-
|
CHUYỆN MỘT
CHIẾC ẢI ÐÃ MẤT
Trần Gia Phụng
1.-
ẢI NAM QUAN
Theo
Ðại Nam nhất thống chí, do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn xong
dưới triều vua Tự Ðức (trị vì 1847-1883), ải Nam Quan "cách tỉnh
thành [Lạng Sơn] 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía
bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước
Thanh, tức là chỗ mà
người Thanh gọi Trấn Nam Quan Cửa
nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh,[1] đến năm Ung Chính thứ 3
[1725] nhà Thanh,[2] án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu
bổ lại có tên nữa là "Ðại Nam Quan", phía đông là một? dải núi đất, phía tây là một dải núi
đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng [3],
cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ năm
Ung Chính thứ 6 [1728] triều Thanh, có một cửa, có khóa,? chỉ khi nào có công việc của sứ bộ
mới mở Bên trên cửa có trùng
đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm tân sửu
[1781] đời Càn Long nhà Thanh.[4]?
Phía bắc cửa có "Chiêu đức đài", đàng sau đài có "Ðình tham
đường" (nhà giữ ngựa) của nước
Thanh; phía nam có "Ngưỡng đức đài"
của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành
lang, mỗi khi sứ bộ
đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."(5)
Sau
khi mô tả ải Nam Quan, các sử quan nhà Nguyễn đã đưa ra nhận xét như
sau: "Trấn Nam Quan không rõ bắt đầu từ triều đại nào, trong Nam
sử cũng như Bắc sử đều không có minh văn Khoảng đời Lê Cảnh Hưng, [6] đốc trấn Lạng Sơn
Nguyễn Trọng Ðang sửa lại "Ngưỡng đức đài", lập bia ghi việc đại
lược nói: "Nước Việt ta có Ngũ Lĩnh, quan ải trước ở đâu không rõ,
là vì diên cách thế nào không ghi đủ
Gần đây, lấy địa giới châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa
quan, cửa quan có "Ngưỡng đức đài" không rõ dựng từ năm nào, có lẽ
bắt đầu từ đời Gia Tĩnh nhà Minh."?
Văn bia ấy nay vẫn còn."(7)
Dựa
theo văn bản trên đây, ải Nam Quan gồm hai phần kiến trúc: Thứ nhất,
phần kiến trúc do chính quyền Trung Hoa xây dựng từ thế kỷ 16 gồm có
cửa quan và những cơ sở phụ thuộc phía bắc ải Thứ nhì, phần kiến trúc do chính quyền Ðại
Việt xây dựng phía nam ải, gồm có "Ngưỡng đức đài" và hai dãy hành
lang tả hữu, và có bia được lập vào thế kỷ 18 ghi địa giới hai nước.
? Danh từ "Nam Quan" do triều đình
Trung Hoa đặt, có nghĩa là cánh cửa mở xuống hay đi xuống phía
nam Như thế, khi xây dựng cửa ải
Nam Quan, triều đình Trung Hoa chính thức xác nhận đây là biên giới
phía nam của nước Trung Hoa, giống như Nhạn Môn Quan (8) là cửa ải cực
bắc Trung Hoa Mỗi lần sứ quan một
trong hai nước bước qua cửa ải là tiến vào địa phận nước bên
kia
Dưới chế độ cộng sản, Mao Trạch
Ðông đổi tên ải Nam Quan thành "Mục Nam Quan"
(cửa nhìn xuống phía nam), còn Hồ Chí Minh thì gọi là "Hữu Nghị Quan"(cửa hữu nghị), nhưng
hữu nghị như thế nào, ngày nay vừa mới có câu trả lời qua Hiệp
ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc ngày
30-12-1999.
2.-
VỊ TRÍ QUAN TRỌNG CỦA ẢI NAM QUAN
Những
nhà cầm quyền Trung Hoa nhiều lần đưa quân sang xâm lược nước
ta, nhất
là trong những lúc nước ta loạn lạc, suy yếu. Quân đội xâm lược Trung Hoa tiến sang nước ta bằng hai
đường: đường biển và đường bộ.-
Trên biển, năm 938, vua Nam Hán (9)
là Lưu Cung sai con là Hoằng Tháo mang chiến thuyền vượt biển, theo
đường sông Bạch Ðằng,(10) đã bị Ngô Quyền phục binh chận đánh Hoằng Tháo tử trận; Lưu Cung phải ra
lệnh thu quân về.
Trên bộ, núi non trùng điệp giăng
ngang biên giới giữa hai nước Chỉ
có một cuộc hành quân duy nhất dọc duyên hải do Mã Viện (Ma Yuan, 14
TCN - 49) thực hiện năm 41, khi ông vâng lệnh Hán Quang Võ (Han
Kuang-wu, trị vì 25-57) đem quân sang đánh Hai Bà Trưng Mã Viện đi dọc theo bờ biển Quảng
Ðông, xuống cổ Việt, xuyên qua núi non vùng Ðông Triều, tiến về phía
tây, tấn công Hai Bà Trưng tại Mê Linh, Châu Diên
(vùng Phúc Yên, Sơn Tây ngày
nay).(11)
Con
đường nầy xa mà không tránh được núi non, nên về sau các nhà quân
sự Trung Hoa chọn con đường tương
đối thuận lợi là các thung lũng chạy dọc theo các dòng sông,
từ Trung Hoa qua Việt Nam giữa biên giới hai nước.
Có hai con đường chánh: Thứ nhất, từ
Tư Minh, Bằng Tường (Quảng Châu, Trung Hoa), theo thung lũng các sông
nhỏ như Bằng Giang, Kỳ Cùng, vào Lạng Sơn, xuống thung lũng sông
Thương, đến Bắc Ninh, tiến qua Thăng Long
Thứ nhì, từ Vân Nam, theo thung lũng sông Hồng, xuống Thăng
Long Ðường thứ nhì núi non hiểm
trở, dài hơn và khó đi hơn đường thứ nhất, nghĩa là đường thung lũng
sông Hồng không thuận tiện bằng đường thung lũng sông Thương.
Như thế, Lạng Sơn nằm ngay trên con
đường chiến lược quan trọng chính của những cuộc hành quân xâm lăng
của Trung Hoa tiến vào Việt Nam
Muốn tiến vào Lạng Sơn, quân đội bắc phương phải tiến ngang qua một ngọn đèo, và
trên ngọn đèo đó là ải Nam Quan
Ải Nam Quan nằm ở địa đầu của Lạng Sơn, là tiền đồn ngăn chận
những cuộc xâm lăng từ bắc phương
và cũng là chiến địa của những trận giao tranh đẵm máu, ghi
dấu những chiến tích lẫy lừng của quân dân Việt Nam.
Xin hãy chú ý đến cách mô tả địa
thế ải Nam Quan trong Ðại Nam nhất thống chí: "... phía đông
là một dải núi đất, phía tây là
một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường..." Hai bên là hai dãy núi, ở giữa là
lối đi qua ải, phía bắc chính quyền Trung Hoa xây công sự, phía
nam, là
các công trình kiến trúc nước ta
Ðó là con đường đèo chật hẹp, nếu chận ngay tại đường đèo
nầy, nghĩa là chận ngay cửa ải, thì bắc phương rất khó tiến quân.
