|
Thu hoạch |
Nền văn hóa nông nghiệp, sản xuất lúa nước truyền
thống của dân tộc ta đă để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa,
sinh hoạt, lao động. Trải qua bao thế hệ cha ông ta đă tích lũy được
nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và dự báo những hiện tượng tự nhiên như
nắng, mưa, gió rét, băo lụt có ảnh hưởng đến mùa màng, thời vụ. Những
kinh nghiệm máu xương của bao đời được tích tụ trong những câu tục ngữ,
ca dao về trồng lúa, trồng cây, chăn nuôi… Đây chính là bài học quư giá
mà người nông dân Việt Nam xưa kia truyền lại cho các thế hệ cháu con.
Khi chưa có
khoa học khí tượng, cha ông ta đă biết dựa vào quá tŕnh quan sát thời
tiết, sự vật và rút ra được những quy luật ngắn gọn, cụ thể về những
biến động mưa, nắng:
“Mây xanh
th́ nắng, mây trắng th́ mưa”
“Mây kéo
xuống biển th́ nắng chang chang,
Mây kéo lên ngàn th́ mưa như trút”
“Mống đông
vồng tây, chẳng mưa dây cũng băo giật”
“Mau sao th́
nắng, vắng sao th́ mưa”
“Tháng bảy
heo may, chuồn chuồn bay th́ băo”
“Én bay thấp
mưa ngập cầu ao,
Én bay cao mưa rào lại tạnh”
“Chuồn chuồn
bay thấp th́ mưa,
Bay cao th́ nắng, bay vừa th́ râm”
“Ếch kêu uôm
uôm, ao chuôm đầy nước”…
Nếu như
người dân đồng bằng nh́n chim én bay, chuồn chuồn lượn để dự đoán thời
tiết th́ người dân trung du lại dựa vào chú ong để đoán định:
“Ong về mần
nhiều, liệu chiều kiếm củi”
“Ong vàng
làm thấp, băo sấp băo ngửa”
Về khí hậu
nóng, lạnh trong các tháng cũng được đánh dấu mốc trong ca dao, tục ngữ:
“Gió bấc hiu
hiu, sếu kêu th́ rét”
“Tháng giêng
rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”
“Tháng tám
nắng rám trái bưởi”
“Đầu năm
sương muối, cuối năm gió nồm”.
Các nét đặc
biệt của các tháng trong năm được truyền qua bao đời
“Đêm tháng
năm chưa nằm đă sáng”
“Ngày tháng
mười chưa cười đă tối”
“Buồn về một
nỗi tháng giêng,
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài.
Buồn về một nỗi tháng hai,
Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta.
Buồn về một nỗi tháng ba,
Mưa dầm, nắng lửa, người ta lừ đừ.
Buồn về một nỗi tháng tư,
Con mắt lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn.
Buồn về một nỗi tháng năm,
Chửa đặt ḿnh nằm, gà gáy chim kêu”
|
Cấy lúa |
Sự luân chuyển của thời gian cũng được miêu tả chính
xác, sinh động:
“Qua giêng
hết năm, qua rằm hết tháng”
“Nắng chóng
trưa, mưa chóng tối”
“Mồng một
lưỡi trai, mồng hai lá lúa.
Mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm
Mồng năm liễm giật, mùng sáu thật trăng…”
“Mười rằm
trăng náu, mười sáu trăng treo”
“Gió nam đưa xuân sang hè”
Để gieo cấy
thành công, đúng thời vụ và bội thu người dân phảI quan sát tỉ mỉ các
hiện tượng tự nhiên trong một quá tŕnh nhất định, ghi nhớ các kỹ thuật
canh tác để rút thành cẩm nang kinh nghiệm sản xuất cho bao thế hệ.
Muốn gieo
trồng, cày bừa không phải cứ tùy tiện thích trồng lúc nào là trồng. Mà
phải dựa vào các điều kiện thuân lợi của tự nhiên:
“Mồng chín
tháng chín có mưa,
Th́ con sắm sửa cày bừa làm ăn.
Mồng chín tháng chín không mưa,
Th́ con bán cả cày bừa đi buôn”
“Lúa chiêm
lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên”
“Phân tro
không bằng no nước”
“Tỏ trăng
mười bốn được tằm
Tỏ trăng hôm rằm th́ được lúa chiêm”
“Thiếu tháng
hai mất cà,
Thiếu tháng ba mất đỗ,
Thiếu tháng tám mất hoa ngư,
Thiếu tháng tư mất hoa cốc”
Dựa vào tự
nhiên, tuân thủ theo nguyên tắc “mùa nào thức nấy” đă ăn sâu trong suy
nghĩ, kinh nghiệm lao động:
|
Chùa Hương |
“Anh ơi! Cố chí canh nông,
Chín phần ta cũng dự trong tám phần.
