|   | 
		
		 
		
		Sơn La Ký Sự - Phần 1 
		
		(Ghi 
		chép về bản cũ, mường xưa) 
		
			-  Nguyễn 
			Khôi 
 
			- 
			
			LỜI THƯA
 
			-  
 
			- 
			
			Khoảng thời gian từ 1955 - 
			1975 thì 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt Nam là khu 
			tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước 
			VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu  
			hay tỉnh rồi tới huyện, xã, thôn (bản). Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng 
			- xã) còn rất yếu: Chủ tịch xã, trưởng bản phần lớn nói tiếng phổ 
			thông (kinh) còn chưa thông, mới võ vẽ đọc thông viết thạo…Để giúp 
			cơ sở hoạt động có hiệu lực thì cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ 
			xuống giúp xã “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lý) gọi là “cán bộ phụ 
			trách xã”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn, 
			cùng ở, cùng làm với dân bản).
 
			- 
			NK 
			tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công 
			tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã 
			có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể 
			phai mờ…Nay đã ngót 40 năm, xin ghi lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” 
			ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
 
			- 
			
			
			Hà Nội, 28-2-2012
 
			- 
			
			
			Nguyễn Khôi
 
			- 
			 
 
		
		MỤC LỤC 
		
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			Bài 1:
 
		 
		
		BẢN QUÊ YÊU 
			DẤU 
		
			-  
 
			- 
			“Mười yêu không bằng người tình 
			cũ
 
			- 
			Mười nhớ  không bằng nhớ bản xưa”
 
			- 
			Thôn bản là hình ảnh thu nhỏ của xứ sở. Bản (làng) dân tộc Thái đầu 
			tiên khi tôi đến ở là bản Nà Nghịu bên bờ sông Mã (thượng nguồn). 
			Tiếng Thái có nghĩa là “bãi cây gạo”. Đó là mấy chục ngôi nhà sàn (gỗ, 
			tre, nứa, gianh), mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia “khau cút” 
			(hoa nhà) sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên 
			rất điệu đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây Bắc Việt Nam.
 
			- 
			Bản Thái, theo truyền thống thiên di từ vùng “xíp xoong păn na” (Vân 
			Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo “Quắm tố mướng” thì bà con 
			“Thái tộc” thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để tránh 
			cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập 
			cư…Dấu vết “đi đêm” để nhận ra nhau đồng tộc là cái “hoa nhà” (Khau 
			cút) và cái hình mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà 
			sàn Thái). Bản Thái phổ cập 20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số 
			ruộng và nguồn nước để sinh sống. Bản thường chiếm vị trí đặc trí 
			đứng lưng chừng núi (đồi) để tựa lưng một cách vững chắc, tập quán 
			cư trú “hua mun đin, tin mun nậm” (đầu gối đất, chân đạp nước), phía 
			trên là đỉnh núi, chỏm rừng nơi có nguồn nước (thượng nguồn) chảy về 
			(theo máng) rót vào từng nhà, nơi đỉnh có rừng cây mây ủ tiếp với 
			“Mường trời” (cõi linh thiêng), che chở cho bản làng. Dưới chân bản 
			thường là sông, suối, cánh đồng…địa điểm bản thuận tiện cho canh tác 
			(lúa nước, nương rẫy, săn bắt, hái lượm), kinh tế nông nghiệp dựa 
			vào tự nhiên khá hoàn thiện.
 
			- 
			Bản Thái: 
			nhà nhà xếp hàng ngang, từ thấp lên cao, quay quần theo dòng họ (thường 
			có ba đến bốn họ: Lò, Cầm, Quàng, Cà…) tắt lửa tối đèn có nhau, chỉ 
			cần ai đó săn được 1 con thú nhỏ (con hoẵng, đơm được vài con cá to, 
			là tối đó cả Bản lại ngất ngư chén “lẩu xiêu” (rượu cất) bên bếp lửa, 
			hát “khắp” (Tản chụ, xiết xương) đến thâu đêm.
 
			- 
			Làng người Kinh 
			là nằm trong lũy tre xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến 
			nước, ao làng. Bản Thái không có cổng, 
			lối vào tứ phía…trung tâm bản thường là “nhà Trường bản” (trưởng 
			thôn) liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ 
			lòng, dạy chữ Thái cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi 
			như “nhà văn hóa” nơi hội họp của bản.
 
			- 
			Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng nhất là tổ chức sản xuất rồi đến 
			sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng bản thường kiêm tổ 
			trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy mô nhỏ).
 
			- 
			Sáng ra (vào thời điểm 
			tháng 6/mùa hè) khi gà  gáy sáng, ngựa trong tàu (hí) “chàng 
			lụ khươi” (trai ở rể) dậy sớm mài dao cho cả nhà; anh chủ nhà dậy 
			xem trâu xem ngựa; chị chủ nhà bồng con đang bú sang cho mẹ ôm ru 
			ngủ, rồi đi xôi lại chõ cơm xôi…xong bốc chia vào từng “cóm khẩu” (giỏ 
			xôi nhỏ) “ép khẩu” (giỏ xôi lớn).
 
			- 
			Khoảng 5 giờ tinh 
			mơ “tiếng trống đi làm vang gốc núi” từ nhà Trưởng bản (tổ trưởng 
			hay chủ nhiệm) đánh 3 hồi dài, kết thúc bằng 3 tiếng nhằm gọi mọi 
			người lao động (như đã phân công) hôm nay lên 
			núi Pu Luông làm 
			cỏ lúa nương, ngô nương. Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo một 
			đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con 
			đường mòn men theo các sườn núi “Khửn Pu “Khửn Pu….” Đi hơn 2 tiếng 
			đồng hồ, mặt trời đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông 
			chỉ bằng chiếc đũa là tới những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên 
			đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)…ai nấy: Nam thì phát cây dại, nữ 
			thì cào cỏ nương bằng các cái “chóp”…khí trời mát mẻ, chim hót véo 
			von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn…khoảng 11 giờ trưa, nắng 
			oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm…tất 
			cả lùi sang lán 
			bìa rừng(lều nương): để phòng mưa nắng, 
			nghỉ ngơi, ăn trưa cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi 
			đem từ nhà, ít thịt khô, cá ướp…cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, 
			cũng có phần san sẻ…vui vẻ, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Cơm xong 
			cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt, cánh nữ thì tranh 
			thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau lợn, rau 
			rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân “mã hồi”.
 
			- 
			Về tới bản, cánh chị em chưa kịp lên nhà đã ra mó nước “kẻ xuộng xựa” 
			(cởi váy áo) ào ào tắm rửa…cánh đàn ông đem lưới ra sông vây bắt cá.
 
			- 
			Cuối chiều: Chị 
			chủ nhà tắm rửa cho con, rồi lo cho lợn gà ăn, cô em gái ra sông 
			suối hái bon (rau) xúc ốc, chàng rể tắm cho ngựa. Chập tối một lúc 7 
			- 8 giờ tối cả nhà quây quần bên mâm cơm, thường là món cá nướng (pa 
			mốc, pa pịnh) thơm ngon, canh bon nấu ốc hay canh cá nấu măng chua. 
			Ăn xong, bên bếp lửa: cánh đàn ông đan lát, vá lưới, cánh đàn bà dệt 
			vải, chàng rể ra sông “quăng chài” hoặc đơm “đó”, lũ lợn gà ăn no 
			ngủ kỹ…mọi thành viên trong gia đình ai nấy về “buồng nằm” của mình 
			đánh giấc…Từ khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai 
			tơ ở các bản bên “pay ỉn sao” (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, 
			tiếng đàn Tính đến “chọc sàn” thức các cô gái tơ (sao) dậy, để “tìm 
			hiểu” bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn (phía đầu chan) hay ra 
			sàn “Hạn Khuống” mé rìa bản tình tự thâu đêm.
 
			- 
			“Chào bản quê thân yêu
 
			- 
			Nắng mở cửa nhà 
			sàn rộng thêm
 
			- 
			Cho gái lớn xuống thang sang làm 
			dâu Mường khác
 
			- 
			Suối chỉ 
			chảy một dòng
 
			- 
			Xuống núi..
 
			- 
			Chao, tôi chưa về thăm bản ngày 
			xưa
 
			- 
			Nơi tôi ra đời bên bếp lửa
 
			- 
			Mẹ cắt rốn bằng con dao nứa
 
			- 
			Cha ru bằng Tản Chụ 
			Xiết Xương
 
			- 
			Chị tóc mây “tằng 
			cẩu” kết 
			hôn
 
			- 
			Anh lớn lên: anh đi ra trận…
 
			- 
			Tôi lớn lên, tôi xuống núi đi xa
 
			- 
			Mẹ cha mất, ngày 
			về mồ đã cỏ…”
 
			- 
			(Theo La Quán 
			Miên).
 
			- 
			Chao, hồn quê ở xuôi 
			là cây đa rợp bóng sân 
			đình, còn hồn ở bản quê yêu dấu là cái Khau cút (hoa nhà) để ai đó 
			đi lâu trở về từ xa đã nhìn thấy nó như những cánh chim bay lên mừng 
			vui chào đón đứa con tha hương còn nhớ trở về.
 
			- 
			28/2/2012
 
			- 
			  
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		
			Bài 2: 
		
			  
		
		
			- 
			“Cơm Tàu, cơm Tây … nhớ về đây cơm bản
 
			- 
			Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ”
 
			- 
			“Cơm Thái, gái 
			Kinh” câu nói chơi cửa miệng của cán bộ Tây Bắc một thời (cán bộ 
			Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ Thái thì 
			khoái lấy gái Kinh). “ăn” uống là điều kiện hàng đầu để tồn tại sự 
			sống. Cơm Thái cổ điển là ăn nếp xôi truyền thống. Đó là các loại 
			gạo nếp tan, khẩu ma tứn (gạo chó dậy: Cơm xôi thơm quá đến con chó 
			đang ngủ đánh hơi thấy cũng phải vùng dậy). Gạo nếp ngâm qua đêm, 
			với bàn tay của các mẹ, các chị vo sạch, để ráo nước, rồi đổ vào một 
			cái Hày” (chõ gỗ: một khúc thân cây khoét rỗng). Người Thái không có 
			tục “luộc” như người Kinh (cơm bằng  gạo luộc, rau luộc, thịt luộc, 
			mà thường là “xôi” (đồ) bằng nhiều loại “hày” khác nhau (gỗ cây sung 
			co cổng, co đứa), phần dưới của dụng cụ đồ xôi là cái “ninh” (biếng 
			mỏ nửng) bằng đồng đúc… nhờ “xôi” nên thức ăn đậm (không bị nhạt). 
			Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các loại bánh như “khẩu tổm” 
			(bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh giò), khẩu cắm (xôi màu), khẩu 
			hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc 
			sản ngon đặc biệt.
 
			- 
			Nhân loại có các nền “văn minh thìa dĩa” (Âu Mỹ), “văn minh đũa tre” (Trung 
			Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và “văn minh ăn bốc”… người Thái 
			đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi người bao giờ cũng có 
			bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn cơm nếp xôi thì “bốc” 
			(tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì xúc, 
			chứ không quen “và” như người Kinh. Ăn canh thường không “chan” mà 
			dùng thìa múc đưa thẳng vào miệng. Bát chấm mặn thường là muối ớt 
			cộng mắc khén (hạt tiêu rừng) hoặc bát nước chấm pha chế (nậm pịa 
			khi ăn thịt trâu, bò, dê).
 
			- 
			Các món rau trong mâm cơm Thái: ½ là rau rừng (phắc ven,… có tới 80  
			loại), số rau trồng ở xuồn phỏm (vườn gầy)… như rau cải (phắc cát), 
			các loại củ quả bầu bí, mướp, cà… tất cả đều được đồ chín (nửng) kể 
			cả rêu, măng, mùa xuân có món “măng đắng”, mộc nhĩ, nấm các loại, 
			canh măng chua (nậm xổm đanh), món “xổm” ghém, rau sống, rau hoa 
			chuối nộm…
 
			- 
			Tục kin xổm (món chua) đủ cả “kin xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, 
			ngọt, chín, sống) rồi món “tương thối”. Với người Thái “cơm trắng, 
			khúc cá bạc” là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các món ngon là “pa 
			pỉnh” (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc (vùi 
			tro), cùng với “pho pa”: Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói 
			cùng húng chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), 
			pa tổm (cá luộc)… với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá 
			trê (pa đúc)… pa cỏi (lên men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm 
			“xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa cỏi” (thèm thịt ăn thịt chó, 
			thèm cá ăn cá gỏi).
 
