|
VĂN HOÁ - GIAO LƯU VĂN HOÁ
VIỆT-TÀY-NÙNG
Nguyễn Đức Hiệp
Có
nhiều điểm tương đồng về nguồn gốc và khiá cạnh giao lưu văn hoá
Việt-Tày-Nùng. V́ phạm vi, ở đây, tôi chỉ phân tích về một khía cạnh:
quan họ v́ nó có nguồn gốc xa xưa, ngay đến tận thời kỳ lập nước, thời
đại đồ đồng qua họa h́nh, hoa văn và thư tịch cổ Trung hoa về người Bách
Việt. V́ thế, nếu nói nguồn gốc quan họ là do một viên quan đời Lê sáng
chế ra như Toan Oánh đă mô tả th́ chưa phải có bằng chứng điền dă và dân
tộc học rơ ràng và chắc chắn là không đúng.
Thật sự tục hát quan họ đă có ít nhất là
từ thời Lư-Trần và xưa hơn nữa từ tục lệ cổ của dân tộc Việt ở Kinh Bắc
và các dân tộc khác ở miền trung du. Hát quan họ có liên hệ mật thiết
với cách hát Lang, Lượn của dân tộc Tày. Và có thể có sự liên hệ xa hơn
nữa với lối hát giữa trai gái của dân tộc Châu Ro ở Đồng Nai phía Nam.
Hát quan họ cũng có sự đóng góp của công đồng tù binh Chàm định cư ở
Kinh Bắc thời Lư-Trần. Nói chung tất cả các lối hát có nguồn gốc xa xưa
ở tục lệ dân tộc là sự liên hệ trai gái , trao đổi tán nhau trước khi đi
đến quan hệ t́nh dục lẫn nhau hay trong tập thể. Không phải t́nh cờ mà
hội hát quan họ bắt đầu lúc đầu xuân khi vạn vật trổi mở, cây cối phát
sinh, đồng áng trù phú và con người nảy nở đi đến vui chơi và cơ hội
sinh sản (fertility rites). Tất cả các lối hát trai gái trên đều có
nguồn gốc chung ở các dân tộc xưa cổ Đông Nam Á ở bán đảo Đông Dương.
Tôi sẽ tŕnh bày và đưa ra một vài dữ kiện
cũng như các nhận xét từ các nghiên cứu của nhiều nhà sử học, ngôn ngữ
và dân tộc học từ trước và gần đây để cho chúng ta thấy nhiều khía cạnh
trong việc t́m hiểu về nguồn gốc hát quan họ
Sở dĩ có nhiều thuyết về nguồn gốc quan họ là cũng là do nguồn gốc lối
hát này bắt nguồn từ xa xưa trong xă hội Việt ở Kinh Bắc, cái nôi của
văn hoá bản xứ Việt, và không ai biết nó bắt đầu từ khi nào.
Các nhà nho học đời Lê thường cố gắng hạ
thấp giá trị của văn hoá dân dă thay vào đấy bằng những giá trị của quan
triều (cũng như điạ danh Nôm dân dă đă bị "bác học" hoá và biến hết dấu
vết). Kiểu như trên th́ trong sử liệu đầy rẫy cho nên ta phải cẩn thận
và nhiều khi phải dựa vào điền dă, và nhiều dấu vết khảo cổ, dân tộc học
để bổ sung và t́m ra căn ngơ. Cho rằng nguồn gốc quan họ là do một cá
nhân quan triều đời Lê là khó tin. Cũng như các giấc mơ của vua, chúa
hay nhiều huyền thoại để giải thích tâm linh và hoạt động văn hóa hay
tín ngưỡng của người Việt. Đây cũng là hậu quả tự ti về văn hoá bản xứ
dân dă người Việt của các nho thần đời Lê. (Cũng vậy ta không thể hiểu
được chiến tranh Việt-Pháp hay Việt-Mỹ nếu chỉ đọc qua hay dựa vào một
vài sách hồi kư của vài nhà lănh đạo hay tướng lănh)
a. Quan họ thuở ban đầu, Quan họ và các lối hát của các dân tộc
Nếu chúng ta bàn về Quan họ Bắc Ninh và
trong vùng Kinh Bắc mà không nói về sự liên hệ của lối hát này và các
lối hát của các dân tộc giáp chung quanh vùng Kinh Bắc th́ là một thiếu
sót lớn.
