Văn hóa trầu cau
Ngày xưa ở quê, bà
ngoại tôi ăn trầu bỏm bẻm, có cả ống "ngoáy" trầu bằng "túc súng” vàng
tươi, bà vừa têm trầu, rồi để vào cối giã nhỏ rất "điệu nghệ” tôi nhìn
mà phát thèm. Có một lần bà đi vắng, tôi cũng bắt chước làm thử xem "nó"
ngon tới mức nào! Ý trời ơi! Lần đó tôi bị "say máu ngà" mới biết cái vị
cay nồng từ thuở hồng hoang của ông cha còn mãi ngân nga.
Lớn lên tôi đi học đàn, lại mê bài "Sự tích trầu cau”
của Phan Huỳnh Điểu, nói về lòng chung thủy của con người hay quá… tôi
định viết cái gì đó, nhưng không dám , cho tới bây giờ cũng chỉ ngồi ghi
lại vài kỷ niệm về chuyện trầu cau, để nhớ ngoại thôi... Khi học văn hóa,
tôi gặp bài “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính có đoạn "Trầu cau là
đầu các sự lễ nghĩa, phàm việc tế tự tang ma, cưới xin, việc gì cũng lấy
miếng trầu làm trọng". Đúng như cự Phan đã nói, ăn trầu là một phong tục
của người Việt ta, từ lễ hỏi gọi là: "ăn trầu, uống rượu” ... Rồi ngày
cưới, rước dâu về, cũng che tấm vải để hai đứa nó "giở mâm trầu” coi có
"hên" hay không… Từ đó tôi mới biết câu tục ngữ: "Miếng trầu là đầu câu
chuyện".
Ngoài ra ăn
trầu còn giữ được men răng, răng lại bền, ít bị sâu răng... ăn trầu ngày
xưa, cũng như hút thuốc và uống trà vậy. Nó phổ biến và “trịnh trọng"
đến nỗi xem ai đó ăn trầu, ta cũng phán đoán được tính tình của họ :
"Thân em
như miếng cau khô,
Người thanh ham mỏng, người thô ham dầy".
Từ chuyện
ăn trầu sinh lễ nghĩa, có khi còn vươn xa như một hình tượng nghệ thuật,
có một ông vua trong thần thoại đã từng tìm được vợ mình sau cơn binh
lửa qua miếng trầu têm hình con chim phượng.
Cau trầu
còn biểu đạt tình yêu nam nữ một cách rất tinh tế và ý nhị, mượn chuyện
trầu cau, chàng trai bóng gió:
"Nhà em đất
tốt trồng cau,
Cho anh trồng ghé bụi trầu gần bên” .
Hoặc thân
thiện hơn:
“Trầu xanh,
vôi đỏ, cau vàng,
Cơi trầu bịt bạc, thiếp mời chàng ăn chung”.
Thiếp mời
chàng ăn chung! Sao không mời ăn thứ khác mà lại mời trầu! Ngôn ngữ đó
còn mang một tín hiệu gì đây chăng? Cái vô ngôn ngữ đó, còn tiềm ẩn bên
trong một mã số… mà người mẹ Việt Nam có kinh nghiệm sống trong cuộc đời
đã từng giải mã, nên đã dặn con gái:
“Ví dầu
duyên nợ nên chăng,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”.
Người con
gái nếu đã nhận trầu của người con trai, coi như đã chấp nhận sự ràng
buộc, sự ràng buộc đáng yêu, nhưng kín đáo:
"Đôi ta
sang một con đò,
Nhìn quanh vắng khách trao cho miếng trầu".
Vì miếng
trầu là món quà, biểu lộ tình yêu, nên ngại lắm, phải chờ vắng khách mới
dám trao cho người yêu. Ăn trầu cũng là một phong tục đậm đà bản sắc dân
tộc Việt Nam trên khắp ba miền đất nước. Nhà thơ Nguyễn Bính, trong ngôn
ngữ thơ, cũng nhiều lần nhắc đến chuyện cau trầu. Trong hát "ghẹo", ở
Phú Thọ cũng từng nhắc đến:
"Có trầu,
mà chẳng có cau,
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm".
Làm sao cho
đỏ môi nhau, câu hát táo bạo thật, chuyện "ấy” họa có trời mới biết...
Trong cuộc
sống sinh động ngày nay, chuyện cau trầu, chỉ còn chăng ở miền thôn
dã... Riêng tôi thấy ai ăn trầu, lại nhớ chuyện ngày xưa... thuở ngoại
tôi ghiền trầu, tôi chạy mua cau, mua cau hoài ở nhà một cô gái xóm
trong, còn một chút nữa là tôi "mọc rễ " ở đó luôn rồi .
Chuyện cau
trầu, đối với tôi chỉ còn trong kỷ niệm mà thôi.
Thanh
Tâm (Báo Bạc Liêu |