			- 
			Các món mắm cá (mẳm pa) 
			mắm tôm (mẳn củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc 
			ten (châu chấu)…
 
			- 
			Các món thịt: Như nhứa đảng 
			(hong khói) 
			pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên); thịt con hoẵng (tô phan) 
			làm “lạp” trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước bắt phèo, một 
			thức đặc sản “nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem” (thịt trâu 
			luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp).
 
			- 
			Mâm cỗ thường 
			khoái món tiết canh, tiết luộc… ngoài 
			ra có món “nhứa min” (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín 
			thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị.
 
			- 
			Các món gia vị thường 
			nhật là ớt, mắc khén (hạt tiêu rừng) củ sả, 
			gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm… điển hình là món “chéo” để chấm.
 
			- 
			Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để 
			nấu canh, tạo cho canh ngọt sánh.
 
			- 
			Cơm bản Thái: 
			Thường ngày ăn bữa chính vào buổi 
			tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa thường ăn 
			ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi, 
			ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng…).
 
			- 
			Bữa ăn tối là bữa 
			cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. “ăn 
			trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà 
			ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía 
			phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ nhà). Các món 
			đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, 
			miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là 
			dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…
 
			- 
			Có khách: Uống 
			rượu cất (lẩu xiêu) theo ông chủ: 1 
			chén rượu húp một thìa canh măng chua… Nói chung bữa cơm bản là bữa 
			cơm bình dân, đạm bạc. Chủ lực vẫn là món cơm xôi nếp, măng và rau 
			rừng là món hàng ngày, thức ăn chỉ là đưa đà để ăn được nhiều cơm 
			(no). Tháng 3 ngày tám, thiếu gạo thường độn thêm sắn (nạo) ngô hoặc 
			ăn thêm củ mài đào trên rừng. Mùa nước lên có thêm món cá, sang xuân 
			săn được con chim, con don, con dím… bổ sung cho món ăn…
 
			- 
			Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà 
			mới…
 
			- 
			Dẫu sao thì  bữa cơn bản Thái thời 1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, 
			ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người Kinh dưới xuôi một thời ăn 
			công điểm là chính.
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		
			
			Bài 3: 
		
			  
		
		
			- 
			Cơm Tàu, cơm Tây chẳng tày cơm bản
 
			- 
			Bát “khẩu hang” tháng 9 mẹ để 
			phần
 
			- 
			Ăn bít tết, lẩu dê… chẳng chê cá 
			nướng
 
			- 
			Món canh chua: Tay chị gái hái 
			măng.
 
			- 
			 
 
			- 
			Ơi cơm bản ta ăn trên sàn gió
 
			- 
			Cha gật gù  nâng chén “lẩu xiêu”
 
			- 
			Mẹ ân cần gắp trám đen vừa bổ
 
			- 
			Chị đẩy sang đĩa “chéo”…cười yêu.
 
			- 
			 
 
			- 
			Trên nhà  sàn khi nắng chiều đã tắt
 
			- 
			Trâu về  chuồng mõ lốc cốc tới khuya
 
			- 
			Lũ Điêu  Điếu ngoài vườn xoài léo nhéo
 
			- 
			Chõ xôi  đơm thơm nức gạo đầu mùa.
 
			- 
			 
 
			- 
			Và ai đó vừa đi ngang ngõ
 
			- 
			Dải khăn Piêu tung vương khói chiều xanh
 
			- 
			Rừng trầm mặc, 
			con nai vàng nào “tác”
 
			- 
			Mùi ấm no bên bếp lửa quây quần
 
			- 
			
			Thuận Châu 
			hè 1965
 
			-  
 
		 
		Bài 4: 
		
		Canh Bon 
		
			- 
			
			(Tặng Lò Văn Cậy)  (1)
 
			- 
			Bản Nà Nghịu thời trẻ trai tôi ở
 
			- 
			Sớm đi nương, chiều chài lưới 
			trên sông
 
			- 
			Em ra suối hái Bon, xúc ốc
 
			- 
			Tối ăn canh Bon ngứa cổ, nghẹn 
			ngùng…
 
			- 
			 
 
			- 
			Em thầm nói: Thương anh Hà Nội
 
			- 
			Phải ăn cơm mường 
			bản chưa quen
 
			- 
			Tôi lặng lẽ nắm xôi, 
			chấm muối
 
			- 
			Húp canh Bon, nhìn đôi mắt đen…
 
			- 
			 
 
			- 
			Đêm bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp
 
			- 
			Em ngồi trên khung cửi đưa thoi
 
			- 
			Tôi ngồi tập vót nan đan 
			“lếp” (2)
 
			- 
			Bếp lửa 
			khuya bốn mắt sáng ngời…
 
			- 
			 
 
			- 
			Rồi tôi đi biết bao xứ sở
 
			- 
			Vẫn nhớ về Sông Mã quê em
 
			- 
			Chợt thèm món món canh Bon ngứa 
			cổ
 
			- 
			Để thưởng người canh cửi đêm đêm.
 
			- 
			 
 
			- 
			(1) Lò Văn 
			Cậy (1928 - 1994) nhà thơ 
			Thái
 
			- 
			Quê Sốp Cộp, 
			huyện Sông Mã
 
			- 
			(2) “Lếp”: 
			Giỏ đeo bên hông của gái 
			Thái
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 5: 
		
		NGỦ BẢN 
		
			- 
			 
 
			- 
			* Người thức giấc giữa mây ngàn 
			gió núi
 
			- 
			Hồn ngỡ là  bay với trăng sao
 
			- 
			* Về kinh xa bản xa Mường
 
			- 
			Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy quanh.
 
			- 
			Chao ôi, các cụ ta 
			có câu “đêm năm (bằng) năm ở”… thế thì vào những năm 60 (thế kỷ 
			20) đêm ngủ ở bản Thái là lý tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: 
			Đầu gối núi, chân đạp sông… 1 anh bạn tôi (Phạm Văn Cống - quê Thanh 
			Hóa) có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ.
 
			- 
			Về đây 
			công tác xã Chiềng Hoa
 
			- 
			Đêm đêm nằm gối 
			thác Sông Đà
 
			- 
			Bởi tiếng Thái Mèo chưa thông 
			thạo
 
			- 
			Phải người phiên dịch hóa “chuyên 
			gia”
 
			- 
			(Hóa chuyên gia)
 
			- 
			* Cán bộ xuống 
			“cắm bản” được xếp ngủ  một gốc “Quản” đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội 
			xanh lá cây, thì cán bộ ai chả có 1 
			chiếc để chống muỗi
 
			- 
			Anôphen (phòng 
			sốt rét), phong tục kiêng màu trắng (có tang)
 
			- 
			Ngủ 
			bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở cái xứ “trâu gõ mõ, chó trèo thang, 
			nước giã gạo” với tiếng “chày đêm nện cối đều đều suối xa”, chập 
			chờn với trăng nhòm qua vách liếp… Cách vài mét là màn đen cô em gái 
			chủ nhà tuổi trăng tròn “kẻ xuộng xựa” (ngủ truồng) đêm nóng nhoài 
			ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ.
 
			- 
			Ngủ bản được nghe 
			tiếng gà gáy sang canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, 
			ngựa gõ móng trong tàu ngựa, vài tiếng chim cú  vang lên 
			phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn…
 
			- 
			Ngủ bản, 
			khuya khuya khi bếp lửa đã tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau 
			làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp phồng hơi thở…
 
			- 
			Ngủ bản: Phía 
			rừng xa vang về tiếng Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn 
			trai chưa vợ.
 
			- 
			Ngủ bản: Con mối 
			vách (Thạch sùng) tặc lưỡi đuổi nhau 
			như đang thở than “ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng có 
			phen tường xiêu, mái đổ…”
 
			- 
			Ngủ bản: Hư hư thực 
			thực, nhớ nhớ  quên quên - rồi thiếp đi 
			một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương, ra ruộng, đánh 
			lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư…)
 
			- 
			Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao 
			được ngủ bản?
 
			- 
			Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay 
			đâu ngủ bản?
 
			- 
			Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có tuần trăng mật ở bản? khi đôi 
			lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen kín mít đó là bóng 
			đêm, huyền diệu “tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi, thân đè 
			thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa “một 
			mái nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ” để mà yêu, mà 
			hiến dâng, mà thụ hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa…”
 
			- 
			Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi… là êm đềm hơi thở giữa không khí 
			trong lành, thanh bình… mà biết bao người (kể cả tỉ phú) mơ mà đâu 
			dễ có được?
 
			- 
			Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho, như ta được kho báu mà ta đâu 
			đã hiểu được?
 
			- 
			Than ôi, tiếc thay, tiếc thay… được mấy ngày ngủ bản?!
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 6 
		
		SƠN LA XƯA 
		
			- 
			Sơn La 
			hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 
			14,125km2 (= 
			4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, 
			gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 
			là 1.080.641 người.
 
			- 
			Lịch sử: Phần lớn 
			tỉnh Sơn La ngày 
			nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận 
			Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả 
			Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của 
			Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479 Sơn La được chính thức 
			nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa.
 
			- 
			24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) 
			tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh.
 
			- 
			9.9.1891 thuộc  Đạo quan binh 4.
 
			- 
			27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu.
 
			- 
			10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến 
			sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay.
 
			- 
			23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.
 
			- 
			Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ 
			Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.
 
			- 
			1948 - 
			1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 
			huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu).
 
			- 
			1953 - 
			1955 thuộc khu Tây Bắc.
 
			- 
			1955 - 
			1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo.
 
			- 
			1962 - 
			1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh 
			Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.
 
			- 
			Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, 
			Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể.
 
			- 
			Sơn La- xứ  Thái xưa là 1 vùng biệt lập do núi non hiểm trở, lại là 
			đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà, sông Mã, ma thiêng 
			nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên đó làm gì. Đó 
			là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở Luông Pha 
			Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường 
			Lò (Nghĩa Lộ)… phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người 
			Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 
			năm sang Việt Nam cư trú?
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 7: 
		
		SÔNG CHÓ 
		
			- 
			“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
 
			- 
			Nhớ về  rừng núi nhớ chơi vơi
 
			- 
			Sài Khao, sương 
			lấp đoàn quân mỏi
 
			- 
			Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
 
			- 
			Đó là đoạn sông 
			Mã (sông Ngựa) ở đoạn giáp ranh từ Sầm Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường 
			Lát) kề với Xuân Nha Sơn La… 
			còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là Nậm Ma (sông Chó).
 
			- 
			Sông Mã  có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện 
			Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện sông Mã (Sơn La) 
			rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi “Pu Xam Sao” (núi 3 cô gái)… 
			cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông 
			Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên 
			lãnh thổ Việt Nam 410km, qua Lào là 102km.
 
			- 
			Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng nước chảy xiết như “ngựa phi”.
 
			- 
			Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học chữ “Mã” là  “Mẹ” - nghĩa là 
			sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông Hồng là sông cái).
 
			- 
			Sử Việt gọi sông Mã là “Lỗi Giang” .Bên Lào là  Nậm Mà. Sơn La gọi “Nậm 
			Ma” (Mẹ là  Êm) “ma” là con chó - có lẽ vì ở thượng nguồn dốc chảy 
			xiết kêu như chó sủa.
 
			- 
			Sông Mã chảy về đến 
			Nà Nghịu (huyện Sông Mã Sơn La) rông 
			cỡ con sông Cầu, 2 bên bớ là đồi núi cao vút không có đê, dòng sông 
			khúc khuỷu, mùa cạn lòng sông trơ những tảng đá gộc, đã lồi đầu, có 
			đoạn có thể lội bộ qua được để ta lại nhớ câu “sống chụ”.
 
			- 
			* Phôm 
			dú hua lứm cấu chắng lứm chụ
 
			- 
			Cánh lứm chái nớ!
 
			- 
			Cẩu chí lứm cánh 
			xíp chí lứm
 
			- 
			Nậm Ma 
			hảnh to đe chắng lứm
 
			- 
			* Tóc 
			trên đầu búi ngược (tăng cẩu) hãy
 
			- 
			Quên bạn tình, hãy quên anh yêu!
 