*?
Cuộc tiến quân xâm lăng bằng đường Lạng Sơn đầu tiên diễn ra
năm 981. Nguyên vào năm 979, Ðinh
Bộ Lĩnh (trị vì 968-979) bị ám sát, con là Ðinh Tuệ, mới 6 tuổi lên
ngôi tức Ðinh Phế Ðế (trị vì 979-980).
Nhận thấy tình hình Ðại Cồ Việt xáo trộn, năm 980 vua Trung Hoa
là Tống Thái Tông (trị vì 976-997) phong
cho Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu thủy lục chuyển vận sứ, còn các
tướng Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực làm binh mã
đô bộ thự; tất cả sửa soạn quân lương?
lên đường sang xâm lấn Ðại Cồ Việt. Quân Tống chia làm hai đường thuỷ bộ tiến vào nước ta
năm 981 (tân tỵ). Ðường bộ do Hầu
Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng tiến theo ngả Lạng Sơn, còn đường thủy
do Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt biển tiến vào bằng đường sông
Bạch Ðằng.
Nhân cơ hội nầy,
Lê Hoàn tổ chức đảo chánh, tự mình lên làm vua (trị vì 980-1005). Nhà vua tự làm đại tướng cầm quân
chống giặc, cũng chia quân làm hai hướng để ngăn cản đường tiến quân
của nhà Tống. Sử sách chỉ viết
rằng Hầu Nhân Bảo bị phục kích ở ải Chi Lăng (Lạng Sơn). Trước khi muốn tiến đến Chi Lăng, có
thể phải qua ải Nam Quan. Hầu Nhân
Bảo trúng kế trá hàng, bị bắt giết.
Quân Việt phản công mạnh mẽ, quân Tống thiệt hại nặng, hai
bộ tướng của Hầu Nhân Bảo là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân
bị bắt Sau trận Chi Lăng, các lực
lượng thủy bộ của nhà Tống đều rút
lui.
*
Việc giao thiệp giữa Ðại Việt và Trung Hoa căng thẳng trở lại
khi tể tướng nhà Tống là Vương An
Thạch (1021-1086) muốn mưu tìm một chiến công ở ngoài biên cương để hỗ trợ chính sách cải cách ở
trong nước của ông ta Triều đình
nhà Lý ở Ðại Việt dò biết được những chuẩn bị của Trung Hoa, gởi
thư sang hỏi nhà Tống, thì bị dìm đi
Do đó, triều đình Ðại Việt quyết định cử Lý Thường Kiệt
(1019-1105) và Tôn Ðản đem mười vạn quân theo hai đường thuỷ bộ tấn
công trước, đánh phá Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc Quảng Ðông ngày
nay), Ung Châu (tức Nam Ninh? thuộc
Quảng Tây ngày nay), lấy của rồi rút lui.
Tháng
chạp năm bính thìn (qua đầu năm 1077), vua Trung Hoa là Tống Thần Tông
(trị vì 1067- 1085) sai Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ và Triệu Tiết làm
phó chiêu thảo sứ, đem quân sang trả thù, đồng thời ước hẹn với
Chiêm Thành và Chân Lạp (Chen-la tức Cambodia) cùng một lần đem quân
đánh Ðại Việt từ hai mặt Các bộ
chính sử không viết rõ, nhưng theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý
Thường Kiệt, có thể Quách Quỳ đã qua đường Nam Quan, xuống Chi
Lăng để tấn công thủ đô Thăng Long.(12)
Lý Thường Kiệt chận quân Tống ở
sông Như Nguyệt (sông Cầu chảy qua xã Như Nguyệt, Bắc
Ninh) Quách Quỳ chuyển quân đến khúc sông
Phú Lương (sông Hồng ở Thăng Long). Lý Thường Kiệt tiếp đánh nhưng
thế giặc rất mạnh; máy bắn đá của địch phá nhiều chiến thuyền, và
làm cho hàng ngàn binh sĩ nước ta tử trận Sợ binh sĩ nãn lòng, Lý Thường Kiệt phao tin có thần
nhân báo mộng cho bốn câu thơ: "Nam
quốc sơn hà nam đế cư, / Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư. / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, / Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư. " (Hoàng Xuân Hãn dịch:"Sông núi nước Nam vua Nam coi, / Rành
rành phân định ở sách trời. / Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, / Bay sẽ
tan tành chết sạch toi. ")
Quân
lính nghe được những câu thơ nầy đều hăng hái đánh giặc Lực lượng nhà Tống bị chận đứng Hai bên cầm cự với nhau bất phân
thắng bại Triều đình nhà Lý đề
nghị bãi binh Nhà Tống thấy khó
thắng, đồng thời binh sĩ ở lại lâu không hạp thủy thổ, đành chấp
thuận.
*?
Làm chủ toàn bộ Trung Hoa sau khi vị vua cuối cùng của nhà Tống
là Quảng Vương (trị vì 1278-1279)
tự tử năm 1279, Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì
1260-1294) muốn mở mang đế quốc, tìm đường chinh phục các nước Ðông
Nam Á Quân Nguyên đã ba lần xâm
lăng Ðại Việt, trong đó hai lần quân Nguyên tiến qua ải Nam Quan.
Lấy cớ mượn đường xuống Chiêm
Thành, ngày 12-7 năm giáp thân (24-8-1284), Nguyên Thế Tổ cử thái tử
là Trấn Nam Vương Thoát Hoan
(Toyan), với sự phụ tá của tướng A Lý Hải Nha (Ariq-Qaya), cầm quân
đánh Ðại Việt Quân Nguyên tấn
công Ðại Việt bằng ba hướng khác
nhau
Thứ nhất, Thoát Hoan dẫn bộ binh tiến vào nước ta bằng đường
Lạng Sơn, nhắm chiếm Thăng Long
Thứ nhì, tướng Nạp Tốc Lạt Ðinh (NasiruđDin) dẫn bộ binh từ Vân
Nam theo đường sông Chảy đi xuống, và thứ ba, Toa Ðô (Sogatu) dẫn thủy
quân từ? bờ biển Chiêm Thành đánh
lên Ðại Việt Ba cánh quân Nguyên
tạo thành thế gọng kèm, giáp công ba mặt, ép quân Việt vào ở
giữa
Trước sức chống trả mãnh liệt của
quân dân Ðại Việt, quân Nguyên thất bại, Thoát Hoan rút lui cũng
bằng đường bộ, qua Vạn Kiếp,(13) thì bị tướng Nguyễn Khoái đổ quân ra
tiêu diệt Các tướng Nguyên phải
dùng đồ đồng bao bọc Thoát Hoan, rồi bỏ ông ta lên xe đẩy về biên
giới, lại bị tướng Trần Quốc Nghiện phục binh lần nữa, mới thoát thân.