Hay ǵ để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng cấy lúa, chăn tằm lấy tơ.
Tằm có lứa, ruộng có mùa.
Chăm làm trời cũng đền bù có khi…”
“Tháng giêng
là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba th́ đậu đă già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu ḅ
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…”
“Đom đóm bay
ra, trồng cà tra đỗ,
Tua rua, bằng mặt, cất bát cơm chăm”
“Đất thiếu
trồng dừa, đất thừa trồng cau”
”Thưa ao tốt cá”
“Nhai kĩ no
lâu, cày sâu tốt lúa”
“Nắng tốt
dưa, mưa tốt lúa”
“Năm trước được cau, năm sau được lúa”
“Tháng giêng
trồng trúc, tháng lục trồng tiêu”
“Mạ úa cấy
lúa chóng xanh,
Gái ḍng chóng đẻ sao anh hững hờ?”
“Nhờ trời
mưa gió thuận hoà.
Nào cầy nào cấy, trẻ già đua nhau.
Chim, gà, cá, lợn, cành cau,
Mùa nào thức nấy giữ màu nhà quê”
“Làm ruộng
ăn cơm nằm,
Chăn tằm ăn cơm đứng”
“Hễ mà hoa
quả được mùa,
Chắc là nước bể, nước mưa đầy trời.
Ai ơi nên nhớ lấy lời.
Trông cơ trời đất, liệu thời làm ăn”
|
Chăn trâu |
Các giống vật nuôi gắn liền với đời sống nông nghiệp
cũng được người dân Việt lựa chọn, chăm sóc kĩ càng để chúng đem lại lợi
ích cao nhất, thiết thực nhất, đặc biệt là h́nh ảnh con trâu, biểu tượng
gắn liền với nhà nông được nhắc đến một cách rất quí trọng:
“Trâu ơi ta
bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia.
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công!
Bao giờ cây lúa c̣n bông, th́ c̣n ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”
“Trâu gầy
cũng tày ḅ giống”
“Trâu năm
sáu tuổi c̣n nhanh,
Ḅ năm sáu tuổi đă tranh về già,
Đồng chiêm xin chớ nuôi ḅ,
Mùa đông tháng giá, ḅ ḍ làm sao!”
“Nuôi gà
phải chọn giống gà,
Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau
Nhất to là giống gà nâu,
Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều”
“Chó khôn tứ
túc huyền đề.
Tai hơi cúp, đuôi th́ hơi cong.
Giống nào mơm nhọn đít vồng,
Ăn càn cắn bậy ấy không ra ǵ”
“Giàu nuôi
lợn nái, lụi bại nuôi bồ câu”.
“Lợn đói một
năm không bằng tằm đói một bữa”.
“Làm ruộng
có năm, nuôi tằm có lứa”
“Dâu non
ngon miệng tằm”…
|
Vất vả một nắng
hai sương |
Với những câu ca dao, tục ngữ có vần có điệu, duyên
dáng, sinh động, dễ nhớ…cha ông ta đă gửi gắm t́nh cảm gắn bó, ḥa ḿnh
với thiên nhiên, đồng thời ấp ủ khát vọng chinh phục, cải tạo thiên
nhiên, đó là những cách nghĩ, nếp sinh hoạt, lao động sản xuất của người
dân nông nghiệp. Người Việt xưa luôn có ư thức về việc đúc rút, ǵn giữ,
lưu truyền những kinh nghiệm quí báu cho các thế hệ nối tiếp.
Ngày nay
tuy khoa học kỹ thuật đă tiến bộ vượt bậc, con người đă dự báo chính xác
các hiện tượng tự nhiên một cách nhanh chóng, chính xác và các biện pháp
khắc phục trở ngại do tự nhiên mang lại, bay cao bay xa chinh phục những
chân trời mới. Việc sản xuất nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật
cho thu hoạch tối ưu, có thể sản xuất nhiều mùa trong năm… Song thiết
nghĩ thành tựu ấy vẫn được dựng xây trên cái nền cơ bản xa xưa: kinh
nghiệm dân gian
VIỆT
KHUÊ (t.h) |