Đặc biệt là Quan Lang, Lượn và Phong Slư
của người Tày và Nùng. Quan Lang là lối hát giao duyên giữa đàng trai và
gái trong lễ cưới trong khi Lượn và Phong Slư là lối hát giao duyên
trong các lễ hội, ngoài đồng, rừng đồi trong công việc thường ngày.
"Trong nền
dân ca Việt nam, dân ca quan họ Bắc Ninh là một loại dân ca rất đẹp về
mặt trữ t́nh, chủ yếu là t́nh yêu trai gái, điều này đă được các nhà
nghiên cứu nhận định thống nhất. Đọc và t́m hiểu Quan họ, chúng tôi thấy
ở loại dân ca ưu tú này có khá nhiều điểm gần gũi với dân ca Tày, Nùng
nói chung với lượn và phong slư nói riêng , gần gũi về "nội dung đậm
tính chất trữ t́nh", về thể cách xây
dựng h́nh tượng, về đề tài và cả về lối ca hát nữa. Sự gần gũi này chứng
tỏ rằng lượn và phong slư đứng về mặt dân ca mà nói có nhiều điểm rất
đặc sắc, không kém Quan họ Bắc Ninh.
Hơn thế
nữa, Phong slư c̣n có phần mang tính trữ t́nh đậm đặc hơn. Có thể nói
tất cả những cung bậc về t́nh cảm lứa đôi, về t́nh yêu vợ chồng, về
thiên nhiên xứ sở đă tập trung, cô đọng trong từng bài phong slư. Trong
cái rừng âm thanh về t́nh yêu đó, nổi bật lên một tiếng nói rất đạo đức,
rất phù hợp với quan niệm t́nh yêu của nhân dân lao động cần được phát
huy trong cuộc sống ngày nay, đó là tiếng nói của một t́nh yêu chung
thuỷ sắt son, chung thuỷ cả trong "kiếp sau" nữa. "
(Vi Hồng - Vài suy nghĩ về hát Quan Lang, Lượn, Phong Lư, Tạp chí Văn
Học, 3/1976, trang 50-61, Viện Văn học, Uỷ ban KHXH)
Điều này chứng tỏ rằng, đứng về dân ca và
dân tộc học, Quan họ Bắc Ninh không thể do sự sáng tạo của một cá nhân
nào ở thời Lê sau này. Nó đă có từ thời ngh́n xưa giữa các dân tộc Kinh
ở Kinh Bắc giáp giới với miền trung du của các dân tộc Tày, Nùng.
Thế c̣n lối Hát giao duyên trong dân ca
Châu Ro (Đồng Nai) th́ sao ?.
"Lối hát
giao duyên (xim pút) được h́nh thành trên mối quan hệ luyến ái giữa các
lứa đôi trong cộng đồng. Người Châu Ro theo chế độ mẫu hệ, nhưng không
phải v́ thế mà cử chỉ tỏ t́nh chỉ biểu lộ ở người con gái hoặc ở người
con gái trước. Qua các bài hát giao duyên ta biết được, thường là người
con trai phải "mở lời ong bướm" trước ..."
(Trần Quang Huy - Âm nhạc dân gian của người Châu Ro, Tạp Chí Khoa Học
Xă hội số 28-II-1996, trang 161-169, Viện KHXH Tp HCM)
b. Quan họ có nguồn gốc xa xưa
Thực ra, cái tục chơi xuân trong các hội
hè đầu năm như tục hát đối
Quan họ,
hát Dặm hay Trống Quân ở xă hội Việt Nam xưa, không phải thuộc riêng cho
dân tộc Việt Nam, mà là cổ tục chung cho tất cả dân tộc nông nghiệp miền
Đông Á...
Maspero chẳng hạn, đă nghiên cứu về hội
đầu xuân ở Yên Bái hay Nghiă Lộ
"Ngày hội
ấy mở vào tháng ba, tháng tư, trước khi có hạt mưa rào và bắt đầu vào
công việc đồng áng. Chỗ hội họp là động Thẩm Lệ, có tiếng là nơi linh
thiêng, ngày thường không ai dám lai văng, sợ đông chạm đến quỷ thần.
Nhưng đến ngày hội th́ trai thanh gái lịch tự do kéo nhau lũ lượt vào
động để hát đối, giao duyên... Bên trai thắp các ngọn đuốc lên, tay cầm
đuốc đi diễu qua trước mặt các cô nàng, cố soi vào tận mặt để xem mặt.