Nguyên Thế Tổ rất căm giận, ra
lệnh động binh trở lại vào tháng 2 năm mậu tuất
(1287) Tổng chỉ huy quân Nguyên vẫn là Trấn
Nam Vương Thoát Hoan, dưới quyền
có các tướng Áo Lỗ Xích (Auruyvci), Ô Mã Nhi (Omar), Trình Bằng Phi
(một viên tướng nhà Tống đầu hàng nhà Nguyên), Phàn Tiếp,
Trương Văn Hổ Lần nầy, quân Nguyên cũng tấn công
nước ta bằng đường bộ và đường biển
Trên bộ, quân Nguyên chia làm hai cánh:? Thoát Hoan từ Quảng Tây tiến xuống Lạng Sơn, và Ái Lỗ
(Aruq) từ Vân Nam theo đường sông Hồng tràn
qua Ðường biển, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp
dẫn quân đi trước, Trương Văn Hổ
chuyên chở lương thực theo sau.
Không khác gì lần trước, quân Nguyên
lại thất bại, thuỷ quân vận lương
bị đánh tan ở Vân Ðồn (Quảng Yên), Thoát Hoan rút quân bằng đường bộ
Tại cửa ải Nội Bàng,(14) tướng Phạm Ngũ Lão phục binh làm
nhiều đoạn, đổ quân ra đánh đuổi Thoát
Hoan Các tướng Trương
Quân, A Bát Xích, Trương
Ngọc tử trận; chỉ có Thoát Hoan, Trịnh Bằng Phi và Áo Lỗ Xích
trở về được Trung Hoa.
*? Năm 1407, gia đình Hồ Quý Ly, Hồ
Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương bị
quân Minh bắt ở Hà Tĩnh Quân Minh
không giết cha con Hồ Quý Ly mà chỉ giải về Trung
Hoa Trong số những vị quan bị giải theo gia
đình Hồ Quý Ly, có Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, thân phụ
của Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi bịn
rịn đưa tiễn cha lên tận ải Nam Quan
Tại đây, Nguyễn Phi Khanh nói với con: "Con phải về nhà mà
lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo mà khóc lóc làm gì."(15) Sau đó, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi
kháng chiến chống quân Minh và đạt được thành công năm 1428.
* Tháng 6 năm đinh mùi (1427), nhà Minh
cử Quảng Tây Chinh Nam Ðại tướng quân Trấn Viễn Hầu Cố Hưng Tổ đem 5
vạn quân từ Quảng Tây sang cứu viện quân Minh đang thất bại trước
sức phản công của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo Cố Hưng Tổ đi vào cửa ải Nam Quan (Pha
Luỹ), bị hai tướng Trần Lựu và Lê Bôi đánh tan phải chạy về
Nhà Minh liền cử Tổng binh An Viễn
Hầu Liễu Thăng đem 10 vạn tinh binh vượt ải Nam Quan (Pha Luỹ) tháng 9
cùng năm Trần Lựu liệu thế
không chống nổi, phải rút lui về ải Chi Lăng Tại đây, tướng Lê Sát sai Trần Lựu cầm quân ra trận,
rồi giả thua bỏ chạy Liễu Thăng
rượt theo, lọt vào ổ phục binh, bị nghĩa quân giết chết ở núi Mã
Yên (tức núi Yên Ngựa).(16)
*
Tháng 8 năm canh tý (1540), Thái Tông Mạc Ðăng Doanh (trị vì
1530-1540) qua đời, con là Phúc Hải?
lên thay tức Mạc Hiến Tông (trị vì
1540-1546) Cuối năm đó, nhà Minh cử Cừu Loan và
Mao Bá Ôn đem quân đến cửa ải Nam Quan, buộc họ Mạc phải tự đến
cửa ải đầu hàng.
Lúc đó, thượng hoàng Thái Tổ Mạc
Ðăng Dung (trị vì 1527-1529) thay cho cháu (vua Mạc Hiến Tông) lên ải
Nam Quan thương thuyết vào tháng 11
năm canh tý (1540) Nội dung cuộc
hòa hội nầy không được ghi chép cụ thể, nhưng chắc chắn trong thế
yếu, Mạc Ðăng Dung phải chịu nhượng bộ và hối lộ để Mao Bá Ôn chịu
thỏa hiệp lui quân
Về vấn đề biên giới, trong tờ trình
lên triều đình nhà Minh ngày 20 tháng 10 năm tân sửu (1451), Mao Bá
Ôn viết rằng Mạc Ðăng Dung? đồng
ý "trả lại đất bốn động đã chiếm".(17) Theo lối nói của Mao Bá Ôn, có nghĩa là bốn động đó
vốn thuộc Trung Hoa, bị Ðại Việt chiếm đóng, nay nhà Mạc chịu trả
lại Tuy nhiên, mục "Bản kỷ tục
biên" bộ Ðại Việt sử ký toàn thư lại viết khác, cho rằng Mạc
Ðăng Dung đã "dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát,
An Lương, La Phù của châu Vĩnh An, trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc
vào Khâm Châu."(18) Dầu đã
cắt bốn hay năm động của thổ dân giao cho Trung Hoa, nhà Mạc vẫn giữ
ải Nam Quan thuộc về Ðại Việt
*
Năm 1788, theo lời cầu viện của mẫu thân của Lê Chiêu Thống
(trị vì 1786-1789), vua Trung Hoa là Thanh Cao Tông tức Càn Long
(Ch?ien-lung, trị vì 1736-1795) cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị
cầm đại quân sang Ðại Việt, đi bằng ba ngả: Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế
Hanh vào cửa Nam Quan, qua Lạng Sơn đi xuống,? Sầm Nghi Ðống đi qua đường Cao Bằng, và đề đốc Vân Nam Ô
Ðại Kinh vào đường Tuyên Quang.(19)
Ðoàn quân viễn chinh nhà Thanh bị vua Quang Trung (trị vì 1788-1802)
đánh tan tác, phải chạy về vào đầu năm kỷ dậu (1789).
*
Từ ngày 17-2-1979, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tung trên 200.000
quân tấn công Việt Nam ở sáu tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, và đã chiếm được các thị xã
Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn Bộ
binh Trung Hoa qua Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, qua Cao Bằng theo
thung lũng sông Bằng (Bằng Giang), và qua Lạng Sơn theo thung lũng sông
Kỳ Cùng, vào ải Nam Quan Sau khi
rút quân ngày 5-3-1979, quân Trung Hoa vẫn chiếm giữ vùng đất phía nam
ải Nam Quan, và trạm hải quan (quan thuế) của Việt Nam phải dời xuống
phía nam ải nầy, sâu trong lãnh thổ nước ta.
Như thế, cho đến cuối thế kỷ 20, ải
Nam Quan là cửa ải chính thức phân chia ranh giới giữa hai nước Việt
Nam và Trung Hoa Những cuộc xâm
lăng của các triều đình Trung Hoa đều bị đẩy
lui Ải Nam Quan trở thành biểu tượng độc
lập thiêng liêng của dân tộc Việt Nam
Quốc lộ 1 xuyên suốt từ bắc xuống nam nước ta, bắt đầu từ ải
Nam Quan xuống mũi Cà Mau Khi xây
dựng quốc lộ 1, cột mốc đầu tiên đặt ở Nam Quan, được đánh dấu là
cột mốc số 0 Những bài học lịch
sử hay địa lý Việt Nam đều mở đầu bằng câu: "Nước Việt Nam trải
dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau."
