Home

Thơ

Sưu Tập

Văn Điếu Tế  Linh Tinh Trang Ca Dao Search

 

 
Bí ẩn về việc đảng Cộng-sản lãnh đạo nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc.
 
Dr. Trần Ðại-Sỹ, 5, place Félix Éboué- 75012 PARIS, FRANCE,
Tél. 33.1.43 07 51 46 hay 33.6 63 79 92 16.
E-mail1= Trandaisy@yahoo.fr
E-mail2= TQJV@Aol.fr  
Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ ?
-------
Lời giới thiệu của IFA, Trong mấy tháng gần đây, nội địa Việt-Nam cũng như hải ngoại đều rúng động vì tin nhà nước hay nói đúng hơn là đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc. Ðau đớn nhất cho người Việt là địa danh lịch sử, đi vào tâm tư, là niềm tự hào của họ là cửa Nam-quan, suối Thiên-tuyền (Phi Khanh) nay đã ở trong lãnh thổ Trung-quốc. Ngay cả hang Pak-bo, là thánh địa của đảng Cộng-sản, trước kia ở rất xa biên giới? Hoa-Việt trên 50 km, nay đứng ở đây? gần như nhìn vào lãnh thổ Trung-quốc.
 
?Trong suốt 25 năm qua Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ, vì ký khế ước làm việc với Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-hoa (CMFC), trong đó có điều căn bản là "không được viết, được thuật những gì với báo chí về Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại. Không được tham gia các đoàn thể chính trị chống đối Trung-quốc, Việt-Nam"; nên không bao giờ ông tiết lộ bất cứ điều gì mắt thấy tai nghe trong những lần công tác tại Trung-quốc hay Việt-Nam. Tuy nhiên ông đã bị một cơ quan? X (chúng tôi dấu tên) triệu hồi để điều trần về vụ này. Theo luật lệ hiện hành, mà Bác-sĩ Trần? phải tuân theo. Rất mong các vị đứng đầu CEP-CMFC thông cảm với chúng tôi.
Lập trường của chúng tôi: dù theo cổ sử, dù theo khảo cổ, dù theo Quốc-tế công pháp thì hai quần đảo Hoàng-sa, Tây-sa đều thuộc Việt-Nam. Trung-quốc chỉ mới nhảy vào vòng tranh chấp khi được Thủ-tướng nước VNDCCH ký văn kiện nhượng cho năm 1958 mà thôi. Còn Phi-luật-tân, Mã-lai càng không có một chút lý nào để đòi chủ quyền tại đây. Vấn đề quá rõ ràng, không cần bàn tới. Trong khi điều trần, Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ đã đứng trên quan điểm này.
 
Cuộc điều trần khá dài, nên Bác-sĩ Trần ngắt ra thành từng đoạn, để cử tọa đặt câu hỏi. Vì cử tọa là những người có kiến thức rất rộng, rất cao về vùng Á-châu, do thế Bác-sĩ Trần không đi vào chi tiết. Sau cuộc điều trần, chúng tôi đã xin phép? phổ biến giới hạn (không phổ biến thắc mắc của cử tọa). Mãi tới hôm nay chúng tôi mới được phép phổ biến toàn văn, cũng như những câu hỏi, câu trả lời (trừ câu hỏi? hỏi số 1-2-7-11). Bản văn này phủ nhận các bản băn trước. Vì bảo mật, chúng tôi, cũng như Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ không trả lời bằng thư, bằng điện thoại, bằng E-Mail, cũng như không thể thỏa mãn tất cả những đòi hỏi thêm về chi tiết, nguồn gốc tài liệu, hình ảnh của bất cứ ai (IFA)
 