Khi một chàng đă t́m thấy ư trung nhân rồi, anh ta bèn đứng trước mặt
nàng rồi cất tiếng hát. Nghe anh chàng xướng, hát xong, nếu cô nàng ưng
ư th́ liền ngồi xụp xuống đất để tỏ ư bằng ḷng. Nếu sau khi đă xướng
hát rồi, chờ măi không thấy nàng ngồi xuống, ấy là anh ta biết cô nàng
không bằng ḷng, chỉ c̣n cách đi khỏi. Ở trường hợp chàng được nàng ưng
ư ngồi xuống rồi th́ chàng liền tắt đuốc đi và cùng ngồi xuống bên cạnh
nàng. Bây giờ hai bên vịn vai nhau mà hát đối, câu hát trao t́nh, càng
ngày càng thân mật."
Nói về hội xuân trong động Thẩm Lệ ở Yên
Bái, Nghĩa Lộ, ông Nguyễn Đăng Thục và ông Henri Maspero trong "Les
religions Chinoises" đă nói như sau:
"Những hội
hè ấy, nếu thiếu th́ mùa màng không tốt, lúa không mọc. Chính vào lúc
người ta vừa xua đuổi khí độc của mùa đông đi rồi mới có cuộc phối hợp
giữa thanh niên thiếu nữ. Sự phối hợp giữa họ với trời, có mục đích như
khích động sự phát triển dương xuân. Nhờ cái đà ấy mà mà cái ṿng thời
tiết của năm mới, mới bắt đầu, mầu mỡ của đất đai mới bảo đảm. Cũng như
tất cả những cuộc lễ bái tôn giáo nước Tàu xưa và hội hè mùa xuân có một
tính cách tín ngưỡng rơ rệt, hội Thẩm Lệ này nhằm mục đích giúp cho điều
lư vận hành của vũ trụ và nhất là giúp cho mùa xuân mở đầu cho sự phát
triển của nông nghiệp."
Tóm lại tục hội hè đ́nh đám mùa xuân ở Á
Đông có cái điểm đặc biệt này là người ta tháo khoán cho sự giao dịch
nam nữ, khỏi phải tôn trọng cái nguyên tắc khắc khổ của Khổng Nho "Nam
nữ thụ thụ bất thân". Đây là cơ hội độc nhất trong một năm để nam nữ tự
do gặp gỡ... Ở nhân dân Việt Nam tục ấy c̣n sót lại trước đây hai ba
chục năm ở các hội hè đ́nh đám mùa xuân như hội Lim trên kia với tục hát
Quan họ.
Ở nhân dân miền núi phía Nam nước Tàu cho đến Tây Tạng, Nhật Bản, người
ta đều thấy tục ấy rất thịnh hành. Tính cách chung của tục này là
(a) Những câu hát bắt nguồn ở sự hát đôi giữa bên nam bên nữ ;
(b) Những câu hát hoặc là đố lẫn nhau, hoặc tỏ t́nh với nhau
(c) Trong các hội hè ấy t́nh cảm bồng bột khác thường và đi đến t́nh
dục, kết cục là một dịp hôn phối
(d) Hát đối thường có giữa trai của một làng với gái ở một làng khác,
theo cái cổ lệ ngoại tộc kết hôn (exogamie) hay kết hôn tập thể.
(Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt nam, Tập 1, Nxb Tp HCM, 1992).
Ngay cả các tư liệu xưa của Trung quốc có
nói đến tục lệ hát giữa trai gái trong hội đám người Zhuang ở Quảng Tây
dưới mắt của các sứ giả và các người Hán Hoa. Theo đó có những cuộc thi
đối hát giữa trai và gái hay hai nhóm trai và gái, đôi khi dùng các bài
hát cổ điển đă có, nhưng thường th́ tranh nhau với những bài tự chế khôn
ngoan đối đáp qua lại coi ai hơn ai. Các bài đối hát, theo tiêu chuẩn
Hán, th́ rất là tục tiểu, ướt át, và thường là sau các cuộc thi là dẫn
đến t́nh dục tập thể, mà các tác giả người Hán để ư và b́nh luận rất
nhiều.