			- 
			Chín sắp quên và mười sắp quên
 
			- 
			Sông Mã cạn bằng lòng đĩa, hãy 
			quên.
 
			- 
			Mùa cạn này, đêm 
			đêm lũ con trai từ bản Nà  Hin bên sông lội tắt sang bản Nà 
			Nghịu “chọc sàn” tìm bạn tình. Đó cũng là mùa các cô gái ra sông vớt 
			rêu (1 món ăn đặc sản):
 
			- 
			“Sông nhiều rêu, nhiều cá
 
			- 
			Núi nhiều thú, nhiều măng
 
			- 
			Chiều bóng anh che sông
 
			- 
			Sớm mắt em lóng lánh…”
 
			- 
			Ngồi ở bên sông 
			ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 
			6, mưa lớn thượng nguồn… chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn 
			bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả 
			tiếng chó sủa, ngựa phi.
 
			- 
			* Bó 
			Áy Khảm nậm Ma khi khon
 
			- 
			Nhắng xương pánh 
			hảu mon vậy thả đé 
			nớ!
 
			- 
			* Hoa 
			Áy dập dờn trôi ngang sông Mã
 
			- 
			Còn thương nhau xin sắp gối riêng chờ.
 
			- 
			(Hoa Áy vờn trôi ngang sông Mã
 
			- 
			Còn thương, tay 
			gối lả riêng chờ)
 
			- 
			* Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
 
			- 
			Có nhớ  dáng người trên độc mộc
 
			- 
			Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
 
			- 
			Lũ về, sớm mai 
			khi con chim Tăng Ló bên sông réo gọi, 
			các chàng rể (lụ khươi) lò mò lội ven bờ “xem” các cái “đó” mà chàng 
			ta “đặt” tối hôm trước “chờ nước lên” chắc mẩm sẽ vớ được vài con cá 
			măng, cá chiên to hăng nước đầu mùa không may chui vào “đó” (lờ to) 
			làm bữa ngon cho dân bản. Lũ về, mình là trai Đình Bảng, từ Hà Nội 
			lên thượng nguồn Tây Tiến cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ, nửa đêm về 
			sáng giật mình nghe sông réo… sớm mai ra bờ sông trông dòng sông 
			chảy xiết, trong lòng lại vang lên khúc Trầm hùng của nhạc sĩ Đỗ 
			Nhuận.
 
			- 
			“Hồng Hà mênh mông 
			trôi cát tới chân làng quê”…
 
			- 
			Còn ở đây thì sông 
			đổ ầm ầm, qua các ghềnh đá đổ thác bọt tung trắng xóa cứ như bờm đàn 
			ngựa bạch đang phi hết tốc độ xông ra chiến trường cùng bom rơi pháo 
			nổ vang rền, thật đúng là “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…
 
			- 
			Lũ lên nhanh 
			là lũ ống lũ quét cỏ cây hai bờ được một phen dọn sạch đôi bờ đất 
			chỗ lỡ, chỗ bồi, bãi ngô, ven sông lại được phen tắm phù sa trồi lên 
			xanh mởn…
 
			- 
			Sau vài ba tiếng 
			lũ lên 
			cuồng nộ, thượng nguồn dứt mưa, thì con sông Mã “ngựa phi” lại trở 
			thành Nậm Ma (chó sủa) ào ào, tấm tắc thân quen như con mực, con vện 
			về nằm ngang dưới chân cầu thang, thật là:
 
			- 
			Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
 
			- 
			Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
 
			- 
			29/2/2012
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			
   
		 
		Bài 8: 
		
		ĐÁM CƯỚI NGƯỜI 
		THÁI 
		
			- 
			Ở người Thái: con 
			gái khi lên 13 tuổi, trai 15 tuổi 
			thường tổ chức nhuộm răng đen. Lấy cây “mạy cù”, mọc ở núi đá, đốt 
			lên khói hơ vào miếng mai sắt thành giọt nước, trai gái nắm tay nhau, 
			kể anh chị em. Trai lấy ngón tay miết giọt nước trên mai (cái mai 
			đào đất) tra vào răng gái, gái tra vào răng trai. Sau đó hai người 
			nắm tay nhau xuống thang đến bậc cuối, cùng nhảy xuống. Từ đấy trở 
			thành trai gái thiếu niên. Từ đấy trở đi mới được ra chơi “Hạn 
			Khuống” hát giao duyên tìm hiểu nhau (nghĩa là sang tuổi cập kê):
 
			- 
			* Xíp pi ủa chắng dựt pên sao
 
			- 
			Chái chắng dáo 
			pên báo
 
			- 
			Xíp xam chắng 
			hụ thi bú
 
			- 
			Xíp xí chắng hụ hú khẻo 
			xóư chi son sao
 
			- 
			Pánh há chắng hụ tắt xứa hổm nốm
 
			- 
			Hụ hom phôn dệt chọng
 
			- 
			Dóng Khửn khuống 
			đang pháy
 
			- 
			* Mười tuổi em đang lớn thành 
			gái
 
			- 
			Anh cũng lớn thành trai
 
			- 
			13 tuổi em biết bắt cá suối
 
			- 
			14 tuổi biết nhuộm 
			răng đen làm duyên
 
			- 
			Biết may áo che vú
 
			- 
			Biết dành tóc làm độn
 
			- 
			Óng ả lên sàn nhóm lửa
 
			- 
			Khi 2 người tỏ tình 
			gọi là “ổ báo sao”. Tiêu chuẩn là con gái phải biết se sợi, dệt vải, 
			con trai phải biết đan lát những đồ dùng trong nhà. Gái sau khi có chồng 
			con phải lo quần áo mặc, chăn đệm nằm 
			cho chồng con. Trai phải lo tự túc đủ các thứ đồ dùng lặt vặt để 
			đựng thóc gạo, rau, thịt cá, đồ dùng nấu cơm.v.v…
 
			- 
			Tục cưới xin: Sau khi trai gái đã tìm hiểu “yêu nhau”, trai nói với 
			bố mẹ đi tìm bà mối đến thăm dò nhà gái (gọi là pay chóm), thuận thì 
			đi đến:
 
			- 
			Lễ ăn hỏi: 1 đôi gà to, vài ba bát gạo, rượu, bánh kẹo, hoa quả đưa 
			sang nhà gái. Ở Quỳnh Nhai cụ thể là:
 
			- 
			Đồ lễ dạm hỏi gồm:
 
			- 
			- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
 
			- 
			- Thuốc lào 1 - 2kg, thuốc lá 1 - 2 tút.
 
			- 
			- Chè uống 2 - 3kg.
 
			- 
			- Bánh kẹo tự chế 5 - 
			10kg.
 
			- 
			- Hoa quả 5 - 
			10kg.
 
			- 
			- 1 đôi gà (1 
			trống - 
			1 mái) 3 - 4kg.
 
			- 
			- 1 con lợn 45 - 
			50kg
 
			- 
			- Gạo 
			nếp thơm (khẩu lương phửng ) 15 - 20kg.
 
			- 
			- Gạo tẻ thơm (khẩu 
			xẻ lạo lựu) 15 - 
			20kg.
 
			- 
			- Rượu gạo: 40 - 
			50 lít.
 
			- 
			Lễ dạm hỏi: (Lễ 
			tham pặư).
 
			- 
			Đội hình: 
			10 chàng trai + 5 cô gái sang nhà gái phục vụ cỗ bàn.
 
			- 
			- Thách cưới: Khá nặng
 
			- 
			Ở Mường La, Thuận 
			Châu (thời 1960 - 1970) ngoài rượu thịt 
			, còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng lúc bấy 
			giờ: Lương phó ty có 80đồng)… ngoài ra là:
 
			- 
			- Trầu 
			1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
 
			- 
			- Thuốc lào 1 - 
			2kg.
 
			- 
			- Thuốc lá 100 - 200 bao.
 
			- 
			- Bánh kẹo  5 - 10kg.
 
			- 
			- Đường kính 5 - 10kg
 
			- 
			- Hoa 
			quả 50 - 100kg.
 
			- 
			- Lợn béo 1 - 2 
			tạ
 
			- 
			- Rượu gạo ngon 
			200 - 
			300lít.
 
			- 
			- Gạo nếp ngon 1 
			- 2 
			tạ.
 
			- 
			- Gạo tẻ ngon 1 - 2 
			tạ.
 
			- 
			- Pa dăm (cá sấy 
			rạch sườn) 10 - 20kg.
 
			- 
			- Pa giẳng (cá sấy 
			nhỏ) 10 - 20 
			giỏ
 
			- 
			- Cá mắm 3 - 5kg 
			đựng trong ống nứa.
 
			- 
			- Cá ướp 3 - 5kg 
			(nhiều ống).
 
			- 
			Đám cưới được tiến hành trong 3 
			ngày 3 đêm.
 
			- 
			Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống 
			nạp xong.
 
			- 
			Ngày 2 (đại 
			lễ): Thường nhà trai chọn giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão 
			(chớ mẩu).
 
			- 
			Đi tiền trạm là 2 
			chàng trai “dò đường” tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh. 
 
			- 
			Đoàn đưa rể: Ông 
			mối, bà mối, phù rể 2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây 
			và 1 chiếu cói), 1 người đeo chăn, 2 người 
			khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các 
			thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp.
 
			- 
			Tất cả đều mặc đúng 
			phong tục như áo cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm 
			chàm láng củ nâu. Riêng chàng rể đeo dao bên hông, vai 
			khoác túi,  1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài 
			the, quần lụa trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng 
			hoặc búi sau gáy, (đây là Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy.
 
			- 
			Có đội 
			kèn “pí kẻo” vừa đi vừa đánh trống thổi kèn kèm pháo 
			nổ… gây ồn ào phấn chấn.
 
			- 
			Nhà gái chọn 
			giờ đón rể (giờ Thìn - chơ xi)… nhưng 
			rể cũng phải được xem lá số hợp “mệnh” với vợ chồng, ông bà nội 
			ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải 
			vào đoàn nhà trai.
 
			- 
			2 chàng 
			phù rể bước lên cầu thang 
			máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ “xin phép” được 
			giăng tấm vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc 
			nhà gái và báo là nhà đã có rể.
 
			- 
			Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 
			1 phong bì  tiền dâng cưới đặt lên bàn.
 
			- 
			Nhà gái có 2 
			bà đại diện (thẩu nái) đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên 
			hát đối đáp.
 
			- 
			Lễ cưới linh đình 3 ngày. Rồi rể phải  
			ở rể qua các chặng:
 
			- 
			- Khươi quản (ngủ một 
			mình ở gian ngoài cùng) sau 1 - 
			2 năm mới được chung chăn gối (thời gian thử thách) - bị đuổi là mất 
			hết.
 
			- 
			- Ở rể 1 - 
			3 năm. Có trường hợp không phải ở rể (do thỏa thuận 2 bên).
 
			- 
			Lễ thành hôn gọi 
			là “xú phả”: Kết búi tóc ngược “tăng cẩu”: Nhà trai đem đến 1 đôi 
			vòng tay bạc, 2 nhẫn, 1 đôi hoa tai, châm cài tóc và  2 độn tóc gói 
			vào sải thổ cẩm. Lễ tạ ơn mẹ vợ phải có 
			1 đôi vòng tay bạc và 5 đồng bạc trắng. Biếu bố vợ gọi là tiền “rổ 
			cá, rổ thịt” cùng khoảng lễ đó gọi là “tạ ơn dòng sữa mẹ đã nuôi con 
			và ơn cha đã kiếm cá, thịt về nuôi con khôn lớn”.
 
			- 
			Bên nhà gái phải 
			có màn, thường dùng vải dày nhuộm đen 
			chàm, có đệm và chăn gối.
 
			- 
			Sau khi “tằng cầu” bà nào tốt số thì  
			đưa 2 vợ chồng vào nắm tay nhau trong màn (người Kinh là vào rải 
			chiếu).
 
			- 
			Lễ cưới Thái tốn 
			kém, ở rể khổ  ải như một thời làm nô lệ (cuông 
			nhốc dưới chế độ Phìa Tạo).
 