Kính thưa Ngài ...
Kính thưa Quý Ngài...
Kính thưa ông Giám-đốc...
Kính thưa Quý-liệt-vị,  
- Thực là hân hạnh, khi mới ngày 17-3 vừa qua, $ chúng tôi ĕược cử đến đây để prình bầy những vụ viῇc đang diễn ra tại vùng ?châu Thái-bǬnh  dương. Hôm nay chúng tôi lại được gửi tới trình bầy về diễn biᚿn trong vụ vmệc chính phῧ Cộng-hòa ) $ Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN) c庯t nhượng lǣnh $ thổ, lǣnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân Cộng-hòa quốc (THNDCHQ), gọi tắt là Trung-quốc. Ðây là một việc cực kỳ  tế nhị, cực kỳ kló khăn cho tôi, làm thế nào giữ được tính chất vô tư. Vì: 8/span>
- _Thứ nhất, tǴi gốc là ng???i Việt, hơn  nữa thuộc giòng dõi một vị Vương- $ ĕứng hàng đầu trong lịch sử Việt, vÈ ngài thắNg Mông-cổ li? tiếp trongba lần, vào phế kỷ ( th?13. Mà nay dôi phải nói về những ngְời đem lãnp ( thổ Việl nhượng cho Lrung-quốc, khó mà diễn tᲣ 8 lời lẽ0vô tư cho đƸợc. (
0
- 0 _ Thứ nhì, ngoài chức vụ giáo-sư I-khoa ra, tôi ( 8 là một tiểu thuyết gia, đã viết tr˪n mười bố~ nghìn trang, thuật huân công của cák anh hùng tộs 0 Việt trong việc dựng ~ước, giữ nްớc. Mà suột ( trong năm0nghìn năm lớch sử, chỉ duy năm 1540, giặc Mạc Dԃng-Dung cắt ̑ất dâng cho triều Minh c᳧a Trung-qu᫑c; bị tộc Việt đời đời nguyền rủa. Vậy mè nay phải chứng kiến tận mắt lãnh th? ( Việt bị cắt cho Tru~g-quốc. quot;VNI Times&iuot;; color:bdack;mso-ansi-language:FR"> 0 0
$ - 0 _ Thứ ba, các sinh viên Việt-Nam muốn du học Pháp, thường bị vài tổ chức đòi phí khoản 20 nghìn USD mỗi đầu người. Một vị Ðại-sứ của Việt-Nam tại châu Âu, mời tôi về nước, (tất cả chi phí do tiền của IFA) để giúp sinh viên Việt-Nam du học Pháp. Với sự hướng dẫn của tôi, từ nay sinh viên muốn du học Pháp, họ đã biết rất rõ những gì phải làm, những gì phải chứng minh. Họ không phải tốn một đồng nào cả. Thế nhưng khi trở về Pháp, lúc lên phi cơ tại phi trường Tân-sơn-nhất, tôi bị ba sĩ quan cao cấp của Công-an chờ sẵn, hạch sách, khám xét trong hoảng 98 phút, bằng những câu hỏi có tính cách nhục mạ, ngớ ngẩn, lời lẽ cục súc. Tôi cho đây là một hình thức khủng bố, khủng bố tôi, và khủng bố cả người bạn tôi đang là một Ðại-sứ của VN, đã mời tôi. Ông Ðại-sứ này được Quý-vị kính trọng về tư cách và về kiến thức. Thưa Quý-vị, hôm đó tôi chỉ cười nhạt, khinh rẻ, vì tôi biết rất rõ kiến thức, mục đích của họ. Trong khi họ không đủ khả năng bịa ra? bất cứ tội gì để kết tội tôi. Hơn nữa tôi giữ trong tay một ủy nhiệm thư, theo Công-pháp Quốc-tế, họ không thể công khai vị phạm.(1)
