ sao lại
có việc mua thêm "nửa quả", th́ mới tiếp tục suy đoán được.
Là v́ số trứng trong giỏ là một số lẻ, nếu chia thành hai phần đều
nhau (nửa giỏ) th́, trên lư thuyết kế toán, trong mỗi phần sẽ có
"nửa quả". Cho tiện việc mua bán, người mua, ngoài phần nửa giỏ
trứng ra, lại mua thêm "nửa quả" nữa, cho có được trọn y một quạ Như
vậy, số trứng trong giỏ phải là một số lẹ Từ điều kiện tiên quyết
nầy, người giải câu đố ṃ mẫm với những con số lẻ, từ số nhỏ đến số
lớn, từ 1, 3, 5, 7, 9, 11, 13, 15, 17, 19, 21, 23, 25 đến 27 chẳng
hạn ..., th́ thấy các con số đáp ứng với các tiêu chuẩn trong câu
đố, là 7,11, 15, 19, 23, 27.
Và nhận thấy thêm rằng: lấy số 7 mà cọng với 4, hay cọng với các bội
số của 4 (cho đến vô tận), th́ chúng ta sẽ có rất có vô số lời giải
đúng.
Cái hay của câu đố nầy là ở chỗ giúp cho ta hiểu được rằng:
- Cần đối chiếu với thực tế mà kiểm soát sự việc mới có
thể suy đoán hữu hiệu.
- Thường không phải chỉ có một lời giải (của ḿnh) là đúng
mà thôi, cũng có nhiều lời giải khác đúng nữa. Phải có sự
"truyền thông" với nhau giữa những thành phần nhân loại.
e) Để kết thúc phần nầy, chúng tôi xin dẫn ra một vài câu "đố
tục, giảng thanh", chẳng hạn như:
"Bộ tịch quan anh xấu lạ lùng "Khom lưng, uốn gối, cả đời cong "Lưỡi
to mà sức ăn ra khoét, "Cái kiếp theo đuôi có thẹn không?" Câu đố
nghe qua, th́ thấy rơ ràng là một thóa mạ" một ông quan "có hành
động xấu xa lạ lùng, bên trên th́ cả đời khom lưng, uốn gối nịnh bợ,
phía dưới th́ ra sức hà hiếp, đục khoét dân đen, thử hỏi cái kiếp nô
lệ theo đuôi ấy, tự ḿnh có thấy hổ thẹn không?"
Lời chê bai, hạch tội có phần tục tằn, sống sượng, nhưng khi giảng
giải khác đi, th́ nghe thanh nhă:
Câu nầy tả cái cày. "Cái cày h́nh dáng không đẹp, cán uốn cong, lưỡi
cày to, bao giờ cũng phải theo đuôi con trâu để cày". Rồi dân gian,
nhân cách hóa cái cày, mà lên tiếng hỏi rằng: "Sống cuộc đời theo
đuôi con trâu như vậy, "quan anh" có thẹn không?" (Chữ "quan" trong
"quan anh", chỉ "người có địa vị không phải đi phu, tạp dịch trong
làng, dưới thời Pháp thuộc" (theo Từdiển tiếng Việt, Nguyễn Lân,
1991).
Kinh nghiệm: Một chuyện mới nghe qua cho là chướng tai, biết đâu nếu
đứng vào một lập trường nào khác mà nh́n, th́ không phải vậy.
Dân gian biết dùng lối vừa đùa cợt giải trí, vừa đào luyện cho nhau
về suy đoán và cân nhắc trong nhận định, một cách không kém phần sâu
sắc.
B) Khôn là thế nào ?
Khi đă "biết" suy xét, nhận định, suy đoán, th́ có thể phân biệt
được "khôn" với "dại", để hành động cho khỏi sai lầm:
1 - Khôn không phải là làm khôn, (tiếng Việt, có
chữ "làm khôn" nghĩa là tỏ ra ḿnh khôn ngoan hơn người và can
thiệp, xía vào việc của người khác), như thế chỉ có hại cho ḿnh.
"Khôn vừa chứ, khôn lắm lại chết non."
Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trăi đă có câu thơ đại ư như thế:
"Hễ kẻ làm khôn th́ phải khó"
Và Trạng Tŕnh cũng khuyên đừng "tranh khôn" mà có hại:
"Tranh khôn ắt có bề lo lắng."