			 
			
				-  
 
			 
			
			
			 
		
		Bài 9: 
		
		CẦU VÀO BẢN  
		
			- 
			“Mường của anh có 
			cầu gang, 
			cầu sắt
 
			- 
			Bản của em có cầu lim lõi chắc
 
			- 
			Cầu lõi chắc bắc đôi 
			cho anh qua lại
 
			- 
			Thăm nhau dù nắng mưa không gì ngại”
 
			- 
			- Cầm 
			Biêu
 
			- 
			Chao, 
			“về bản” đúng như nhà thơ của bản đã tả “Bản của em và Mường của 
			ta/ đường đi lại quanh có uốn khúc/ đường đi mãi hết đèo lại dốc/ 
			đường đi qua rừng dướng, luồn rừng giang/ và đi theo con suối về 
			làng/ dòng suối nhỏ chảy quanh bụi nhót/ rồi chảy lọt giàn dưa…”
 
			- 
			Chao, bản trước 
			mặt là sông, bên hông bản là  suối. Sông buổi sớm như mặt gương phẳng 
			lặng cho ta soi bóng. Sông có đêm nước lên gầm gào như chó sủa… còn 
			suối bên đầu nhà quanh năm trong xanh rì rào thủ thỉ… chiều chiều 
			đón em gái ra hái bon, xúc ốc.
 
			- 
			Chao, con đường 
			về bản là phải luồn rừng rồi đi dọc bờ sông, lội qua suối đầu bản… Để 
			dân bản mùa lũ không phải lội suối nguy hiểm … thế là cả bản hò nhau 
			lên núi vào  rừng đại ngàn chặt 8 cây lim to lõi chắc, phạt hết cành 
			lá rối xúm nhau “kéo”, đẩy, bắn, bẩy tuột xuống suối “dòng” lôi về 
			bản để bắc cầu qua suối. Trên mặt cầu được lát bằng phen tre đan để 
			cụ già, trẻ con, trâu bò, ngựa đi qua không bị lọt chân…
 
			- 
			Chao, chiếc cầu gỗ bắc ngang con suối.
 
			- 
			“Nước suối có lúc cạn lúc lũ
 
			- 
			Nước trên rừng lúc hiền lúc dữ”
 
			- 
			- Nông Văn Bút
 
			- 
			Đó thật là:
 
			- 
			“ Cầu chúng ta vừa cao vừa chắc
 
			- 
			Chẳng còn lo nước lũ, suối sâu
 
			- 
			Cũng đón ông giáo Tiếp sang cầu
 
			- 
			Để người già mừng khỏi khi mình chết
 
			- 
			Không biết chữ nào bụng người còn tiếc”.
 
			- 
			- Nông Văn Bút
 
			- 
			Giữa bản mường 
			núi sông hùng vĩ, rừng xanh tít tới chân trời thì cái cầu gỗ bắc 
			ngang qua con suối rỉ rả vào thẳng tới 
			chân cầu thang nhà sàn đầu bản như là biểu tượng của hồn bản, hồn 
			mường. Chính nơi đây những đêm thu trai gái bản ra đứng trên cầu đàn 
			đúm: thổi khèn, thổi sáo, đánh đàn “tính”, hát giao duyên, ngắm ánh 
			trăng vàng mênh mang trôi theo dòng suối ra ngoài sông âm vang tiếng 
			thác.
 
			- 
			Chao, chiếc cầu 
			vào bản - cầu gỗ, dân bản tự làm tự bắc 
			cho mình bằng chính vật liệu thiên nhiên của rừng quê, nó thân yêu 
			thánh thiện làm sao, dịu chân, mát mắt vô cùng, nắng mưa đều hiền 
			như bản, thầm lặng thanh bình để ta:
 
			- 
			“… đi cùng em
 
			- 
			Cùng em tới
 
			- 
			Bên kia sông Mã
 
			- 
			Tìm rêu đá cùng nhau”
 
			- 
			- Cầm Cường
 
		 
		Cầu vào bản thân thương là vậy. 
		
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 10: 
		
		TIẾNG MÕ TRÂU 
		
			- 
			Chiều về “lốc cốc” mõ trâu
 
			- 
			Âm vang tiếng bản bên cầu nước 
			xanh
 
			- 
			Khói thơm bếp lửa vờn quanh
 
			- 
			Lùa trâu 
			về Púng(1) bên 
			ghềnh ngẩn ngơ.
 
			- 
			- NK
 
			- 
			(1) Púng: 
			thung cỏ
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 11: 
		
		NÚI  MƯỜNG 
		HUNG 
		
			- 
			DÒNG SÔNG MÃ
 
			- 
			Con sông Mã  chảy đến đây chừng như chững lại, mở  rộng bồi đắp đôi 
			bờ thành cánh đồng của Chiềng Cang, Mường Hung. Núi ở đây không cao 
			lắm nhưng trên đỉnh có mây phủ với rừng đại ngàn ngút tới Thượng Lào 
			(Hủa Phăn). Bản nhà ở đây đông vui trù phú với những ruộng lúa, bãi 
			dâu xanh biếc, con gái ở đây da trắng nõn nà…
 
			- 
			Ấy là vào hồi tháng 10/1953 có một chàng trai Thanh Hóa (Lê Gia Hợp) 
			Đội viên Đội vũ trang tuyên truyền (Việt Minh) đã đi sâu vào vùng 
			hậu địch, tới đây “cắm bản” để xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp 
			ở vùng biên giới Việt Lào. Ai ngờ, chàng ta lại là một thi sĩ, là 
			cán bộ “bí mật” sống giữa lòng dân “3 cùng” với đồng bào, trước cảnh 
			đẹp, người xinh… hồn thơ anh ta thấm đượm các khúc hát “khắp” - tình 
			ca Tây Bắc viết theo kiểu ví von (anh là/ em là…). Thế là một bài 
			thơ tự nhiên xuất thần:
 
			- 
			(Mường Hung = 
			mường trong sáng)
 
			-  
 
			- 
			NÚI MƯỜNG 
			HUNG
 
			- 
			DÒNG SÔNG MÃ
 
			- 
			Anh là núi Mường Hung
 
			- 
			Em là dòng sông Mã
 
			- 
			Sông nhiều rêu, nhiều cá
 
			- 
			Núi nhiều thú, nhiều măng
 
			- 
			Chiều bóng anh che sông
 
			- 
			Sớm mắt em lóng lánh
 
			- 
			Sáo cành cây anh 
			thổi vang lanh lảnh
 
			- 
			Gió  lùa qua miệng anh lại mỉn 
			cười
 
			- 
			Giữa lòng em thuyền độc mộc 
			ngược xuôi
 
			- 
			Như trăm nỗi băn 
			khoăn khi đến tuổi
 
			- 
			Nếu trời làm em sóng nổi
 
			- 
			Anh ngả  mình ngăn lại lúc phong ba
 
			- 
			Em là búp bông trắng
 
			- 
			Anh là ngọn lúa vàng
 
			- 
			Thi nhau lớn đẹp nương
 
			- 
			Tỏa mùi thơm cùng nghe chim hót
 
			- 
			Em cứ  về nhà trước
 
			- 
			Đợi anh ở bên khuông
 
			- 
			Anh là  no lòng Mường
 
			- 
			Em làm vui ấm bản
 
			- 
			Nếu con gấu dẫm gẫy cành bông trắng
 
			- 
			Lá lúa anh sẽ cưa đứt chân
 
			- 
			Nếu lúa này chuột khỉ dám đến ăn
 
			- 
			Sơ bông em sẽ bay mù mắt nó   
 
			- 
			Anh là  rừng thẳm
 
			- 
			Em là suối sâu
 
			- 
			Cây rừng anh làm cầu
 
			- 
			Bắc ngang lên lòng suối
 
			- 
			Hoa rừng nở  đỏ chói
 
			- 
			Soi bóng xuống lòng em
 
			- 
			Suối chảy quanh ấp rừng vắng 
			ngày đêm
 
			- 
			Cây gỗ lớn là tay anh vững chắc
 
			- 
			Nếu hùm qua suối em thành thác
 
			- 
			Nếu sói về  rừng anh sẽ thành chông
 
			- 
			Quyết chẳng chịu đau lòng
 
			- 
			Đời chúng ta rừng núi
 
			- 
			Suối em phá  tan bóng tối
 
			- 
			Rừng anh chặn lại bão giông
 
			- 
			Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung
 
			- 
			Em ngoan chảy thành dòng sông Mã
 
			- 
			Mường Hung 10/1953
 
			- 
			Cầm Giang
 
			- 
			Bài thơ chép tay, 
			được gửi qua “giao thông”  về hậu phương… với bút danh Cẩm Giang (ý  
			là quê vùng Cẩm Thủy - Thanh Hóa bên 
			dòng sông Mã hạ lưu)… nhưng khi đến tay cô đánh máy (ở căn cứ báo 
			chí) thì cô này phát hiện cái phi lý ở cái tên tác giả - ở Sơn La có 
			họ Cầm, họ Lò… chứ làm gì có họ Cẩm? thế là cuối bài thơ in ra được 
			đề tác giả Cầm Giang.
 
			- 
			Bài thơ  sau đó được nhạc sỹ Bùi Đức Hạnh phổ nhạc thành bài “Tình 
			ca Tây Bắc” nổi tiếng trở thành “khu ca” của đài phát thanh Tây Bắc 
			một thời.
 
			- 
			(Nhạc sỹ thực ra chỉ lấy 1 số câu, 
			còn là mô phỏng thơ Cầm Giang mà thôi).
 
			- 
			Bài thơ  thực ra cũng chưa hay lắm, nếu so với “Tình sông núi” của 
			Trần Mai Ninh, “Đèo cả” của Hữu Loan thì cón cách xa mấy quăng dao.
 
			- 
			Bài thơ  viết theo kiểu ví von của Trường ca Tản chụ xiết xương (tâm 
			tình người yêu): Trai đáp/ gái đáp nên có giọng điệu dân ca Thái, để 
			người đọc dễ tưởng đây là 1 tác giả dân tộc Thái.
 
			- 
			Có câu sáng giá:
 
			- 
			“Giữa lòng em thuyền độc mộc 
			ngược xuôi”
 
			- 
			Làm ta nhớ lại từ hồi 1936, Lưu 
			Trọng Lư  đã viết:
 
			- 
			“Mắt em là một dòng sông
 
			- 
			Thuyền ta bơi lặng trong dòng 
			mắt em”
 
			- 
			Rồi các câu khá ấn tượng mới mẻ:
 
			- 
			Anh làm no 
			lòng Mường
 
			- 
			Em làm vui ấm bản
 
			- 
			Đoạn dưới “ký sự” kiểu thơ tuyên truyền hô khẩu hiệu của thời kháng 
			chiến chống Pháp (mà Bùi Minh Quốc, Phạm Tiến Duật sau này với 
			“đường ra trận mùa này đẹp lắm” đã vượt trên cả Tố Hữu, tất nhiên là 
			dưới tầng Chế Lan Viên).
 
			- 
			Tuy vậy, xét 
			về bố cục cấu tứ bài thơ (mở đầu, thân bài, kết luận) thì tài hoa 
			thơ Cầm Giang so các cây viết thời 1946 -1954 ở Tây Bắc thì Cầm 
			Giang vẫn là số 1. Hai câu kết có thể nói là Đẹp, khá đắt:
 
			- 
			Để anh lớn mãi thành núi Mường 
			Hung
 
			- 
			Em ngoan chảy thành dòng sông Mã.
 
			- 
			Đó 
			cũng là cái “bất tử” của một tứ thơ lạ “đẹp” cùng với quê hương xứ 
			sở.
 
			- 
			Năm 1961, NXB Văn 
			học có in cho Cầm Giang tập thơ  “Rừng trắng hoa Ban” gồm 30 bài, 
			bài viết sớm nhất  “Quả còn” Lai Châu 7/1950, bài cuối “mở  lò thông 
			gió” 1959 ở Mỏ Cẩm Thái Nguyên… xem kỹ 
			chỉ có 1 bài đáng giá ở trên mà thôi.
 