3.- HAI? HIỆP?
ƯỚC? VỀ? BIÊN?
GIỚI
Từ
tháng 5-1975, nước Việt Nam do đảng Cộng Sản (CS) cai trị Ðảng CS tổ chức và điều khiển nhà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN).(20) Từ khi đảng CSVN doc Hồ Chí Minh thành
lập ở Hương Cảng năm 1930, đảng
CSVN dựa vào hai thế lực hậu thuẫn chính: đảng CS Liên Xô và đảng CS
Trung Hoa (CSTH) Trung Hoa nằm sát
biên giới Việt Nam nên đảng CS nước nầy đã giúp đỡ hữu hiệu cho
đảng CSVN, nhưng lợi bao nhiêu thì cũng sẽ hại bấy nhiêu.
Sau khi chiếm được lục địa Trung Hoa,
Mao Trạch Ðông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
(CHNDTH) ngày 10-10-1949 Từ đó,
CHNDTH chẳng những gởi cán bộ, quân đội, vũ khí sang giúp CSVN, mà
còn cho quân đội CSVN chạy trốn sang biên giới Trung Hoa khi bị quân
đội Quốc Gia và quân đội Pháp truy đuổi trong cuộc chiến tranh
1946-1954.(21)
CSTH
dần dần đưa người đến định cư và tràn lấn qua biên giới Việt
Nam Việt Minh cộng sản? đồng lõa với hành động trên, để dễ
trà trộn, lẫn trốn khi lâm nguy
Từ đó, người Hoa hiện diện càng ngày càng đông dọc theo biên
giới Hoa Việt Theo tiết lộ của
ông Vũ Khoan, Bộ trưởng Bộ Thương
mại Hà Nội, trong bài viết "Mốc mới trong quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc", đăng trên tạp chí Cộng Sản, số Tết Canh Thìn (2000)
thì ngay từ lúc đó (1949), đã có "một số lần ... trao đổi y kiến,
đàm phán về vấn đề biên giới."(22)
Sau khi cưỡng chiếm được miền Nam năm
1975, cộng sản Hà Nội không còn theo chính sách ngoại giao đu dây
thăng bằng giữa Liên Xô và CHNDTH, mà ngã hẳn về phía Liên Xô Ngày 3-11-1978, Lê Duẩn (1907-1986, bí
thư thứ nhất đảng Lao Ðộng từ 1960 đến 1975, tổng bí thư đảng CS từ
1976-1986) sang Liên Xô và ký với Leonid Brezhnev (1906-1982, bí thư
thứ? nhất đảng CSLX 1964-1966, tổng
bí thư 1966-1982), Hiệp ước Hai mươi lăm năm Hỗ tương và Phòng thủ giữa hai nước.
Dựa vào hậu thuẫn cuả Liên Xô,
cộng sản Việt Nam xua quân xâm lăng Cambodia, chiếm thủ đô Phnom Penh
ngày 7-1-1979 Việc làm nầy của
CSVN nhắm hai mục đích: đối ngoại là bành trướng ảnh hưởng qua
Cambodia để mưu làm bá chủ Ðông Dương, và kiếm đường đánh xuống Thái
Lan; đối nội là tung các sư đoàn miền Nam qua
Cambodia Các sư đoàn nầy gồm những thanh niên
mới tuyển "nghĩa vụ quân sự" ở miền Nam sau
1975 Tung thanh niên miền Nam qua Cambodia để
làm tiêu hao tiềm lực miền Nam, khiến cho dân chúng miền Nam phải lo
chuyện chiến tranh, mà không chống đối chính sách thất nhân tâm của
Hà Nội.
Nhà cầm quyền Cambodia lúc đó do
đảng CSTH đỡ đầu Viện cớ Việt
Nam xâm lăng Cambodia, CHNDTH quyết định trả đũa và "dạy" cho Việt Nam
một bài học Bài học nầy không
phải thuần tuý vì vấn đề Cambodia
Bài học nầy còn liên hệ đến hiệp ước Việt Xô năm 1978, vì
khi bỏ CHNDTH chạy theo Liên Xô, tập đoàn lãnh đạo CS Hà Nội đã mặc
nhiên bỏ luôn những cam kết ngầm với CSTH khi nhận những viện trợ to
lớn của Trung Hoa để tiến hành hai cuộc chiến 1946-1954 và 1954-1975,
mà con số nầy lên đến 20 tỷ Mỹ kim. (xin xem
sau)
Ngày 17-2-1979, CHNDTH đưa trên 200.000
quân tấn công CHXHCNVN ở sáu tỉnh biên giới Có nơi quân CHNDTH tiến sâu vào nội địa Việt Nam 40 cây
số Sau khi phá nát vùng nầy,(23)
quân Trung Hoa rút về ngày 5-3-1979
Ðiều đáng nói là trong khi đánh nhau, quân CHNDTH đã phá huỷ
những cột mốc biên giới có từ thời Pháp thuộc, rồi dựng lại những
cột mốc biên giới mới Trong khi
dựng lại, quân cộng sản Trung Hoa đã dời nhiều cột mốc biên giới
sâu vào lãnh thổ Việt Nam Sau khi
chiến tranh chấm dứt, quân đội CSTH vẫn chiếm giữ một số địa điểm
hiểm trở chiến lược trong nội địa Việt
Nam Nói cách khác, quân đội CSTH đã nới rộng biên giới
Trung Hoa về phía nam, cũng có nghĩa là Việt Nam mất đi một số đất đai
đáng kể Vì vậy, tại tỉnh Lạng
Sơn, trụ sở mới của hải quan (quan thuế) biên giới của Việt Nam phải
dời về phía nam "Hữu Nghị Quan" (ải Nam Quan) khoảng hơn nửa cây số.
Tình hình thế giới xoay chuyển mạnh
vào cuối thập niên 80, đầu thập niên
90 Chế độ cộng sản tan rã ở các nước Ðông Âu vào năm
1989 và 1990 như Ba Lan, Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, Ðông
Ðức, Nam Tư ... Sau đó, chế độ cộng sản Liên Xô, hậu thuẫn vững
vàng của CHXHCNVN, cũng bị sụp đổ vào năm 1991.
Lúc đó, các nhà lãnh đạo đảng CSVN
liền thay đổi chính sách ngoại giao: một mặt cầu thân trở lại với
CHNDTH và mặt khác kiếm cách giao hảo với Hoa Kỳ, là nước mà trước
đây CSVN đã tố cáo là "tên đế quốc đầu sỏ" trên thế giới, để làm
đối trọng với CHNDTH Ðồng thời do
những khó khăn về kinh tế, CSVN đưa ra chủ trương mở cửa, trở lại nền kinh tế thị
trường, nhưng vẫn cương quyết theo
"định hướng xã hội chủ nghĩa".