Mà trái lại, tục ngữ bảo ta phải biết cư xử cho nhún nhường,
khiêm tốn:
"Ai nhất th́ tôi thứ nh́,
"Ai mà hơn nũa tôi th́ thứ ba."
2 - Mà khôn là thận trọng biết giữ ǵn lời ăn
tiếng nói.
Chỉ v́ thiếu tinh thần cảnh giác, không thận trọng, nên người ta
thường thốt ra những câu hớ hênh, vô ư thức, gây ra bao nhiêu tai
họa cho bản thân và cho công cuộc đấu tranh của toàn dân:
" Vạ ở miệng ra, bệnh qua miệng vào."
..." Thứ nhất là tội miệng mạ"
Cho nên:
"Khôn th́ ngậm miệng, khoẻ th́ cắp tay."
..."Người khôn đón trước rào sau,
"Để cho người dại biết đâu mà ḍ"
..."Chim khôn tiếc lông, người khôn tiếc lời."
"Sông sâu, sào ngắn khôn ḍ,
"Người khôn ít nói, khôn đo tấc ḷng."...
..."Người khôn nói mánh, người dại đánh đ̣n."
Ông cha chúng ta có cách nói gần, nói xa, rào trước đón sau, để khỏi
phật ḷng người nghe và nhất là để không ai có thể bắt bẻ, hay buộc
tội ḿnh được. Đó gọi là "nói mánh".
(Trong Đại Nam quốc âm tự điển, 1896, Huỳnh Tịnh Của định
nghĩa chữ "mánh" là "ư tứ, t́nh ư, màng ḍ" và "nói mánh" là "nói ư
tứ, xa gần, nói ướm thử" để người nghe suy nghĩ mà hiểu lấy).
3 - Khôn không phải là quỉ quyệt để làm thiệt hại
người khác:
"Đă khôn lại ngoan,
"Đă đi làm đĩ lại toan cáo làng."
Nếu khôn mà quỉ quyệt, th́ trước sau ǵ cũng:
"Khôn ngoan quỉ quyệt chết lao, chết tụ"
"Càng khôn ngoan lắm, càng oan trái nhiều."
Ở tiếng Việt, từ "ngoan" vốn có hai nghĩa trái ngược nhau:
"ngoan" là khôn, nhơn lành, (như ngoan đạo, đứa bé ngoan), mà
"ngoan" cũng có nghĩa là khó trị, quỉ quái (như ngoan cố, gian
ngoan), (Đại Nam quốc âm tự vị, Huỳnh Tịnh Của, Saigon, 1896). Trong
mấy câu trên đây, từ "ngoan" được hiểu theo nghĩa thứ hai, tức là
"gian tham, quỉ quyệt".
4 - Mà khôn là thật thà ngay thẳng, v́ cuối cùng
cái khôn ngay thật bao giờ cũng hơn cái khôn gian trá:
"Khôn ngoan chẳng đọ thật thà,
"Lường thưng, tráo đấu chẳng qua đong đầy."
(Đấu: thùng bằng gỗ để đong lúa,
gạo; thưng: 1/10 đấu).
Tức là: Khôn ngoan không bằng thật thà, ngay thẳng; có gian lận,
tráo đổi cũng không bằng làm ăn đứng đắn, lương thiện: đong đầy, cân
đúng.
Chưa kể, "khôn" mà làm điều gian ngoan, bất nhân, thất đức, chết
đi sẽ bị xuống địa ngục; c̣n ở đời nầy dại mà hiền lành, chết đi sẽ
được lên thiên đàng:
"Khôn thế gian, làm quan địa ngục,
"Dại thế gian , làm quan thiên đàng"
5 - Khôn không dùng để hại dân, bán nước: không
phải là đem cái khôn ra chống lại với đồng bào, phản lại quyền lợi
chung:
"Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
"Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau."...
..."Chim không đánh chim cùng một tổ
"Trâu một chuồng, đâu có húc nhau.
"Cùng chung một giọt máu đào,
"Nỡ nào hại nước, nỡ nào hại dân."
Và
"Tiếc thay con chim phượng hoàng c̣n dại chửa
có khôn,
"Núi Tam Sơn chẳng đậu, lại đi đậu cồn cỏ may !"