			- 
			Thơ khó là vậy
 
			- 
			3/3/2012
 
			- 
			  
 
			- 
			 
 
			- 
			Bài 12:
 
		 
		
		BÓNG NÚI  
		
			- 
			 
 
			- 
			Em đi bóng núi nghiêng theo
 
			- 
			Bụi tung vó  ngựa qua đèo mù sương
 
			- 
			Từ anh về  với bản mường
 
			- 
			Với trông bóng núi dặm đường em đi
 
			- 
			NK.
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		
		Bài 13: 
		
		NHỚ MƯỜNG HUNG 
		(Nhớ anh Cầm 
		Giang) 
		
			- 
			 
 
			- 
			Mường Hung sáng núi xanh soi 
			sóng biếc
 
			- 
			Em vớt rêu thả mượt tóc thung mây
 
			- 
			Con cá  măng nào hay sông biên giới
 
			- 
			Tiếng khèn Lào sang chợ thổi nồng say
 
			- 
			Trai Mường Hung thả bay thuyền đuôi én
 
			- 
			Vài tay chèo tới Xiềng Khọ - Sầm Nưa
 
			- 
			Sắm đồ cưới anh chở về - đúng hẹn
 
			- 
			Vòng bạc trao lấp lánh dưới trăng mờ
 
			- 
			Từ xa cách bản quê về Hà Nội
 
			- 
			Đêm nằm mơ thác đổ trắng ngang trời;
 
			- 
			Sớm mai dậy nhớ mây hồng đỉnh núi
 
			- 
			Tiếng gà  rừng vang động cả hồn tôi.
 
			- 
			NK-
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		
		Bài 14:  
		
		XUÂN BIÊN 
		CƯƠNG 
		
			-  
 
			- 
			Sơn La xuân  ở dài hơn
 
			- 
			Tháng tư còn trắng hoa Ban trên 
			rừng
 
			- 
			Mà đây nắng hạ chói bừng
 
			- 
			Chiềng Khương hoa Gạo đỏ lừng 
			bến sông
 
			- 
			Biên giới Việt Lào 6/1963
 
			- 
			NK-
 
			- 
			 
 
			- 
			  
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 15: 
		
		CHIỀU BẢN NHỎ 
		
			- 
			Chiều vắng vẻ lặng tờ nơi bản nhỏ
 
			- 
			Người đi nương, ra ruộng chưa về
 
			- 
			Chỉ lũ  trẻ đùa nô trên bến tắm
 
			- 
			Và một chàng “cắm bản” lắng hồn quê.
 
			- 
			 
 
			- 
			Con gà đẻ trứng xong kêu “cộc 
			tác”
 
			- 
			Con Vện nằm canh cửa mắt lơ mơ
 
			- 
			Mặt suối xanh in bóng cầu vừa 
			bắc
 
			- 
			Cọn bên  đồng cuốn nước xối như mưa…
 
			- 
			 
 
			- 
			Chiều bản nhỏ ngàn xưa đời vẫn thế
 
			- 
			Cứ yên vui cùng xứ sở thanh bình
 
			- 
			Không giặc giã, gươm trên tường nằm nghỉ
 
			- 
			Ngựa lỏng cương thả bộ dọc dòng 
			kênh.
 
			- 
			 
 
			- 
			Ai đấy nhỉ một mình nơi thôn dã
 
			- 
			Để nhớ ai ngoài 
			phố thị 
			ồn ào
 
			- 
			Hẹn một buổi đón về thăm bản nhỏ
 
			- 
			Cùng vào rừng hái nấm mé đèo cao.
 
			- 
			NK-
 
			- 
			 
 
		 
		
		Bài 16: 
		
		TẮM Ở BẢN 
		
			- 
			 
 
			- 
			Bản người Thái 
			(ở lưng núi) không có ao như  làng người Kinh (ở đồng bằng)… nhưng 
			việc tắm rửa cho sạch sẽ thân mình thì người Thái  ăn đứt 
			người Kinh là cái chắc.
 
			- 
			Ở bản có 3 cách tắm rửa:
 
			- 
			- Một là nơi “mó nước” đầu 
			bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn 
			qua ống máng tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm… 
			thường có 2 ống: một bên nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một 
			phên nứa để bên nào bên ấy “tắm truồng” thoải mái.
 
			- 
			Thường thì 3, 4 
			giờ chiều mùa hè, dân bản  đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó 
			nước đầu bản là “kẻ xuộng xựa” (cởi quần áo “tắm”). Chị em thường là 
			ý tứ ngồi xổm, khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy 
			được dâng lên đỉnh đầu, ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay 
			xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như “da trắng vỗ bì bạch”, vú để tự do (là 
			của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao.
 
			- 
			Cánh đàn ông thì “truồng” 100%  
			chuyện trò cười đùa rôm rả… thật cứ như 
			nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa biết xấu hổ (nả 
			hại) - tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của con 
			rắn “quỷ sa tăng”) nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó 
			nước, thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng 
			không gợn chút dục vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?...
 
			- 
			- Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm 
			truồng)
 
			- 
			- Ba là: Tắm sông
 
			- 
			Chị em thường là ngồi 
			ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên bờ. Khi 
			tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp 
			gội đầu, thả làn tóc mây xòa theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay 
			tít cứ như một điệu múa tóc thật là điệu đàng của các tiên nữ trên 
			mường trời.
 
			- 
			Người Thái rất tự hào 
			về cái sạch sẽ  da thịt của mình… chị em ngày rửa tới vài lần, lại 
			mặc váy rộng xông xênh, 
			nên thường nói đùa “hi của chúng tao là hi hom (thơm), chứ không bịt 
			kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên hi min (thối) 
			lắm bệnh phụ khoa”.
 
			- 
			Văn minh đô thị hay hoang 
			sơ thôn bản (trở lại cội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi trường) 
			đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại 
			hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn 
			minh tàn bạo.
 
			- 
			Tắm ở bản (cũng 
			như ở ao làng ngày xưa), chao ôi, đang lùi dần vào dĩ vãng để tắm 
			nước máy đã được xử lý bằng hóa chất (chất 
			độc hóa học diệt khuẩn)…phải chăng ta cũng đang tự “diệt mình” làm 
			biến đổi gen để rồi sinh ra 1 lũ con cháu vô cảm chỉ biết “tiền” và 
			máy móc,vũ khí tiêu diệt, hủy diệt hàng loạt mà thôi….?
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			4/3/2012.
 
			- 
			 
 
		 
		
		Bài 17: 
		LỄ TẲNG CẨU 
		  
		
			- 
			Lễ tẳng cảu 
			(tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu của phụ nữ Thái đen Sơn 
			La  khi lấy chồng.
 
			- 
			Sau lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi 
			và lễ  cưới, người con gái đã có chồng thì lễ  tẳng cảu làm ở nhà gái.
 
			- 
			Trong các đồ sính 
			lễ do nhà trai đem sang thường phải có 
			1 chiếc trâm bạc cài tóc (mản khắt phôm)… người đảm nhiệm làm thường 
			là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ lý tiến hành.
 
			- 
			Đầu tiên là gội 
			đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) - 
			bẳng nậm khẩu má và nồi nước lá sả, lá bưởi, lá tre… tất cả đem ra 
			bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như một lễ tẩy dơ bẩn trôi 
			theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm tho 
			tốt lành… xong cô dâu về lên phía “tang chan” - khoảng 10 ghế mây (tắng)… 
			cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù 
			dâu áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc. Bà “Nai tằng cẩu” 
			rút lược sừng đen từ cái “ếp” của mình ra làm vài động tác đưa lên 
			hạ xuống và chải tóc cho cô dâu nhiều lần.
 
			- 
			Cuối cùng dùng 2 
			tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính 
			giữa đỉnh đầu và búi tóc “tằng cẩu”… sau khi vuốt nắn lại không còn 
			sợi tóc nào vương lòe xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ 
			để giữa “cẩu”, nổi bật đồng bạc hào hoa văn trắng ở phần đầu của 
			trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược.
 
			- 
			Trước đông đủ 
			mọi người, bà Nai cẩu nói:
 
			- 
			Khắt cẩu đi
 
			- 
			Vi hoa kiểng
 
			- 
			Tẳng cảu au phua
 
			- 
			Té nị  pay nả
 
			- 
			                               
			Ca nị mưa nưa
 
			- 
			Báu đảy nặm 
			pay nảư
 
			- 
			Chăư pay ứn luk ơi!
 
			- 
			Nghĩa là:
 
			- 
			Gội đầu sạch
 
			- 
			Chải tóc mượt
 
			- 
			“Tẳng cảu” lấy chồng
 
			- 
			Từ giờ  này đi
 
			- 
			 Từ nay về sau
 
			- 
			Không được nước thay dòng
 
			- 
			Lòng đổi chỗ con ơi!
 
			- 
			Tiếp theo 2 vợ chồng dắt tay 
			nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách ngồi kín đông 
			vui nâng chén rượu chúc mừng.
 
			- 
			NK-
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 18: 
		
		TỤC ĐẺ NGỒI CỦA NGƯỜI THÁI 
		  
		
			- 
			* Đẩy xí phiên 
			xong hắu chắng 
			ó kin khẩu
 
			- 
			Cẳư bươn phạ chắng ó kin nốm
 
			- 
			Tốc khuổm chắng 
			pên lụ chái
 
			- 
			Tốc hai nọng ánh xai phên lụ nhinh 
			phủ ưởi
 
			- 
			* 10 tháng chờ đôi ta 
			ra đời ăn cơm
 
			- 
			9 tháng đợi đợi 
			đôi ta 
			ra đời bú mẹ
 
			- 
			Rơi sấp thành bé trai
 
			- 
			Rơi ngửa em yêu thành bé gái.
 
			- 
			Khi chuyển 
			dạ, sản phụ được uống nước với cây “mậy phang” (cây tô mộc) có tác 
			dụng cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông).
 
			- 
			Sản phụ đẻ ngay 
			trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ 
			thường là mẹ đẻ hay mẹ 
			chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)…
 
			- 
			Lễ vật cúng “bà mụ”: 
			1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng vào 
			nước sôi để sát trùng. Rau thai được 
			gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm).
 
			- 
			Khi trẻ đầy tháng 
			thì cúng “hết hoóng”. Có  nghi thức dạy 
			trẻ lao động theo giới và mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho 
			cháu.
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 19: 
		
		NHÀ SÀN BẾP 
		LỬA 
		
			-  
 
			- 
			Ta lại về với nhà sàn bếp 
			lửa
 
			- 
			Một mùa đông ăn củ sắn lùi
 
			- 
			Vó ngựa phi qua 
			đèo Khau 
			Cả
 
			- 
			Ngắm sông Đà đổ thác réo sôi
 
			- 
			 
 
			- 
			Em vẫn đợi ở bên rừng vắng
 
			- 
			Dải khăn Piêu tung cách bướm hội 
			xòe
 
			- 
			Ta đi giữa cánh rừng Ban trắng
 
			- 
			Tiếng chim Tăng Ló vọng hồn quê
 
			- 
			                               
 
			- 
			Từ em đi, anh không về nữa
 
			- 
			Đầu hồi nhà “khau cút” ngóng chờ 
			ai
 
			- 
			Đêm mơ về nhà sàn bếp lửa
 
			- 
			Nghe gió mùa thương nhớ tháng 
			giêng hai.
 
			- 
			NK-
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 20: 
		SÔNG ĐÀ HÙNG 
		VĨ 
		
			-  
 
			- 
			* “Nặm Té hảnh to thú chắng lứm
 
			- 
			Sông Đà cạn bằng 
			chiếc đũa, hãy quên”
 
			- 
			* Chúng thủy giai đông tẩu
 
			- 
			Đà giang độc bắc lưu.
 
			- 
			Sông Đà (Nậm Te), 
			còn gọi là Sông Bờ hay Đà Giang, Hắc Giang là phụ lưu lớn nhất của 
			Sông Hồng, bắt nguồn từ Vân Nam (TQ) chảy theo hướng Tây Bắc - 
			Đông Nam. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983km), bên TQ gọi là 
			Lý Tiên Giang do 2 nhánh Bả biên Giang và A Mặc Giang hợp thành…được 
			dịch ra tiếng Châu Âu là sông Đen: Black Rive (Ave), Rivière Noire (Pháp).
 
			- 
			Đoạn bên TQ dài 
			400km từ núi Ngụy Bào, ở huyện tự trị 
			người Di, người Hồi Nguy Sơn phía Nam Châu tự trị dân tộc Bạch Đại 
			Lý chạy theo hướng Đông Nam qua Phổ Nhĩ.
 