Tổng bí thư đảng CSVN là Nguyễn Văn
Linh (giữ chức từ 1986-1991), cùng Phạm Văn Ðồng (1906-2000), Ðỗ Mười,
bí mật sang CHNDTH thương thuyết
vào tháng 9-1990 Sau đó Ðỗ Mười
giữ chức từ 1991-1998), mới lên thay Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư,
cùng Võ Văn Kiệt, thủ tướng CSVN, sang Bắc Kinh ngày 5-11-1991 chính
thức tái lập bang giao giữa hai nước
"Bài học" mà Ðặng Tiểu Bình đã "dạy" cho CSVN nay mới hiệu
ứng.
Ðang là "đồng chí" với nhau, hai bên
xích mích đánh nhau, lại trở lui cầu thân thì phải xuống nước, nhượng
bộ Ðảng CSVN và nhà cầm quyền
CSVN có gì trong tay để nhượng bộ, ngoài một vấn đề mà từ lâu nay
tất cả những nhà cầm quyền Trung Hoa, chứ không riêng gì CSTH, luôn
luôn nhắm đến, đó là việc lấn biên, giành đất, giành biển
Ở thế bí, lại thêm trước đây Hồ Chí
Minh (1890?-1969) đã từng đồng lõa để cho CSTH tràn lấn miền biên
giới, Phạm Văn Ðồng đã từng nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
lãnh hải Trung Hoa,? rồi cuộc chiến
1979 đã tiêu huỷ toàn bộ vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, nên ban lãnh đạo
mới của đảng CSVN đành phải thuận cắt đất theo sự áp đặt của CSTH
để sống còn và duy trì địa vị
Nhân cơ hội nầy, CHNDTH gây sức ép càng ngày càng lớn đối
với CHXHCNVN Kết quả của sức ép
nầy là hai hiệp ước về biên giới ra đời trong vòng một năm.
Ngày 30-12-1999, tại Hà Nội, bộ
trưởng Ngoại giao CHXHCNVN là Nguyễn Mạnh Cầm và bộ trưởng Ngoại giao
CHNDTH là Ðường Gia Truyền (Tang Jianxuan) cùng ký Hiệp ước về biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc Hiệp ước nầy được quốc hội Bắ Kinh thông qua ngày
29-4-2000 và quốc hội Hà Nội thông qua 9-6-2000 Ðặc biệt là khi thông qua hiệp ước
biên giới nầy, chỉ một số lãnh đạo cao cấp trong quốc hội Hà Nội
mới đọc được nội dung hiệp ước, còn đại đa số dân biểu không biết
gì cả, chỉ thông qua theo lệnh của đảng CSVN.(24)
Việc chọn lựa Hà Nội làm địa điểm
ký kết hiệp ước còn nói lên một sắp đặt ngấm ngầm về ngoại giao,
để cho bên ngoài thấy rằng CSVN tình nguyện mời CSTH đến tận nhà (Hà
Nội) để ký kết hiệp ước, chứ CSTH không thúc ép CSVN phải qua Bắc
Kinh để làm việc nầy.
Ngày 25-12-2000, tại Bắc Kinh, đại
diện hai nước Việt Nam và Trung Hoa (chưa tiết lộ danh tánh) đã ký Hiệp
ước phân định lãnh hải, phân chia quyền lợi trên vịnh Bắc Việt,
dưới sự chứng kiến của chủ tịch CHXHCNVN là Trần Ðức Lương và chủ tịch CHNDTH là Giang Trạch
Dân.(25) Hiệp ước nầy chưa được
đưa ra quốc hội hai nước để thông qua.
Ngày
27-12-2001, thứ trưởng Ngoại giao Hà Nội là Lê Công Phụng cùng với
đại sứ CHNDTH tại Hà Nội, đến thị trấn Mông Cái (cửa ngõ Mông Cái
- Ðông Hưng) thuộc tỉnh Quảng Ninh làm lễ xây CỘT MỐC đánh dấu biên
giới mới trên đất liền mà hai bên đã ký kết ngày
30-12-1999 Cùng lúc đó, thứ trưởng ngoại giao
CHNDTH là Wang Yi tham dự một buổi lễ tương tự tại thị trấn Ðông Hưng thuộc Trung
Hoa.(26) Hai nhà cầm quyền dự tính sẽ đóng
khoảng 1500 cột mốc dọc biên giới mới giữa hai bên.(26)
Ðiểm đặc biệt nữa là các nhà lãnh
đạo đảng CSVN đã giấu kỹ không cho dân chúng biết nội dung các hiệp
ước trên đây trước khi ký, trong khi ký, và sau khi ký, cũng không
cho biết ai đã đứng ra ký kết hiệp ước
Phía CHNDTH tiết lộ là ông Nguyễn Mạnh Cầm đã ký kết Hiệp
ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, chứ phía
Việt Nam không nói gì hết Cho đến
nay, ngoài những kẻ lãnh đạo đảng CSVN, chưa có người Việt Nam nào
đọc được văn bản cụ thể về hai hiệp ước đó.(27)
?Sự giấu diếm nầy chứng tỏ có điều gì man trá đàng sau
cuộc thương thuyết để phân chia
lãnh thổ và lãnh hải Chắc chắn
sự man trá nầy liên hệ đến quyền lợi riêng tư của một thiểu số lãnh
đạo đảng CSVN, mới không công bố cho toàn dân biết.
4.-
ẢI NAM QUAN
ÐÃ MẤT
Tuy nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội
không cho dân chúng biết nguyên văn hai hiệp ước, nhưng công việc
sửa soạn các chi tiết để thi hành hiệp ước, như đóng cột mốc, thông
báo cho các đơn vị chuyên môn và hành chánh địa phương vẽ lại bản đồ, đã để lộ ra ngoài
một số tin tức quan trọng:
* Trước Ðại hội 9 đảng CSVN
(từ 19 đến
22-4-2001), ông Ðỗ Việt Sơn, một đảng viên CS lão thành (54 tuổi
đảng, 78 tuổi đời), ở số 26/14-125 đường Tô Hiệu, Hải Phòng, đã gởi
thư vào tháng 2-2001 công khai đặt vấn đề Việt Nam nhượng bộ quá
nhiều cho Trung Quốc trong hai hiệp ước trên, và yêu cầu Quốc hội và
Ðại hội đảng CSVN công khai thảo luận vấn đề nầy Thư nầy được phổ biến hạn chế, về sau
được nhắc lại trong kháng thư ngày 18-11-2001 của 20 cử tri gởi các
chức quyền Việt Nam.
*?
Ngày 18-11-2001, 20 cử tri cùng ký một kháng thư gởi cho các
chức quyền trong nước phản đối việc ký kết các hiệp ước trên Kháng thư mang cữ ký của những đảng
viên kỳ cựu như Trần Ðộ, Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Nguyễn
Thanh Giang, Hoàng Tiến, Trần Dũng Tiến,?