(1), Trong lần về Việt-Nam này, chúng tôi thuê xe đi Lạng-sơn. Khi tới trạm biên giới mới, chúng tôi xin sang lãnh thổ Trung-quốc mới (Nam-quan cũ) thì bị Công-an Việt-Nam từ chối. Chúng tôi đặt vấn đề: Chúng tôi mang thông hành Liên Âu, có visa hợp pháp vào Việt-Nam, thì chúng tôi có quyền ra khỏi Việt-Nam chứ? Công-an cửa khẩu trả lời rằng: Ông có visa ra vào cửa khẩu Tân-sơn-nhất, Nội-bài, chứ không có quyền rời Việt-Nam bằng cửa Hữu-nghị. Chúng tôi xin chụp hình cửa khẩu mơí, thì họ không cho. Chúng tôi đành trở về,? rời Tân-sơn-nhất, đi Quảng-châu. Từ Quảng-châu đi Nam-ninh. Từ Nam-ninh thuê xe tới Bằng-tường là đất Trung-quốc đối diện với Nam-quan. Rồi vào Nam-quan cũ. Ðứng trước vùng đất thiêng của tổ tiên, nay vĩnh viễn trở thành đất của người. Tự nhiên tôi bật lên tiếng khóc như trẻ con. Viên sĩ quan Công-an Trung-quốc tưởng tôi là người Hoa. Anh ta hỏi:
- _ Tiên sinh có thân nhân tử trận trong dịp mình dạy bọn Nam-man bài học à?
- Tôi lắc đầu, khóc tiếp. Anh an ủi:
- _ Thôi, người thân của Tiên-sinh đã hy sinh dưới cờ thực, nhưng nay bọn Nam-man đã dâng đất này tạ tội rồi. Tiên sinh chẳng nên thương- tâm nhiều. Tôi kiếm tảng đá ngồi ôm đầu khóc. Anh Công-an bỏ mặc tôi. Khóc chán, tôi trở sang Bằng-tường, kiếm một cơ sở mai táng ( xây mộ, làm mộ chí). Tôi mượn họ khắc trên một miếng đá bóng nhân tạo (granite)? bài thơ bằng chữ Hán xin phiên âm như sau:
- 1.Thử địa cựu Nam-quan,
- 2.Biên ải ngã cố hương.
- 3.Kim thuộc Trung-quốc thổ,
- 4.Khấp, khốc, ký đoạn trường.  
- 5.Lê Hoàn bại Quang-Nghĩa,
- 6.Thường Kiệt truy Bắc phương,
- 7.Hưng Ðạo đại? sát Ðát,
- 8.Lê Lợi trảm Vương- Thông.  
- 9.Nam xâm, Càn-Long nhục,
- 10.Kiếm hồng Bắc-bình vương.
- 11.Ngũ thiên niên dĩ tải,
- 12.Hoa, Việt? lập dịch trường.   ----
- 13.Mao, Hồ tình hữu nghị,--
- 14.Nam, Bắc thần xỉ thương,
- 15.Huyết lệ vạn dân cốt,
- 16.Hồng-kỳ? thích ô hoang. -
Ðại-Việt vong quốc nhân Trần Ðại-Sỹ
Khốc đề lục nhật, cửu nguyệt, niên đại 2001  
- Tôi đem tảng đá này, gắn vào một vách núi ngay cạnh đường, trên độ cao khoảng 2-3m. Công-an, cán bộ Trung-quốc xúm lại xem. Nhưng họ chỉ hiểu lơ mơ ý trong thơ mà thôi. Xin tạm dịch:
- 1.(Ðất này xưa gọi Nam-quan,)
- 2.(Vốn là biên địa cố hương- của mình.)
- 3.(Hiện nay là đất Trung-nguyên,)
- 4. ( Khóc chảy máu mắt, đoạn trường ai hay?)
- 5.(Vua Lê thắng Tống chỗ này,)
- 6.( Thường Kiệt rượt Tiết cả ngày lẫn đêm,)
- 7.(Thánh Trần sát Ðát liên miên,)
- 8.( Lê Lợi giết bọn Thành-sơn bên đồi,)
- 9.(Càn-Long chinh tiễu than ôi,)
- 10.(Quang-Trung truy sát muôn đời khó quên.)
  ---- 11.(Năm nghìn năm cũ qua rồi,)
- 12.(Chợ biên giới lập, đời đời Việt-Hoa.)
- 13.(Ông Hồ kết bạn ông Mao,)
- 14.(Sao răng lại? cắn, máu trào môi sưng.)
- 15. ( Vạn dân? xương- trắng đầy đồng,)
- 16. ( Ðể lại trên lá cờ Hồng vết nhơ.)
- (Người nước Ðại-Việt vong quốc tên Trần Ðại-Sỹ, khóc đề ngày 6 tháng 9 năm 2001)  
Câu 5,. Vua Tống Triệu Quang-Nghĩa sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng sang đanh VN, bị vua Lê (Hoàn) đánh bại.