			- 
			Đoạn bên ở Việt Nam dài 527km (có tài liệu ghi 543km), bắt đầu từ 
			huyện Mường Tè (Lai Châu) qua Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình tới huyện 
			Thanh Thủy (Phú Thọ) bên kia là Ba Vì (Hà Tây cũ). Điểm cuối là ngã 
			ba sông Hồng  Đà ở huyện Tam Nông (Phú Thọ). Sông Đà cung cấp 31% 
			nước cho sông Hồng.
 
			- 
			- 1994 - nhà  máy thủy điện Hòa Bình, có công suất 1920 MW (8 tổ máy).
 
			- 
			- 2005 - khởi công thủy điện Sơn La 2400 MW - xong vào 2012, sẽ tiếp 
			ở Lai Châu. Hồ Sơn La dung tích 9,26 tỉ mét khối nước.
 
			- 
			Sự hùng vĩ của sông Đà, đó là những ghềnh thác dữ  dằn gầm thét âm 
			vang giữa 2 bờ vách đá dựng đứng, như nỗi thù hận nghìn đời giữa 
			trời và đất để hung dữ, để tàn phá, để nhấn chìm tất cả.
 
			- 
			Năm 1958 Nhà  văn Nguyễn Tuân đi thực tế đến với sông Đà, Ông đã ghi 
			lại những cái tên và tính nết của một số thác trong số 73 cái thác 
			có tên trên sông Đà về từ biên giới Việt Trung tới thác Bờ (Hòa 
			Bình):
 
			- 
			“Cách biên giới TQ phía Vân Nam khoảng mười cây số là thác kẻnh mỏ 
			trên”. Rồi đến thác La Sa, Hát Vá, Mằn hi, Mằn Lay. Rồi thác Hát 
			Nhạt, Mằn thẳm, Hát No Héo, Kẻng mỏ dưới. Rồi đến Hát Lai ở trên thị 
			xã Lai Châu (Mường Lay) độ 9km.
 
			- 
			Thuộc thủy phận Sơn La là các thác: Hát pi, hát soong pút, hát soong 
			mon, hát pố, hát kếnh, hát chan, hát moong, hát tiếu; qua hát tiếu (tiếng 
			Thái chữ hát = thác) “qua hát tiếu, rải chiếu mà nằm” coi như về cơ 
			bản đã qua những chỗ nguy hiểm.
 
			- 
			Từ Vạn Yên tới Hòa Bình lại xuất hiện một số thác tuy có bớt hùng dữ hơn ở phía 
			trên Lai Châu, Sơn La…đó là những “ga” nước trên sông Đà:
 
			- 
			Thác Ẻn, Thác Giăng, Bãi chuối, Mó sách, Bãi lời, Bãi lành, mó tôm, 
			mó nàng, Nánh kẹp, Quai chuông, Tà phù, Bãi nai, Ba hòn gươm, phố 
			khủa, gềnh đồng, suối bạc, ổ gà, bái nhạp, cánh cuốn, mèo quen, hang 
			miếng, quần cóc, suối trong, bãi ban, riềm, thác rút, thác mẹ, bãi 
			thằng rồ, mó tuần, suối hoa, hót gió, thác Bờ…
 
			- 
			Sau khi các  đập thủy điện hoàn thành, tất cả các gềnh thác được 
			nhấn chìm xuống đáy hồ sông Đà mênh mông chia 3 khúc: hồ Hòa Bình 
			(từ thác bờ - Hòa Bình tớ tạ bú - Sơn La) rồi từ đập Pả Vinh - Ít 
			ong (Mường La) tới Nậm nhứn Mường Nhé - Mường Tè - Lai Châu…
 
			- 
			Từ thời Lê, trong “kiến văn Tiểu Lục”.Bảng nhản Lê Qúy  Đôn (1723 - 
			1872) đã viết: “Thác Bờ ở địa phận Động Dĩ Lý và Hào Tráng thuộc Mộc 
			Châu”,như 1 ngọn núi đứng sừng sững giữa dòng là sông Đà, đá lớn lởm 
			chởm, hàng năm cứ đến ngày 8 - 4 từng đàn cá ngược dòng nước bơi lên, 
			chỉ có vài con cá chép khỏe là vượt được thác bờ (cá vượt vũ môn).
 
			- 
			Sách “Giao Châu ký” của Tăng Cổn (cuối thế kỷ 9) nhà  Đường đô hộ 
			Giao Châu (Tiết độ sứ) - có ghi về sông Đà “có Long Môn”, nước sâu 
			trăm tầm, cá lớn vượt lên được chỗ này sẽ hóa rồng.
 
			- 
			Trong sách “Sơn  đường tứ khảo” gồm 228 quyển và bổ  
			di 12 quyển … Bành 
			Đại Dực (nhà Minh) biên soạn có chép “sông Long môn ở huyện Mông (Yên 
			Lập - Phú Thọ) phủ Gia Hưng, nước An Nam phát nguyện từ Châu Minh 
			Viễn (Vân Nam), nước sông chảy đến đây, 2 bên bờ cao vót, hiểm trở, 
			tảng đá lớn chắn giữa sông chia làm 3 dòng, sức nước vọt lên cao đến 
			vài trượng, nghe ầm ầm như sấm, thuyền đến đây phải kéo lên bờ mới 
			qua được”.
 
			- 
			Sườn núi  động Hào Tráng ở về phía bờ trái, có  khắc 2 bài thơ (ngự 
			thơ) của vua Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn:
 
			- 
			Lê Quý  Đôn dịch:
 
			- 
			“Gập gềnh đường hiểm chẳng e xa,
 
			- 
			Dạ sắt khăng khăng mãi đến già
 
			- 
			Lẽ phải quét quang mây phủ tối,
 
			- 
			Lòng son san phẳng núi bao la.
 
			- 
			Biên cương cần tính mưu phòng thủ
 
			- 
			Xã tắc sao cho vững 
			thái hòa
 
			- 
			(Hư đạo nguy than tam bách khúc
 
			- 
			Như kim chỉ tác thuận lưu khan)
 
			- 
			“Ghềnh thác ba trăm” lời cổ ngữ
 
			- 
			Từ nay xem chẳng nổi phong ba”.
 
			- 
			Viết tại ngày tốt, tháng mạnh 
			hạ (tháng tư) năm Thuận Thiên thứ 2 (1429).
 
			- 
			“Đường lên mường 
			Lễ (Lai Châu) bao xa 170 thác, 
			130 ghềnh”
 
			- 
			- Ca dao
 
			- 
			Cử 
			nhân, thượng thư Phạm Thuận Duật (1825 - 1885) năm 1855 làm tri châu 
			Tuần giáo (lúc ấy thuộc Sơn La, tỉnh Hưng Hóa trong sách “Hưng Hóa 
			ký lược” có chép).
 
			- 
			“Châu Đà Bắc ở xã 
			Hào Tráng có bến Vạn Bờ tức sông Long Môn, cùng 
			gọi là “đê long thủy”. Tục truyền rằng đây là nơi “cá vượt vũ môn” 
			hóa Rồng.
 
			- 
			Hai bên đá 
			chốc đứng, chặn ngang cửa sông, ở giữa có một chỗ đá bị đục thủy (do 
			nước xói mòn) gọi là Ao Vua, đó là nơi 
			vua  Lê Thái Tổ đề thơ (1429).
 
			- 
			Theo tác giả Anh 
			Đức trong bài 
			“xuôi dòng Đà giang trước lúc ngăn sông”, tạp chí Suối Reo - Sơn La 
			5/2004 thì:
 
			- 
			“Từ thị xã Lai 
			Châu cũ (Mường Lay) muốn xuôi xuống Quỳnh Nhai, 
			ít nhất phải ngồi thuyền trên 200km, vượt qua trên 10 thác hung dữ 
			với những cái tên hãi  hùng như thác Ba Bố, ghềnh Ba Cô, thác Bà 
			Đái, hòn Chông, ghềnh chém sóng… thử thách đầu tiên là thác Ba Bố 
			mùa lũ. Tuy các dải đá ngầm có bớt nguy hiểm nhưng những con sóng 
			lại cực lớn, dập từng cơn táp mạnh vào mạn thuyền, con thuyền liên 
			tục xô nghiêng chao đảo. Người chưa quen đi sông nước bao giờ thì 
			lúc đó coi mặc cho số phận, còn những người từng trải thì thêm 1 lần 
			trải nghiệm. Qua hết nghềnh thác, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đi từ 
			sáng tới hơn 2 giờ chiều đến được bản Huổi Ca, xã Nậm Mạ, huyện Sìn 
			Hồ (Lai Châu).
 
			- 
			Rồi 
			tiếp tục xuôi qua: Nậm Lốt, Pờ răng ky của đồng bào Dao, xã Nậm Hăn 
			(Sìn Hồ), rồi tới Pắc Phạ, Pắc Na của đồng bào Hà Nhì, Thái trắng xã 
			Tủa Thàng (Tủa chùa)…
 
			- 
			Vào đất Sơn La 
			là bản cũ xã Cà  Nang (Quỳnh Nhai) của 
			đồng bào La Há hiện dưới cánh rừng ven suối. Qua huyện lỵ Quỳnh 
			Nhai: Thuyền ghé qua các bến Pá Uôn (nay có cầu), Chiếng Bằng, Văn 
			Pán, Nậm Giôn, Nậm Mu, Liệp Tè…
 
			- 
			Thác Pá Mu 
			hung dữ mùa cạn, khi nước dâng thì hiền lành là bến đò đưa khách qua 
			sông.
 
			- 
			Tại Pá Vinh - 
			nơi xây Thủy Điện Sơn La có cây cầu cứng qua sông để thi công… Sau 5 
			ngày lênh đênh sóng nước, thuyền cập bến Tạ Bú an toàn.!.!
 
			- 
			 
 
		 
		  
		
			- 
			
			Bài 21:
 
		 
		
		BẾN TẠ BÚ 
		
		(Tặng: Nguyễn Văn Huân)  
		
			-  
 
			- 
			Bến Tạ Bú một sớm mai mình đến
 
			- 
			Nước sông sâu 
			xanh biếc tự 
			đáy lòng
 
			- 
			Hòn cuội trắng soi hồn ta tỏa nắng
 
			- 
			Theo ngựa thồ sang tận Ít Ong
 
			- 
			 
 
			- 
			Ơi thác Chiến, có xuôi thuyền đuôi Én
 
			- 
			Bản Pha Khinh ai đó hẹn ta về
 
			- 
			Đêm nay “lẩu xiêu” vui cạn chén
 
			- 
			Bếp nhà  sàn tiếng “Pí” thổi say mê
 
			- 
			 
 
			- 
			Bến Ta Bú  nào có ai ra tắm
 
			- 
			Để vừng trăng đắm đuối giữa dòng
 
			- 
			Mình là trai bản Phiêng Ngùa lạ lẫm
 
			- 
			Đến bến thuyền xuống ngựa ngẩn ngơ trông.
 
			- 
			Nguyễn Khôi
 
			- 
			“Nước Sơn La ma Tạ Bú” (cũng có 
			người nói ma Hòa Bình)
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 22: 
		
		CÂY ĐÀO TÔ HIỆU 
		- AI TRỒNG? 
		
			-  
 
			- 
			Ở khu di tích bảo 
			tàng “nhà tù Sơn La” 
			trên đồi Khau Cả, áp sát dinh Công Sứ (thời Pháp thuộc) nay là trụ 
			sở UBND khu tự trị Tây Bắc, rồi tiếp là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
 
			- 
			Ở cách cổng nhà tù 
			xưa một quãng có một ô nhỏ “Izôlê” (Isolé – nơi cách ly)rộng khoảng 
			4m2, hình tam giác vuông - xưa có cửa là một phiến gỗ lim 
			dày, vừa để 1 người lọt ra vào. “I đôlê” ở ngay bức tường sau khu 
			thường phạm, bước chân ra là đường hành lang tròn (đường Rông - 
			Ronde).
 
			- 
			Năm 1940, nơi đây 
			nhốt 1 người tù Cộng Sản: Anh Tô Hiệu 
			(30 tuổi) nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đảng Cộng sản Đông Dương 
			- quê Xuân Cầu, Văn Giang, Bắc Ninh. Sau những trận đòn thù của thực 
			dân Pháp ở các nhà tù như Côn Đảo, Hỏa Lò… anh Tô Hiệu đã bị “lao” 
			nặng nên bị nhốt cách ly ở “I zôlê”- lúc này anh Tô Hiệu là Bí thư 
			chi bộ nhà tù, tuy bị đau nặng, lại phải nằm bệ ci ment, nhưng anh 
			vẫn làm việc hết mình… đến ngày 16/7/1944 thì anh trút hơi thở cuối 
			cùng trong vòng tay các đồng chí của anh.
 