Trần Quang Lê, Nguyễn Ngọc Diệp, Bùi Long...Ða số đều trên 50
năm thâm niên trong đảng CSVN
Kháng thư cho biết Hiệp ước về biên giới trên đất liền
Việt Nam? - Trung Quốc, phía Việt
Nam đã nhượng cho Trung Quốc 720 km2 ở hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, và Hiệp
ước phân định lãnh hải Vịnh Bắc Việt như
sau: 53,23% cho Việt Nam,
và 46,77% cho Trung Quốc.(28)
*
Trong một bản điều trần trước Viện Pháp Á
(Institut Franco-Asiatique), bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Hoa sự vụ Viện
Pháp - Á ở Paris, cho biết rằng sau khi hai bên ký kết hiệp ước trên
đất liền ngày 30-121999, thì vào ngày 9-1-2000, ông được hai người bạn
là hai ký giả Trung Hoa thông báo cho ông biết rằng theo tinh thần
hiệp ước mới ký kết, Việt Nam nhượng cho Trung Quốc 789 km2, thuộc hai
tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (chứ không phải 720 km2). (29)
Nếu tính theo diện tích của toàn thể
Việt Nam là 330.000 km2 (số tròn), thì diện tích đất mà CSVN đã nhượng
cho CSTH (789 km2) lên đến khoảng trên 0.2% (trên 2 phần ngàn) Nếu tính theo diện tích của toàn tỉnh
Lạng Sơn là 8.178 km2, thì số đất nhượng gần 1/10 diện tích tỉnh Lạng
Sơn Ðường biên giới giữa Việt Nam
và Trung Hoa dài khoảng 1.300 cây số, trong đó đường biên giới giữa
Lạng Sơn và Trung Hoa dài 253 cây số
Nếu tính dọc theo toàn bộ đường biên giới tỉnh nầy, thì CSVN
nhượng cho Trung Hoa trung bình 3 cây số sâu vào nội địa Việt Nam. (253
km? X?
3 km = 759 km2)
Dần dần, những tin tức được tiết lộ
trên đây đã được kiểm chứng cụ thể:
*
Trong một chuyến công tác cho Viện Pháp Á vào tháng 8-2001,
bác sĩ Trần Ðại Sỹ đã về Việt
Nam
Ông lên vùng biên giới và xin đi thăm ải Nam
Quan, nhưng bị nhà
cầm quyền Việt Nam cấm đi Ông
phải qua Trung Hoa, rồi mới đến ải Nam Quan Ông tận mắt thấy ải Nam Quan nằm sâu trong đất liền của
Trung Hoa 5 km Ông Trần Ðại Sỹ đã
sáng tác một bài thơ bằng chữ Nho, đề ngày 6-9-2001, khắc trên bia
đá và đặt tại sườn núi ải Nam
Quan, mở đầu bằng những câu như sau:
"Thử địa cựu Nam Quan,/ Biên địa ngã cố hương? ./ Kim thuộc Trung Quốc thổ,/ Khấp, khốc, ký đoạn
trường..." (Ông Trần Ðại Sỹ tự dịch thành thơ như
sau: "Ðất nầy
xưa gọi Nam Quan,/ Vốn là biên địa cố hương của mình./ Hiện nay là đất Trung nguyên,/ Khóc chảy máu
mắt, đoạn trường ai hay.)(29)
Dù
nhà cầm quyền CSVN chưa tiết lộ nội dung hiệp ước về biên giới,
việc bác sĩ Trần Ðại Sỹ đến thăm tận nơi ải Nam
Quan, chứng kiến
tận mắt cửa ải nầy nay nằm sâu trong lãnh thổ Trung Hoa 5 cây số,
là bằng chứng cụ thể hiển nhiên và rõ ràng rằng vùng đất Nam Quan
đã thật sự ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam
Ngoài ra, nếu ải Nam Quan nằm sâu trong đất liền CHNDTH 5 cây
số, có nghĩa là hầu như vùng đất phía bắc sông Kỳ Cùng và Bằng
Giang đã thuộc CHNDTH.
Thời đại ngày nay là thời đại
nguyên tử, vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại Tuy nhiên, trong những cuộc đụng độ địa
phương, và nhất là trong trận địa chiến, địa hình chiến sự vẫn giữ một
vai trò quan trọng trong cách bố trí chiến đấu Như trên đã nói, qua cách mô tả trong Ðại Nam nhất
thống chí, địa thế ải Nam Quan rất hiểm trở, chỉ có một đường đèo
nhỏ hẹp, nằm giữa hai bên là hai dãy núi Ải Nam Quan và vùng đất hiểm trở phía bắc sông Kỳ Cùng
là vị trí và địa thế quân sự chiến lược như là một tiền đồn vững
vàng ở địa đầu đất nước để chống lại những cuộc hành quân trên
bộ?ừ phía bắc xuống, hay ít ra cũng làm chậm lại bước tiến của
địch thủ
Trong cuộc chiến năm 1979, quân CHNDTH
tấn công 6 tỉnh biên giới, nhưng chỉ tràn ngập đông đảo chiếm 3 thị
xã Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn vì ba vùng nầy có thung lũng chạy dọc
theo các dòng sông nên dễ chuyển quân
Trong ba thị xã trên đây, Lạng Sơn gần Hà Nội nhất và dễ
xuống Hà Nội theo đường sông Thương
Ðường bộ từ tỉnh ly. Lạng Sơn về tới Hà Nội dài dưới 160
km Với phương tiện giao thông ngày nay, vượt qua
đoạn đường nầy chỉ cần vài giờ đồng hồ Nếu chuyển quân với trang bị đầy đủ cũng chẳng tốn
nhiều thời gian Do đó, vị trí
chiến lược ải Nam Quan vô cùng quan trọng cho sự phòng thủ Hà
Nội Nay nhà cầm quyền Trung Hoa
chiếm được cửa ải Nam Quan, nghĩa là chiếm được đoạn đèo thông
thương bắc nam tại vùng nầy Như thế, họ đã loại bỏ được chướng
ngại đầu tiên khi xâm nhập nước ta, mà tổ tiên họ đã phải tốn bao
nhiêu xương máu để vượt qua, nhưng
không có cách gì giữ được, và cuối cùng đều bị đẩy lui về phía bên
kia cửa ải.
* Theo hiệp ước Pháp Hoa ngày
26-6-1887, đường ranh giới hải phận (Zone Économique Exclusive) giữa
Việt Nam và Trung Hoa tại vịnh Bắc Việt được phân định theo kinh tuyến
Greenwich 108 độ 03 phút 18 giây, tính ra Việt Nam được 62% và Trung Hoa
38% vịnh Bắc Việt.(30)
CHNDTH
không chấp nhận đường phân chia nầy, vì cho rằng hiệp ước 1887 bất
công, và đòi phân chia lại vịnh Bắc Việt CHXHCNVN vì yếu thế đành nhượng bộ Xin hãy nghe người trong cuộc, ông Lê
Công Phụng, trưởng đoàn thương
thuyết CSVN, kể lại: "Trong quá trình đàm phán, hai bên đã
vận dụng các nguyên tắc như sau để giải quyết: một là căn cứ vào
quy định của công ước Luật biển 1982 của Liên Hiệp Quốc [31] cũng
như các nguyên tắc luật pháp quốc tế và tập quán được công nhận
rộng rãi; hai là hai bên tính đến cac đặc thù của vịnh Bắc Bộ như sự
hiện diện của các đảo, chiều dài bờ biển
v.v...; ba là, việc giải
quyết vấn đề phân định phải xuất phát từ thực trạng cũng như nhu
cầu phát triển quan hệ giữa hai nước; bốn là bảo đảm nguyên tắc
công bằng và chiếu cố lợi ích của
nhau
Về diện tích, phía Trung Quốc kiên trì chủ trương đại thể chia đôi,[32] thừa nhận
ta có thể nhỉnh hơn nhưng không đáng kể
Ta chủ trương giải pháp
công bằng phải phù hợp với các hoàn cảnh hữu quan trong vịnh như sự
hiện diện của các đảo của ta,[33] chiều dài bờ biển của ta
lớn hơn v.v...." (Bài trên tạp chí Cộng Sản đã dẫn.)