Câu? 6, Năm 1076, vua Tống Thần-tông sai bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang đánh Ðại-Việt, bị Thái-úy Lý Thường Kiệt đánh đuổi.
Câu 8, Tước của Vương- Thông là Thánh-sơn hầu.
Câu 10, Vua Quang-Trung còn có tước phong là Bắc-bình vương.
Câu 14, Hồi 1947-1969 Chủ-tịch Trung-quốc là Mao Trạch Ðông, Chủ-tịch Việt-Nam là Hồ Chí Minh kết thân với nhau. Việt-Hoa ví như răng với môi. Vì sợ môi hở răng lạnh nên ông Mao phải giúp ông Hồ. Năm 1978, Ðặng Tiểu Bình đem quân tàn phá các tỉnh biên giới phía Bắc Việt-Nam, nên người ta đổi câu trên thành: Răng cắn môi máu chảy ròng ròng.
- Tôi chợt nhớ một chuyện, mấy năm trước, mỗi khi qua đây tôi đều tìm đến suối Phi-Khanh, múc nước cho vào bầu, vì sợ nước nhiễm trùng, tôi dùng thuốc Hydroclonazone sát trùng, rồi uống để tưởng nhớ hiếu tử Nguyễn Trãi, theo tiễn cha tại đây.
- Tôi lò mò đến suối Phi-Khanh. Ngọn suối Phi-Khanh này không xa Nam-quan làm bao, không nổi tiếng bằng Ải Nam-quan, nhưng đối với dân địa phương- thì lại là một vùng đất linh của lịch sử. Nhìn thấy suối Phi-Khanh bây giờ thuộc Trung-quốc, tôi khóc như một người điên. Anh sĩ quan Công-an nói với nhân viên phụ trách quan thuế:
- _ Tội nghiệp cho vị tiên sinh này! Chắc con của ông ấy tử trận trong lần mình dạy tụi Nam-man bài học! Ông ấy thương- tâm quá rồi.
- Tôi nghe anh ta nói, lại khóc to hơn. Cái suối Phi-Khanh này ra sao?
Câu chuyện suối Phi-Khanh như thế này:
- Nhà Minh lấy cớ giặc Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần (1400), sai bọn Trương- Phụ, Mộc Thạnh sang đánh (1406). Thăng-long( Ðông-đô) thất thủ, rồi Tây-đô (Thanh-hóa) cũng thất thủ. Cha con? giặc Hồ chạy đến cửa biển Ky-la. Có một lão ông ra bái yết nói:
"Chỗ này tên Ky Lê, trên núi có động Thiên-cầm; đều là điềm không tốt, xin đừng lưu ở đây".
- Hai cha con họ Hồ giết ông lão ấy, rồi quả nhiên bị bắt.
- Chữ Ky có nghĩa là trói, buộc. Nguyên tổ tiên Hồ Quý Ly là con nuôi ông Lê Huấn, mới đổi ra họ Lê. Nay gặp cửa Ky Lê nghĩa là trói bọn Lê. Còn hang Thiên-cầm thì Thiên là trời, cầm là đàn. Cái hang này khi? gió thổi vào tạo thành âm thanh như tiếng đàn. Nhưng ông lão đó khuyên Hồ Quý Ly rời đi? vì cầm tuy viết khác, nhưng cùng âm với cầm là bắt. Hang Thiên-cầm nghĩa là hang trời bắt.
- Tháng 6 năm Ðinh Hợi, 1407, Trương- Phụ sai Hoành-hải tướng quân Lỗ Bân, Ðô-đốc thiêm-sự Liễu Thăng bắt giải Quý-Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng, Triệt, Uông, cháu là Nhuế, Mỗ, Phạm, em là Quý-Tỳ; con Quý-Tỳ là Vô Cữu, ngụy tướng quân Hồ Ðỗ, Ðoàn Bồng; ngụy Hành-khiển Nguyễn Nghiện Quang, Lê Cảnh Kỳ, Nguyễn Phi Khanh sang Kim-lăng.