Dân gian ở vùng của chúng tôi cũng có một câu nữa tương tự như
thế:
"Chim kia dại lắm không khôn,
"Núi Lam Sơn không đậu, lại đậu cồn cỏ may."
Lam Sơn là nơi ngày xưa Lê Lợi khởi nghĩa, ở đây "Lam Sơn" dùng
để tượng trưng cho "kháng chiến". Câu nầy đại ư nói: Thương hại cho
những kẻ dại dột không biết theo kháng chiến cứu nước, mà lại đi
theo phường Việt gian (đậu cồn cỏ may là một thứ cỏ, mỗi lần ta
ngang qua, th́ bị những hạt nhỏ của cỏ móc vào quần, rất dơ bẩn,
phải mất th́ giờ mới gỡ hết được).
Và cũng có câu:
"Gáo đồng múc nước giếng tây,
"Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta."
"Giếng tây" là "giếng ở phía tây" mà cũng có thể hiểu là "người
Tây"; "múc nước giếng Tây" có thể hiểu là "đem nước dâng cho Tây".
Đại ư câu nầy là: Cọng tác với Tây, mà tự cho là ḿnh khôn, nhưng có
khôn cho lắm, cũng chỉ là đem thân ra làm nô lệ cho ngoại nhân mà
thôi!
6 - Mà khôn dùng để giữ vững lập trường, đừng để
cho đối phương lung lạc, mua chuộc, dụ dỗ đưa vào con đường bán
nước, phản dân:
"Người đời phải xét thiệt hơn,
"Đừng nghe tiếng sáo, tiếng đờn mà sai."...
"Đây ta như cây giữa rừng,
"Ai lay không chuyển, ai rung không dời"
7 - Khôn mà ư thức được giới hạn của cái khôn.
Chính tục ngữ đă vạch ra cho ta thấy rơ những hoàn cảnh khách quan
và chủ quan đă hạn chế cái khôn của người đời:
a) Hoàn cảnh khách quan đă hạn chế cái "khôn", như: tiền
bạc, lẽ phải, may mắn, thiên thời, địa lợi...:
"Cái khó, bó cái khôn."
..."Khôn như tiên, không tiền cũng dại."...
..."Khôn chẳng qua lẽ, khoẻ chẳng qua lời."...
..."May hơn khôn."...
..."Chẻ vỏ (biết nhiều) vẫn thua vận đỏ."...
..."Người đời ai có dại chi,
"Khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông."
..."Khôn ngoan ở đất nhà bay,
"Dù che, ngựa cưỡi, đến đây phải luồn."
b) Hoàn cảnh chủ quan đă hạn chế cái "khôn", như: dục
t́nh, nhẹ dạ, bản tính trời sinh, già nua lú lẫn...
"Miệng khôn, trôn dại."
..."Khôn ba năm, dại một giờ "
..."Khôn từ trong trứng khôn ra,
"Dại dẫu đến già cũng dại."
..."Trẻ khôn qua, già lú lại."
Tổng kết
Qua tục ngữ, chúng ta thấy được đường lối ngh́n năm của ông cha
chúng ta, là trường kỳ tranh đấu cho sự sống c̣n của dân tộc, của
quốc gia, mà triết lư căn bản là: "biết th́ sống", biết "phân biệt
dại và khôn" để bản thân, ṇi giống khỏi bị diệt vong, một triết lư
xây dựng trên t́nh người , trên sự làm lành, đùm bọc, giúp đỡ, cứu
vớt lẫn nhau, một lề lối ứng xử chừng mực vừa phải, biết thận trọng,
ẩn nhẫn, chịu đựng để thích nghi hóa với mọi hoàn cảnh để sống, để
tồn tại, để chờ thời, chờ cơ hội thuận lợi mà vùng lên.