Cuối
cùng rồi CSVN phải thuận theo những áp đặt của
CSTH Kết quả là phân chia hải phận mới không
còn là đường thẳng cũ, mà là một đường gãy khúc nối liền bởi
những đường thẳng ngắn dọc theo các hải đảo So với đường kinh tuyến 108 độ 03 phút 18 giây, thì đường
phân chia mới nầy, phía bắc đảo Bạch Long Vỹ lấn một ít về phía Trung
Hoa, nhưng từ đảo nầy trở xuống thì lấn khá nhiều qua phía Việt Nam.
Vịnh Bắc Việt rộng 126.250
km2 So với cách phân chia lãnh hải ngày
26-6-1887 thời Pháp thuộc (Việt Nam được 62%), cách phân chia lãnh hải
ngày 25-12-2000 (Việt Nam được 53,23%) đã làm cho Việt Nam mất trên 8%
diện tích vịnh Bắc Việt, tương
đương với khoảng trên 10.000
km2. Theo đường phân chia mới trên vịnh Bắc Việt, đảo Bạch Long Vỹ chỉ
còn cách hải phận CSTH 15 hải lý
Ðảo nầy rộng khoảng 3 km2, tuy nhỏ nhưng Bạch Long Vỹ rất quan
trọng về kinh tế cũng như về quốc phòng.
Về kinh tế, vùng biển khu vực Bạch
Long Vỹ có nhiều hải sản, nhất là bào ngư, có giá trị dinh dưỡng cao
mà người Việt rất thích dùng
Hiện nay, người ta được biết đáy biển vùng nầy có nhiều tiềm
năng về chất đốt mà chưa được khai thác.
Về
quốc phòng, Bạch Long Vỹ giữ vị trí chiến lược tiền tiêu để bảo vệ
Bắc Việt Thời Pháp thuộc, Pháp
đã đặt một đơn vị hải quân ở đây kiểm soát tàu bè đi lại trên vịnh
Bắc Việt Theo tuyên truyền của
CSBV, trong thời gian chiến tranh trước năm 1975, "quân và dân , đánh đuổi 3 tàu chiến xâm phạm chủ quyền
của ta."(34)
Trong bài viết của mình, ông Lê Công Phụng cũng
nêu rõ điểm nầy: "Phần vịnh phía ta có khoảng 1300 hòn đảo ven bờ,
đặc biệt có đảo Bạch Long Vỹ nằm cách đất liền nước ta khoảng 110
km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130
km Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và
Trung Quốc về an ninh và quốc phòng..." (bài đã dẫn).
Ðảo Bạch Long Vỹ vừa nhỏ, vừa chơ vơ
nằm ngoài biển cả, cách nước ta khoảng 110 cây số và cách hải phận
Trung Hoa theo hiệp ước mới chỉ có khoảng 15 hải lý, nghĩa là nằm
trong mối đe dọa thường trực của hải quân
CSTH Vị trí chiến lược nầy sẽ rơi vào tay
CSTH dễ dàng nếu xảy ra tranh chấp giữa hai bên.
Một phần vì tin tức đã bị tiết lộ ra ngoài, một
phần vì liên hệ đến tàu thuyền quốc tế qua lại trên biển, nên do
sự thúc bách của CHNDTH muốn công khai hóa sự thừa nhận chủ quyền
lãnh hải của Trung Hoa, ông Lê Công Phụng, thứ trưởng Ngoại giao
CSVN, đã viết bài "Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và hiệp định hợp
tác nghề cá giữa Việt Nam - Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ", tiết lộ
cho biết một số điểm trong hiệp ước nầy trên tạp chí Cộng Sản,
số 2 tháng 1-2001 Ông nầy trình bày lại tiến trình đàm
phán và không cho biết gì nhiều hơn những điều báo chí đã viết
ra,
và mỉa mai nhất là ông ta cho rằng CHXHCNVN đã?hắng lợi vì "Ta hơn
Trung Quốc 6,46% tức khoảng 8205 km2."
5.-
TRÁCH NHIỆM TRƯỚC LỊCH SỬ
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao
nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội đã nhượng đất cho CHNDTH một cách dễ
dàng như vậy?
Theo lý luận của các đại diện CHNDTH
trong cuộc thương thuyết về lãnh
hải, khi Pháp ký hiệp ước với triều đình Mãn Thanh, Pháp đang ở thế
mạnh, còn Trung Hoa đang yếu thế và bị các cường quốc Âu Châu xâu
xé, nên phải chấp nhận bản đồ lãnh thổ cũng như lãnh hải do Pháp
đưa ra Thật ra, trước kia, các
triều đại Trung Hoa cho rằng vịnh Bắc Việt, mà họ gọi là "Giao Chỉ
Dương? " (Chiao-Chih Ocean), là của
Việt Nam, họ không lý tới Thậm
chí, các triều đình Trung Hoa cũng chẳng mấy quan tâm đến đảo Hải
Nam Cho đến thời nhà Thanh, ngoài
các hòn đảo nhỏ và ngành đánh cá, người ta chưa biết gì về tiềm
năng dưới lòng biển, nên không thấy sự quan trọng của vịnh Bắc
Việt Do đó, khi Pháp cắt một
phần đất thuộc tỉnh Lai Châu đền bù một cách bất hợp pháp cho Trung
Hoa, nhà Thanh liền ký kết hiệp ước năm 1887 với Pháp Nhà Thanh đã nhập phần đất nầy vào
tỉnh Vân Nam.(35) Nếu CHNDTH đặt
lại vấn đề lãnh hải vịnh Bắc Việt, tại sao CHXHCNVN không đặt lại
vấn đề lãnh thổ Lai Châu mà Pháp đã cắt đi một cách bất hợp pháp
cho nhà Thanh?
Trên đất liền, không nghe một giải
thích nào cụ thể từ nhà cầm quyền hai nước tại sao phải phân chia
lại biên giới Dư luận báo chí ở
Trung Hoa cho rằng CHXHCNVN nhượng vùng đất phía bắc sông Kỳ Cùng và
Bằng Giang cho CHXHCNVN để đổi lấy viện trợ xây dựng những dự án kỹ
nghệ trong lãnh vực thuỷ điện, hơi đốt, khai thác quặng mỏ, đồng
thời gia tăng việc giao dịch buôn bán giữa hai nước.