(Thời còn niên thiếu, nho sinh Nguyễn Phi Khanh được quan Tư-đồ Trần Nguyên-Ðán tuyển làm gia sư cho các con. Trong các con của quan Tư-đồ có cô Trần Thị Thái đang tuổi dậy thì. Lửa Phi-Khanh gần rơm Thái thì phải bén là lẽ thường. Thế rồi cô Trần Thị Thái mang bầu. Nho sinh Phi-Khanh sợ tội bỏ trốn. Quan Tư-đồ sai người đi bắt về, rồi gả con gái cho. Bà Thái ông Khanh sinh ra Nguyễn Trải. Thời thơ ấu Nguyễn Trãi được ông ngoại yêu thương- dạy dỗ tận tình? hơn tất cả các cháu. Sau khi giặc Hồ Quý-Ly cướp ngôi nhà Trần, Nguyễn Phi Khanh ứng thí, rồi được bổ làm quan).
- Nguyễn Trãi thương- xót cha, đi theo đoàn tù binh để phụng dưỡng. Lúc tới Nam-quan thì quan nhà Minh đuổi những người theo tiễn sang Trung-quốc trở lại. Cha con khóc lóc tiễn biệt nhau, Phi-Khanh khuyên con hãy trở về lo phục quốc. Tương- truyền, bình nước Nguyễn Trãi mang theo để cho cha uống đã hết, tại cửa ải không tìm đâu ra nước, ông lang thang vào bãi cỏ bên đường, ngửa mặt nhìn trời, rồi khấn:
" Nếu trời xanh chưa nỡ hại nước Việt tôi, cho tôi đuổi được giặc, phục hồi cố thổ thì xin cho tôi bầu nước tiễn cha".
- Uất khí bốc lên ông dậm chân, thì dưới chân vọt ra một nguồn nước. Ông uống nước đó, rồi hứng đầy bầu dâng cho cha. Từ đấy dân Nam-quan gọi suối ấy là suối Phi-Khanh. Khi vụ án Lệ-chi viên xẩy ra, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, thì suối ấy đổi tên là Thiên-tuyền. Rồi khi vụ án được vua Lê Thánh-tông giải oan, suối ấy lại mang tên Phi-Khanh truyền đến nay. Suối không đẹp, lưu lượng chảy cũng không nhiều. Trong lần đi công tác cho CEP, mục đích tìm các nguồn suối khai thác nước uống, tôi có lấy tại đây ngày 14-8-1993 một bình 2 lít vào 15 giờ, đem về phân tích, thì thành phần như sau:
Tính theo mg/l
Calcium--- --- 284
Magnésium----- --- 78
Sodium--- --- 10,6
Potassium-- --- 3,5
Sulfate-- ---       1172
Hydrogénocarbonate? --         410
Chlorure--- --12
Nitrate------ ---              3,2
Không thấy có vi trùng, hay độc chất.
- Bất cứ một Bác-sĩ dù ở trong hay ngoài nước, đều thấy rằng đây là thành phần lý tưởng, dùng làm nước uống rất tốt cho sức khỏe. Nhưng vì luật lệ Việt-Nam quá rắc rối, lại chạm phải bức tường tham nhũng, nên công ty nước khoáng Pháp bỏ không khai thác.
- Giờ đây, tôi đứng lặng nhìn suối. Tôi đổ chai nước khoáng 2 lit, còn một nửa đi, rồi múc nước suối Phi-Khanh vào chai, sau đó sát trùng bằng thuốc Hydroclonazone (Tosylchloramide sodique hay chloramine). Lại múc một ly uống sống, quên cả sát trùng! Bấy giờ là mùa Ngâu, nước suối trong, tràn đầy. Sao mà nước ngon thế, hơn cả Evian, Contrex, Volvic của Pháp là những nước khoáng ngon nhất thế giới. Suối vẫn còn đây! Phi-Khanh ở đâu? Nguyễn Trãi ở đâu? Trên không mây vẫn bay, sương- mờ vẫn giăng trên núi, nước vẫn chảy. Nhưng đất đã đổi chủ. Tôi cảm ứng cầm bút vạch trên tảng đá bài thơ cổ phong (quá buồn tôi làm thơ, để bầy tỏ sự đau đớn, chứ tôi không phải là thi sĩ), rồi lại trở sang Bằng-tường khắc bài thơ lên mảnh granite, và gắn lên tảng đá trong vách núi gần suối. Bài thơ như sau:
 