Nguyễn Thùy, trong Tinh thần Việt Nam, cho rằng: "Có như thế, dân
tộc ta mới tồn tại, mới bảo vệ được tinh thần của ḿnh, mới tiếp thu
được mọi thứ của người để có thể thể hiện được một hội nhập tṛn đầy
cái lư dịch hóa của vũ trụ vạn vật và của con người vào thời kỳ cuối
của kỉ nguyên. Cái tính "chấp nhận để từ khước", "ḥa mà không
đồng", "tỏ ra thua thiệt để không đầu hàng", "chịu thiệt tḥi để
không mất tất cả", nếu có đưa dân tộc đến chỗ phải gánh chịu nhiều
trầm luân, nhưng chính là một cuộc "chạy trốn về đằng trước" rất tế
nhị của dân tộc ta để sửa soạn cho một bước đi tốt đẹp vào hồi chung
cục. Chịu đựng tất cả để khỏi bị tiêu diệt." (7)
Tinh thần kết hợp cái "khôn" và cái "biết" trong tục ngữ, đă chi
phối mọi xử sự, thông truyền giữa dân gian nước ta. Tinh thần ấy
cũng phần nào giống với quan niệm kết hợp "khôn" và "biết" trong
triết học hiện đại Tây phương. Một giáo sư Pháp, Didier Julia, cũng
xác nhận rằng: "Cái "khôn", theo nghĩa xưa, là cái "biết" bằng trực
giác về những qui luật của vũ trụ, và theo định nghĩa hiện đại, là
cái "biết" về những vấn đề của những người khác. Nói một cách thông
thường hơn, cái "khôn" là một khái niệm luân lư chỉ sự "thăng bằng"
của phẩm cách con người : sự "tiết độ" (theo Platon), hay sự "chừng
mực" của mọi ham muốn. Theo nghĩa ấy, cái "khôn" trái lại với sự
"say mê", cũng như trái lại với cái "dại". Cái "khôn" có khuynh
hướng hóa đồng với sự "thận trọng". (8)
Từ điển về Triết-học Pháp cũng đă định nghĩa: "La sagesse est le but
de la philosophie", nghĩa là "cái khôn là cứu cánh của triết học".
(8)
Tóm lại, dân tộc Việt Nam quả đă có một triết lư riêng của ḿnh,
triết lư mà ông cha chúng ta dụng ư trối gửi lại qua các câu tục ngự
Bổn phận con cháu chúng ta là khám phá cho thấy được triết lư ấy, để
hành động cho đúng, hầu tiếp tục đấu tranh bảo tồn ṇi giống và quê
hương. Và danh từ "triết lư" trong đầu đề "Triết lư dân tộc Việt
Nam" mà chúng tôi dùng trên đây, tưởng không phải là lạm xưng!?
Vơ Thu-Tịnh
Chú Thích:
(1) Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn học sử yếu, q. I, Paris,
SudAsie, 1986, Tục ngữ, tr. 6,7.
(2) Phạm Thế Ngũ, Việt-Nam văn-học sử giản ước tân biên, q. I,
Đại Nam tái bản, Glendale,CA., năm ?, tr. 22, 23.
(3) Thái Văn Kiểm, Parémiologie việtnamienne comparée , in
Présence Indochinoise, Paris, No1 - Avril 1979, pp. 81 - 117.
(4) Nguyễn Khuyến - Mẹ Mốc:
So danh
giá ai bằng Mẹ Mốc,
Ngoài h́nh hài gấm vóc cũng thêm ra.
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nḥa,
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiêm kim.(a)
Nhớ chồng con muôn dặm xa t́m,
Giữ son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết;
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.
Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
Khôn kia dễ bán dại nầy!
(a) Kiêm kim = vàng
ṛng
(5) Luận Ngữ, bản dịch của Đoàn Trung C̣n, Paris, SudAsie, năm
?, chương Công Dả Tràng, tiết 20, trang 76: "Tử viết: Ninh Vơ Tử,
bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc ngu. Kỳ trí khả cập giă, kỳ
ngu bất khả cập giă"
(6) Lê Văn Siêu, Văn minh Việt Nam, Saigon, Nam Chi tùng thư,
1964, tái bản Glendale CA., Đại Nam, năm ?, tr. 92, 93.
(7) Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân, Tinh thần Việt Nam, San José
CA, Mékong Tỵ nạn, 1992, tr.195-196.
(8) Didier Julia, Dictionnaire de la Philosophie, France
Loisirs, Paris, 1992, p. 252: Sagesse , "Cette définition est
certainement la plus rigoureuse: la sagesse est, au sens antique, la
connaissance des lois du monde et, au sens moderne, la compréhension
des problèmes d'autrui. Plus communément, la sagesse est une notion
morale qui désigne l'"équilibre" de la personnalité : la
"tempérance" (Platon) ou la modération des désirs. En ce sens, la
sagesse s'oppose à la passion, autant qúà la bêtise. Elle tend à
s'identifier à la prudence."
|