IV TỔNG LUẬN
Việt Bắc và cư dân là một "nửa" phần tạo
thành con người và đất nước Việt Nam. Tầm quan trọng của vùng cũng tương
tự như đất "tổ" Vĩnh Phú của vua Hùng nước Văn Lang và Kinh Bắc ở đồng
bằng về phương diện tâm linh và văn hoá. Ngày nay ta thường chú trọng về
phần tổ đấy mà sao lăng một phần tổ thứ hai ở trung du có nguồn gốc sâu
sa đă cống hiến tạo thành văn hoá, đất nước Việt Nam. Có nhiều lư do tại
sao như vậy, nhưng trong lịch sử nếu ta nghiên cứu một cách khoa học và
gạt bỏ các lăng kính ngoại nhập làm loăng đi tính chất nguyên thuỷ cội
nguồn Việt, chúng ta có thể t́m thấy được một phần nguồn gốc của ḿnh
tại vùng chiến lược quan trọng này.
Một trong những lư do là tư tưởng triết lư
Trung hoa đă ảnh hưởng và bắt rễ trong tri thức từ lâu trong lịch sử
Việt Nam ở vùng "kinh" đồng bằng, pha loăng một phần cội nguồn nguyên
thuỷ. "50" người con lên vùng núi trong truyền thuyết tổ tiên đă phai
dần trong trí nhớ và tư tưởng của văn hoá Việt hiện đại. Nếu có nhớ th́
chỉ là một h́nh thức quen theo thói quen trong lời nói nhưng không có
một sự gạch nối cụ thể linh cảm đến tư tưởng và tâm linh xưa. Đó không
phải là lỗi của ai v́ đó là sự phát triển trong thiên nhiên khi có sự xa
cách về địa lư và môi trường theo các biến cố của lịch sử trong sự tiến
hoá của xă hội con người.
Tuy vậy chúng ta cũng nên t́m hiểu và nhận
thức quá tŕnh trên v́ Việt Bắc cũng đă và sẽ là tương lai của quan hệ
ngoại giao Việt-Trung, một quan hệ quan trọng nhất về phương diện văn
hoá, kinh tế và cá thể của Việt Nam. Hiểu được lịch sử con người, quá
tŕnh văn hoá và vai tṛ của Việt Bắc là ch́a khoá giúp ta một phần phát
huy một bản chỉ đồ tư tưởng thiết lập các quan hệ chiến lược với Trung
quốc siêu cường sau này.
Tham khảo
(1) Lă Văn Lô - Quanh vấn đề An Dương
Vương Thục Phán hay là truyền thuyết "Cẩu chủa cheng vùa" của đồng
bào Tày, Nghiên cứu Lịch sử 5--51, 6-1963.
(2) Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt nam, Tập 1, Nxb Tp
HCM, 1992
(3) Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử
Việt Nam, Tập 1, 1983.
(3) Vi Hồng - Vài suy nghĩ về hát Quan Lang, Lượn, Phong Lư,
Tạp chí Văn Học, 3/1976, trang 50-61, Viện Văn học, Uỷ ban KHXH
(4) Trần Quang Huy - Âm nhạc dân gian của người Châu Ro, Tạp
Chí Khoa Hoc. Xă hội số 28-II³1996, trang 161-169, Viện KHXH Tp HCM
(5) Nguyễn Phan Quang, Khởi nghĩa Nông Văn Vân ở Cao - Lạng,
Nghiên cứu lịch sử (4/199), tháng 7,8 1981, trang 37-51
(6) Nguyễn Minh Tường, Nhà Mạc sau năm 1592, trong Mạc Đăng
Dung và vương triều Mạc, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, trang 113
-136
(7) Trần Quốc Vượng, Mấy vấn đề về họ Mạc, trong Mạc Đăng
Dung và vương triều Mạc, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, trang
156-168.
(8) Jeffrey Barlow, The Zhuang : Ethnogenesis, Pacific University,
http://mcel.pacificụedúas/resources/zhaung/zhuangintro.htm
(9) Moron, F., Tribe to State or State to Tribe in Ancient China,
trong "The origins of Chinese Civilization", Berkeley,
University of California Press 1983, trang 467-493.
(10) Meacham, W., Origins and development of the Yue Coatal
Neolithic: A micrososm of Cultural Change on Mainland of East Asia,
trong sách "The origins of Chinese Civilization", Berkeley,
University of California Press 1983, trang 156-158
Khoa hoc soi sáng lịch sử. Nxb Lao
Động.
|