			- 
			Nhà tù Sơn La do 
			thực dân Pháp xây để nhốt tù chính trị, tường cao, sàn sân 
			láng ci ment, 1 ngọn cỏ không thể mọc được, tường và sân, kể cả 
			đường “nông” đều dầm đá dăm + ci ment (bê tông) dày hàng nửa mét (để 
			đề phòng tù nhân đào hầm tẩu thoát). Luật lệ canh gác nghiêm ngặt, 
			thường có lính gác đi lại liên tục ngày đêm nên không ai có thể đào 
			bới trồng cây trong sân nhà tù.
 
			- 
			Sau 
			Cách mạng tháng 8, khoảng năm 1948 (do các  đ/c ở đây kể lại) khu di 
			tích nhà tù bị bom Pháp đánh sập, bị bỏ hoang…
 
			- 
			Sau năm 1954 (hòa bình lập lại) thủ phủ khu tự trị Thái Mèo đặt ở 
			Chiềng Ly (Thị trấn Thuận Châu), tỉnh lỵ Sơn La cũ (Chiềng Lê là một 
			thành phố chết và đổ nát)… thuộc 2 xã Chiềng An, Chiềng Cơi, huyện 
			Mường La (Châu Mường La)… mãi tới năm 1962 mới thành lập thị xã Sơn 
			La: Các cơ quan của khu và tỉnh mới chuyển từ Thuận Châu về thị xã , 
			nhà cửa mới được xây dựng, khu nhà tù vẫn là một phế tích, nay là 
			Thành phố.
 
			- 
			Năm 1958, nhà văn 
			Nguyễn Tuân đi thực tế  ở Sơn La, trong tùy bút “Sông Đà” nổi tiếng, 
			ở trang 129 - 
			134, ông có viết thiên “Đào cộng sản” nhân sau khi đến thăm khu phế 
			tích nhà tù Sơn La xưa “tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường 
			đá, nhìn xi măng cốt sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây Xoan, 
			và mấy gốc muỗm. Thế thôi. Tôi biết. Ở đây còn có cây đào, cây đào 
			ông Tô Hiệu”… Rồi nhà văn xuống khu vườn ổi chân đồi Khau Cả viếng 
			mộ anh Tô Hiệu:
 
			- 
			“Đứng trước 
			mộ đ/c Tô Hiệu nơi rừng ổi, tôi bảo tôi 
			“nơi nghĩa trang tiễn biệt này, cần có đào”…. Đối với bậc lãng mạn 
			cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái vui hoa quả XHCN của Sơn 
			La - Thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy trên chữ vàng 
			bia đá”.
 
			- 
			Nhà văn Hoàng 
			Công Khanh (1921 - 2010). Một bạn tù 
			của anh Tô Hiệu, trong cuốn “Hoa nhạn lại hồng” NXB Văn Học 1992, 
			trang 157 có viết “sau các trận bom Pháp, nhà tù Sơn La chỉ còn cái 
			cổng và cái hầm sâu. Trên quảng đường “rông” gần “I đôlê” bỗng xuất 
			hiện một cây đào rừng (đào phai không ăn quả được) nó lớn nhanh và 
			hoa phớt hồng, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhân một dịp lên thăm 
			qua thăm vết tích nhà tù thấy cây đào mọc bên cạnh phòng giam (xưa) 
			anh Tô Hiệu đã vui miệng nói đó là cây đào Tô Hiệu”.
 
			- 
			Rồi truyền 
			miệng, báo chí đăng tải, rồi Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô 
			Hiệu” một huyền thoại thành hiện thực ca ngợi một chiến sỹ cộng sản.
 
			- 
			Năm 1980 - 
			1981 tỉnh mới tu bổ lại thành khu di tích bảo tàng cách mạng.
 
			- 
			Nguyễn Khôi tôi 
			lên công tác Sơn La 21 năm (1963 - 1984) có cái 
			may mắn: Hồi 1966 - 1970 công tác ở Ban Nông nghiệp tỉnh ủy Sơn La, 
			1978 - 1984 làm thư ký ở văn phòng UBND tỉnh Sơn La, nơi ở và nơi 
			làm việc cách 1 bức tường là sang khu di tích nhà tù, cách chỗ gọi 
			là “cây đào Tô Hiệu” vài chục mét.
 
			- 
			Nguyễn Khôi tôi cũng 
			có cái may mắn đã từng được đưa các bác Trần Huy Liệu, Văn Tân đi 
			thăm lại nhà tù… và được nghe các bác kể chuyện đủ thứ về nhà tù. 
			Năm 1984 tôi về công tác ở VPQH và HĐNN, có điều kiện cận kề bác 
			Trường Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy… lại thường 
			xuyên giúp việc bác Lê Thanh Nghị nên có điều kiện hỏi về chuyện nhà 
			tù Sơn La (vì bác Nghị hồi trước 1945 cũng bị tù ở đây 5 năm cùng 
			các bác Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu, Trần Huy Liệu, Lê Đức Thọ, Xuân 
			Thủy… bác Xuân Thủy, hồi sau làm Phó chủ tịch Quốc Hội).
 
			- 
			Qua câu chuyện 
			về cây đào “Tô Hiệu”  thì bác Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy đều bảo thời 
			trước 1945, nhà tù chưa bị phá thì 
			không thể trồng cây gì ở trong đó được. Sau này, đó là chuyện của 
			Nhà Văn Nguyễn Tuân trong tùy bút Sông Đà với mấy câu lấp lửng “Cây 
			đào ông Tô Hiệu”, rồi sau đó được báo chí “môđiphê”(modifier-làm 
			thay đổi) như khẳng định… câu chuyện thực là thế, và có lẽ cũng chỉ 
			nên nói là “cây đào bên buồng giam Tô Hiệu”. Cây đào này (bên cạnh 
			còn nhiều cây đào khác) hiện nay  được Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây 
			đào Tô Hiệu”… vậy thực là do ai trồng? Đó là do chim rừng, gió núi 
			đem những quả đào dại (đào rừng) mọc đầy trên đồi Khau Cả gieo vào 
			các khe nứt trên sân nhà tù xưa đã vỡ nát, rồi nảy mầm mọc lên thành 
			cây… tất cả đào Sơn La hầu hết là “trời trồng” (mọc tự nhiên) không 
			phải ai tưới tắm gì cả. Hậu thế, do quá yêu tấm gương hy sinh của 
			người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu nên đã gán cho anh thêm cái “tình”: 
			Ho lao rũ rượi chết đến nơi rồi mà vẫn gieo hạt, trồng đào nở hoa 
			cho các thế hệ mai sau. Từ văn học (tùy bút) rồi thành huyền thoại, 
			âu cũng là một tấm lòng, không nên bàn cãi qúa nhiều. Vấn đề là cất 
			cái biển đã ghi tên kia đi… (Rendez César ce qui appartient à 
			césar)./.
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			Bài 23:
 
		 
		
		NHÀ SÀN THÁI 
		
			- 
			Nhà sàn của người 
			Thái - Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến 
			trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 
			loại:
 
			- 
			- Nhà sàn khung 
			cột: bộ khung được gá lắp từ các bộ 
			phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn - nghèo) “hươn chim 
			mạy”.
 
			- 
			- Nhà sàn 
			vì kèo “vì cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị 
			“vì kèo” dựng nối các vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ 
			khứ (quá giang = khứ) có hai trụ để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. 
			Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ).
 
			- 
			Nhà sàn 
			Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum 
			như mai Rùa, gắn với truyền thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa 
			“Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo hình Rùa đứng.
 
			- 
			“Khửn song phái/ 
			cái song đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu 
			thang là “tang chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái 
			dành cho phụ nữ. “Chan” là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. 
			Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu 
			thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9 vía).
 
			- 
			Cầu thang đầu bên 
			phải “tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
 
			- 
			Có 2 bếp lửa: 
			“chik pháy” phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang 
			chan dành cho 
			nấu nướng, phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi 
			như “trái tim bốc lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần 
			cho cả nhà.
 
			- 
			Gian 
			“quản” có bàn thờ tổ tiên  “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”. Trên 
			cột thiêng có treo hình Rùa bằng gỗ 3 
			bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - 
			đó là biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - 
			nhân.
 
			- 
			Nhà sàn Thái vừa trang nhã vừa 
			chắc chăn:
 
			- 
			Hươn đi tẳng cang tèn
 
			- 
			Hươn én tẳng cang vên
 
			- 
			Lốm luông pặt bấu chại
 
			- 
			Lốm hại pặt pấu pay.
 
			- 
			(Nhà tốt dựng nơi cao ráo
 
			- 
			Nhà đẹp dựng giữa mường
 
			- 
			Gió to thổi không xiêu
 
			- 
			Bão lớn không lay động).
 
			- 
			* Sự tích cái Khau cút (hoa nhà)
 
		 
		
			-  
 
			- 
			Theo Quắm 
			tố mướng (kề chuyện mường)
 
			- 
			Thì: Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường 
			con don, con dím…
 
			- 
			Người Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam) đi theo dọc sông Hồng (Nậm 
			Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ đoán lũ nhìn 
			vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được 
			phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái 
			dấu hình mặt trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là 
			“khao cót” và gọi chệch là “khau cút” = sừng cuộn.
 
			- 
			Theo tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly 
			hương. Cái mô típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có 
			ở cửa sổ, khăn Piêu…
 
			- 
			Khau cút vẽ vân 
			sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén 
			chân gianh bằng rui: Đó là tiêu chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.
 
			- 
			Khau cút là 2 
			thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn 
			nóc “tiêu bôn” trước hết là để chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 
			đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa còn thêm bông sen cách điệu 
			ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết hướng  vào nhau so le 
			trên khau cút.
 
			- 
			Có nhiều cách hiểu về khau cút:
 
			- 
			Đó là cặp sừng 
			trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó 
			là những búp cây Guột (rau dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ 
			mường.
 
			- 
			Trên 
			bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ 
			trên sông suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc.
 
			- 
			* Các loại khau cút:
 
			- 
			- Khau cút mải: 
			Là dạng đơn giản nhất chỉ  là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là dấu 
			hiệu nhà  của phụ nữ góa bụa (me mải).
 
			- 
			- Khau quai (sừng trâu), khau 
			pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm (cút lá tre) 
			là dấu hiệu của nhà bình thường.
 
			- 
			- Khau của pụa 
			(khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài 
			trên 1m, phần chót có  đóng 2 miếng gỗ 
			ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn hình hoa thị theo số đếm của 
			luật tục làm nhà.
 
			- 
			- Khau cút căm (khau cút vàng) 
			dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc “quan võ”.
 
			- 
			- Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc 
			lớn.
 
			- 
			Bố trí nội thất: 
			Tiếp liền vách 
			gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của chủ nhà, phía chân 
			thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn đệm chất 
			đống đặt ở phía đầu ngủ.
 
			- 
			Vị trí ngủ của 
			các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là 
			gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ 
			ngủ. Kề cột xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố 
			mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng 
			con gái ngủ, rồi đến con gái chưa chồng ngủ.
 
			- 
			Con rể không được 
			vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ chồng 
			ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ.
 
			- 
			Sợi dây  “xảo 
			lỏng luông” là ranh giới (sợi 
			dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi 
			dây này.
 
			- 
			Tuyệt đối không 
			vắt quần 
			áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ.
 
		 
		
			
				
					
					
						- 
						Con gái chưa chồng
 
					 
					 | 
					
					
						- 
						Vợ chồng con rể
 
					 
					 | 
					
					
						- 
						Vợ chồng con trai
 
					 
					 | 
					
					
						- 
						Bố mẹ
 
						- 
						(ông bà)
 
					 
					 | 
					
					
						- 
						Vợ chồng chủ nhà
 
					 
					 | 
					
					
						- 
						Khách đàn ông
 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		
			- 
			* Các vị  trí khác:
 
			- 
			- Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)
 
			- 
			- Nơi để ống nước: Dựa vào vách 
			bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp)
 
			- 
			- Nơi để khung dệt vải: Bên phải 
			sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn xia  phía ngoài nhà.
 