Ẩm Phi-Khanh tuyền.
1. Ngụy Hồ thất nhân tâm,
2. Minh xử Trương- Phụ xâm.
3. Nhị đô giai thất thủ,
4. Quân, thần nhục Thiên-cầm.  
5. Thử địa Ức Trai thệ,
6. Uất khí biệt phụ thân,
7 Nam-quan khốc tống biệt,
8. Thiên tứ nhất linh tuyền.  
9. Lục bách niên vân tải,
10. Dân Việt tưởng anh huân,
11. Kim thuộc Trung-quốc thổ,
12. Ẩm thủy thương- ngã tâm.  
Ðại-Việt, vong quốc nhân Trần Ðại-Sỹ,
Khốc đề lục nhật, cửu nguyệt, niên đại 2001.
 
Tạm dịch:
Giặc Hồ làm mất dân tâm,
Minh sai Trương- Phụ đem quân đánh mình,
Quân thua thất thủ hai kinh,
Vua tôi bị bắt ở quanh Thiên-cầm.  
Ức-Trai hiếu tử tiễn cha,
Nam-quan thề quyết không tha giặc trời.
Hay đâu linh khí muôn đời,
Phun ra ngọn suối, tuôn hoài? nước thiêng.
Sáu trăm năm cũ ai quên,
Ðại công quét sạch giặc Minh chỗ này.
Bây giờ, suối vẫn còn đây,
Ðau lòng vì? suối đã thay chủ rồi.
(Người nước Ðại-Việt vong quốc tên Trần Ðại-Sỹ, khóc đề ngày 6 tháng 9 năm 2001)  

 

 

 

Thư Mục 

Thơ

Đổi Thay  
Những Đoản Khúc
Tơ Vò
Hương Phai 
Thi Đàm /Thi Họa

Kịch Thơ 

Cô Hàng Nước  
Ngồi Đợi Bình Minh

Truyện Dài

Cơ Trời Vận Nước
Trầm Bay

Truyện Ngắn

Bước Hổng Chân Không
Ba Con Yến Nhỏ
Cây Cà Rem Đầu Đời

Sưu Tập

Ca Dao

Huy Chương VNCH

Huy hiệu QL/VNCH

Huy Hiệu QĐ Pháp/Đ-Dương

Tiền Tệ
Quân Sử VNCH

Điếu Tế 

Văn Tế
Điếu Văn
25 Năm Xây Dựng CĐ
Hot Links
Ha Huyen Chi
Gia Đình Võ Bị
All Links

Miếng Ngọt Quê Hương

Thực Vô Cầu Bão
Cá Kho
Món Xào

Send mail to haphuonghoai@gmail.com with questions or comments about this web site.
Copyright © 2003 Haphuonghoai
Last modified: 01/29/13