			- 
			- Nhà kho: Ở dưới gầm sàn
 
			- 
			Lễ lên 
			nhà mới: mời Lúng ta (ngoại) châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc 
			bài xua đuổi tà ma
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			Bài 24:
 
		 
		
		GÁI THÁI 
		
		  
		Nguồn ảnh: Internet
		
		
		duyphitho.blogspot.com 
		
			- 
			Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái 
			Thái” là  nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.
 
			- 
			Trang phục đẹp 
			“độc đáo” tạo 
			dáng đi tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm 
			nhưng vẫn kín đáo, thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, 
			dễ gần gũi, thực thà, chất phác, nói năng vừa phải.
 
			- 
			Tình cảm: chân 
			thành, yêu tha thiết, hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi 
			mà bộ ngực vẫn  đầy đặn.
 
			- 
			“Gái Thái tóc thơm, da trắng, 
			thịt mềm
 
			- 
			Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước
 
			- 
			Ru hồn trai lên cõi trời tiên”
 
			- 
			Thông minh, hoạt 
			bát, ham học hỏi và 
			nhanh tiếp thu cái mới.
 
			- 
			Sinh hoạt cộng đồng: dám phát 
			biểu chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.
 
			- 
			Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy con ngoan. Không đánh con, ít 
			xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không nói dối (ba vẹo).
 
			- 
			Có tính bình đẳng bình quyền (không tự ti), có chí  khí vươn 
			lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao có Tòng Thị 
			Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)
 
			- 
			Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của chính các chàng trai Thái qua 
			“Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái lối nói “xiết” 
			(kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã ca 
			ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động:
 
			- 
			“Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc dung / phung lang he pến hún 
			luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi”
 
			- 
			(Em khâu vó  nên hình chim công /vá chài thành hình lượn con rồng) 
			đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.
 
			- 
			Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống khiêm nhường đáp lại:
 
			- 
			“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi, khống ai khái
 
			- 
			Khuống pai chán dú ngăm nga phả
 
			- 
			Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná”
 
			- 
			(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành 
			cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang chơi).
 
			- 
			Người Thái có câu “au mia bấng me nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) 
			ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé gái đã được mẹ dạy tập 
			nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để khi lớn là 
			thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu, 
			cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng 
			dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề 
			phụ làm ngoài giờ ra ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những 
			bàn tay tài hoa, khéo léo:
 
			- 
			“Sai pánh khuổn mư sại lẹo chum 
			bok cai
 
			- 
			Hai mư khoa chum bơk Mường Hỏ
 
			- 
			Năng dóng dỏ nhịp lụa pên pik bin lá”
 
			- 
			(Em úp tay trái nở hoa đào
 
			- 
			Ngữa tay phải thành hoa Mường Hỏ
 
			- 
			Khép ngồi khâu lụa thành (chim) vỗ cánh bay.
 
			- 
			Sự chăm chỉ của các cô gái Thái 
			thức khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng 
			sáng mới rời khung cửi đi nương, ra ruộng.
 
			- 
			“Tứn tắm húk kem bươn hai
 
			- 
			Tứn tắm húk lai 
			kem bươn hai póng hung”
 
			- 
			(Dậy dệt thổ cẩm cùng trăng sáng
 
			- 
			Dậy dệt vải hoa cùng trăng tỏ  
			rạng đông).
 
			- 
			Người phụ nữ Thái 
			quên ăn quên ngủ  làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội…  đã tạo ra 
			các sản phẩm thiết thực quý giá… các 
			chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô vợ đảm đang, qua lời hát 
			“khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng chàng:
 
			- 
			“Lả tắm phải pên póc nong xe
 
			- 
			Pánh tắm pé pên khoáng lái lủ
 
			- 
			Chụ tắm khẳm pên khoáy lai lương
 
			- 
			Cốn táng phương lướt le chăử hảy”.
 
			- 
			(Em dệt sợi thành vóc hoa dâu
 
			- 
			Em dệt tơ thành gấm hoa vân chéo
 
			- 
			Dệt thổ cẩm rực rỡ hoa văn
 
			- 
			Ước được em thêu dệt khăn đào).
 
			- 
			Như vậy: Gái Thái 
			với vẻ đẹp hình thể  (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên 
			trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô  nàng xinh 
			đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu thương hết dạ.
 
			- 
			8/3/2012.
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 25: 
		
		PÍ PẶP    (1)  
		
			-  
 
			- 
			Chàng trai Thái 
			tỏ tình với người yêu bằng tiếng sao trúc (pí pặp) được 
			nhà thơ Lò Vũ  Vân đặc tả bằng sáu câu thơ ngắn với 36 con chữ rơi 
			thánh thót rót vào lòng cô gái:
 
			- 
			 
 
			- 
			Tiếng Pí Pặp lảnh lót
 
			- 
			Rơi xuống nhà sàn em
 
			- 
			Nhà sàn em tỏa sáng vừng trăng
 
			- 
			Tiếng Pí  Pặp nỉ non đêm ngày
 
			- 
			Trải thảm lên thang gỗ chín bậc
 
			- 
			Rơi vào  đáy tim em.
 
			- 
			Lò Vũ Vân
 
			- 
			 
 
			- 
			_________
 
			- 
			(1) Pí  Pặp: Sáo trúc nhỏ
 
			- 
			Pí = sáo  “páu pí xáư hu quai” thổi sáo vào tai trâu (đàn gãy tai 
			trâu)
 
			- 
			Pí láo = sáo trúc dài
 
			- 
			* Nhà thơ  Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 
			8. phường Tô Hiệu. TP Sơn La.
 
			- 
			BÌNH: Một tứ  thơ lạ, ý rất xưa mà đủ cả tình, cảnh, sự - đủ cả 
			nhạc, họa… thật là độc đáo đến lịm người.
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			 
 
		 
		Bài 26: 
		
		TÊN MỘT 
			SỐ MÓN ĂN THÁI 
		
			- 
			 
 
			-  
 
			- 
			Người Thái 
			có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - 
			làm ăn vào miệng còn không biết thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ 
			là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi. Theo Vi Liên:
 
			- 
			1. Căm khảu (Phần về cơm):
 
			- 
			Khảu nửng (cơm xôi), 
			khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm thổi), 
			khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…
 
			- 
			Khảu bái pa (cơm 
			cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu 
			bái bay (cơm độn trám đen), khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái 
			nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các màu), khảu qua mắn có (độn 
			sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm (với ý dĩ), khảu 
			qua phứa hom (khoai thơm)…
 
			- 
			2. Căm chảm (các loại chấm).
 
			- 
			* Le cưa khao 
			(muối trắng), le ướt cưa (muối ớt).
 
			- 
			* Các loại  “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), 
			chéo báư líu (lá chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki 
			(húng) chéo hom kíp (tỏi), chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu 
			(sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa (cá), chéo pu (cua), chéo mẹ 
			(sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve), chéo đẻ mọn 
			(nhộng tăm).
 
			- 
			* Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm 
			mẹ (sâu măng), mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng 
			ve), mẳm manh po (nhộng cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu 
			(cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng 
			(niềng niểng).
 
			- 
			* Các loại nước chấm:
 
			- 
			Nặm xổm  đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm  xổm mák 
			(quả bứa), nặm xổm má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước 
			mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh van (mì chính).
 
			- 
			3. Căm kin (phần về các món ăn):
 
			- 
			* Phau (đốt) – chí (nướng)
 
			- 
			Các món nướng 
			(pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh 
			mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng 
			to).
 
			- 
			* Các loại lam: Lam nhứa phặc 
			(thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam phắc (rau), lam 
			nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi).
 
			- 
			* Các loại “mốc” cá:
 
			- 
			Gói lá vùi tro 
			nóng: Móc tong (lá), mốc ố  (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc 
			cay (rêu đá), mốc pho, mốc ốt, …
 
			- 
			* Các loại Ók gồm:
 
			- 
			Hầm cách thủy: ók 
			năng min, ók nhứa 
			đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo), ók bon, ók ốt…
 
			- 
			* Các loại nhọk 
			(nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú 
			(đỗ), nhọk năng (da), nhọk nhứa (thịt).
 
			- 
			* Các loại mọk (tẩm bột hầm cách 
			thủy):
 
			- 
			Mọk cáy (gà), mọk pa (cá), mọk 
			nhứa (thịt), mọk tô  pụng (diều hâu), mọk tô hơn (don), mọk tô mển 
			(dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua ngọt).
 
			- 
			* Các loại pho (đùm lá vùi 
			nướng):
 
			- 
			Pho hết 
			côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn 
			cày (nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá).
 
			- 
			* Các loại nửng (xôi) “đồ”:
 
			- 
			Nửng táo, nửng 
			xá - đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng 
			phắc kén (rau khúc), nửng man ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng 
			nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák pi (hoa chuối), nửng 
			dúak pi (nõn cây chuối rừng)…
 
			- 
			* Các loại quả:…
 
			- 
			* Các loại rau: 
			Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải 
			xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm 
			(xương sông), cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau 
			ngót), xô-ók (dọc mùng), cút nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc 
			ven.
 
			- 
			4. Các loại lá (lá non và ngon):
 
			- 
			Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, 
			bâư ngoa, bâư  đứa.
 
			- 
			5. Các loại măng ăn 
			ghém sống:
 
			- 
			Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa 
			ngọk (đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai…
 
			- 
			6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu 
			nún nặm.
 
			- 
			7. Các loại quả thơm:
 
			- 
			Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he 
			(tiêu), măk ớt (ớt).
 
			- 
			8. Các loại vỏ:
 
			- 
			Năng co hăm (vỏ 
			cây hạt dổi)
 
			- 
			Năng chưa bi mi
 
			- 
			9. Các loại quả ăn sau bữa cơm 
			(đét xe):
 
			- 
			Măk teng (dưa), 
			kiểng (cam), hảu (bứa ngọt), phong mạt 
			(dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi (chuối), 
			nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)…
 
			- 
			10. Các loại bánh 
			kẹo:…
 
			- 
			11. Các loại chụp (nộm):
 
			- 
			Chụp phắc chiệu (rau bướm), 
			nó (măng)…
 
			- 
			12. Nó xổm (măng chua)
 
			- 
			Nó héo (măng khô 
			chua)
 
			- 
			Nó hang (măng khô)
 
			- 
			13. Các loại củ quả:
 
			- 
			Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc 
			(bí xanh).
 
			- 
			14. Các loại hoa “đồ” 
			chín ăn được:
 
			- 
			Bók ban (hoa 
			ban), ít ương, thúa (đỗ), tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh…
 
			- 
			15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) 
			cỏi pa (cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…
 
			- 
			16. Năm pịa, nặm bi (mật).
 
			- 
			17. Kăm cắp (ghém):
 
			- 
			* Các loại ghém rau thơm:
 
			- 
			Hom kim (húng), 
			hon xa 
			au, hon pẻn, hon chỉ, hon kip (tỏi).
 
			- 
			18. Căm 
			nặm (phần để các món uống):
 
			- 
			: Lảu xá chúp (rượu cần mút)
 
			- 
			: Lẩu xiêu (rượu 
			cất).
 
			- 
			: Lẩu vạng (rượu cái).
 
			- 
			Nặm ta (nước lã), 
			lẩu xá nóng (rượu đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che 
			(nước chè)…
 
			- 
			Cơ cấu 
			một bữa ăn (mâm cơm) thường phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.
 
			- 
			1. Căm 
			khảu (về cơm)
 
			- 
			2. Căm 
			chảm (về chấm)
 
			- 
			3. Căm kin (về món ăn)
 
			- 
			4. Căm cắp (về món ghém)
 
			- 
			5. Căm nặm (về món uống)
 
			- 
			Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là “đĩa muối ớt”  coi như đã có 
			chủ nhà (mi chản hươn) tiếp theo là các món khác.
 
			- 
			Do thích ăn  “xôi nếp thơm” nên cả hệ thống tiếp theo sau cơm (xôi) 
			là các món thức ăn khô (trừ  rượu) mùa nào thức ấy.
 
			- 
			Các món  ăn “đồ” (không luộc) nên ăn ngọt đậm (không nhạt)…
 
			- 
			Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp dẫn, ngon mà như đủ các vị 
			thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể con người./.
 
			- 
			 
 
			- 
			Xem Phần 2
 
		 
		Nguồn: Nguyễn Khôi  |