Câu hỏi đặt ra là những viện trợ
kể trên có thật tối cần thiết, thúc bách đến độ phải đem di sản
thiêng liêng do tiền nhân để lại, ra trao đổi với các viện trợ đó
và nhượng bán cho bắc phương
không Hơn nữa, nếu những
viện trợ kể trên thật sự ích lợi cho toàn dân, tại sao đảng CSVN
không công khai vấn đề và tham khảo ý kiến của toàn dân qua một
cuộc trưng cầu dân ý Ðất đai do
tổ tiên để lại là tài sản chung của toàn dân, chứ không phải của
riêng đảng CS, do đó chỉ có toàn dân Việt Nam mới có quyền quyết
định về những vấn đề liên quan đến lãnh thổ và lãnh hải bằng cuộc
trưng cầu dân ý rộng rãi, tự do và dân chủ.
Mới đây, trong
khi trả lời Ðài phát thanh Little Sài Gòn Radio ở Orange County, California
trong ngày thứ Năm 24-2-2002, ông Nguyễn Thanh Giang, một nhà hoạt động chính
trị trong nước, cho rằng các lãnh tụ đảng CSVN đã bị CHNDTH lừa khi ký hiệp
định về biên giới Việt Hoa Ông Giang nói: "Trung Cộng xảo quyệt giả vờ
đưa ô dù cho Lê Khả Phiêu Vì lợi riêng, ông nầy đã hiến đất cho Trung Cộng để
được bảo trợ."(36)
Vấn đề không đơn
giản ở chỗ chỉ một mình ông Lê Khả Phiêu (tổng bí thư? 1998-2001) bị đánh lừa và
hiến đất Việc thương thuyết để ký kết hai hiệp ước trên không phải chỉ diễn ra
giữa hai người, hoặc chỉ diễn ra trong một vài giờ, hay một vài ngày, mà nói
rằng CHNDTH đã lừa được ông Phiêu Ðây là kết quả của một quá trình lâu dài bắt
đầu từ thời Hồ Chí Minh cho đến ngày nay Chính một nhân vật cộng sản quan
trọng, ông Vũ Khoan đã từng viết trên Tạp chí Cộng Sản, số Tết Canh Thìn
(2000) rằng ngay từ năm 1949, đã từng có "một số lần ... trao đổi y
kiến, đàm phán về vấn đề biên giới." (đã dẫn ở trên).
Trước hết, như
trên đã nói, ngay từ thời chiến tranh 1946-1954, Hồ Chí Minh và lãnh đạo đảng
Lao Ðộng Việt Nam đã làm ngơ cho quân CHNDTH tràn sang biên giới Sau đó, trong
cuộc chiến xâm lăng miền Nam (1954-1975), để được CHNDTH viện trợ quân sự, nên
khi Chu Ân Lai (Chou En-lai, 1898-1976) công bố ranh giới biển 12 hải lý từ bờ
biển ngày 4-9-1958, thì mười ngày sau, Phạm Văn Ðồng, thủ tướng Bắc Việt cộng
sản, đương nhiên với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Ðộng,
tiền thân của đảng CSVN, đã ký quốc thư ngày 14-9 nhìn nhận ranh giới biển nói
trên của CHNDTH, nghĩa là gián tiếp công nhận chủ quyền của CHNDTH trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Như thế Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng và đảng CSVN
đã chính thức dâng đất cho CHNDTH mà tổ tiên đã dày công xây dựng và bảo vệ
Khi cần dồn quân
xuống đánh miền Nam, Bắc Việt cộng sản đã mời quân đội CHNDTH vào bảo vệ an
ninh từ khu Việt Bắc xuống tới Hà Nội, và giao cho CHNDTH in bản đồ địa lý Việt
Nam loại chi tiết với tỷ lệ 1/ 1000.(37) Ðưa 300.000 quân đóng từ Việt Bắc,
nghĩa là từ biên giới Việt Hoa, xuống tới Hà Nội, CHNDTH đã hoàn toàn kiểm soát
vùng nầy, và chắc chắn họ đã thực hiện những động tác cần thiết để chuẩn bị lấn
biên, giành đất, ví dụ họ đưa thêm dân đến sinh sống dọc theo biên giới,(38) hoặc
có thể sưả đổi vài chi tiết trên bản đồ biên giới ...
Trong cuộc chiến
Việt Hoa (1979), quân đội CHNDTH lại tiến thêm một bước nữa, di dời các cột mốc
vùng biên giới tiến sâu vào đất Việt Nam ở nhiều nơi
Khi cầu thân trở
lại với CHNDTH sau cuộc chiến, CSVN và nhà cầm quyền CHXHCNVN đang ở trong thế
yếu kém, phải xin liên minh với CHNDTH để tồn tại cũng như duy trì và bảo vệ
quyền lực, là cơ hội tốt cho nhà cầm quyền Bắc Kinh áp đặt việc biên giới trên
bộ và trên biển, bằng một hiệp ước công khai chính thức, và hiệp ước đó ra đời
cuối năm 1999 và cuối năm 2000.
Trong bài báo đã
dẫn trên của ông Lê Công Phụng, đăng trên tạp chí Cộng Sản số tháng
1-2001 và đã được chính cộng sản đưa lên mạng lưới thông tin quốc tế, thì:
" Vào các năm 1957, 1961 và 1963 hai nước có ký các thỏa cho phép
thuyền buồm của hai bên được đánh bắt trong vịnh... Trong các năm 1974 và
1977-1978, hai nước tiến hành 2 vòng đàm phán về phân định... Hai nước đã ký
"Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới - lãnh thổ
giữa Việt Nam và Trung Quốc" ngày 19-10-1993... Thực hiện thỏa thuận đó,
từ 1993 đến năm 2000, hai bên đã triển khai 7 vòng đàm phán cấp chính phủ, 3
cuộc gặp giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp chính phủ và 18 vòng đàm phán cấp
chuyên viên... Trong các chuyến thăm Trung Quốc vào năm 1997 của đồng
chí tổng bí thư Ðỗ Mười và tháng 2-1999 của đồng chí tổng bí thư Lê Khả Phiêu,
lãnh đạo cao cấp hai nước đạt được thỏa thuận là khẩn trương đàm phán để giải
quyết vấn đề biên giới trên đất liền trước năm 2000 và hoàn thành việc phân
định để ký hiệp định vịnh Bắc Bộ trong năm 2000..."?
Như thế, theo
những gì các nhà lãnh đạo đảng CSVN cho phép ông Lê Công Phụng tiết lộ, thì vấn
đề thương thuyết biên giới tái tục từ năm 1993 Chúng ta đừng quên câu viết
ngoại giao rất mơ hồ? của ông Lê Công Phụng: "... việc giải quyết vấn
đề phân định phải xuất phát từ thực trạng cũng như nhu cầu phát triển quan hệ
giữa hai nước..." Thực trạng cũng như quan hệ giữa hai nước CHNDTH và
CHXHCNVN hiện nay như thế nào Những người cộng sản thường hay dùng nhóm chữ
"các nước xã hội chủ nghĩa anh em ", nhưng thực chất quan hệ giữa
CHNDTH và CHXHCNVN hiện nay là quan hệ giữa kẻ mạnh và kẻ yếu, nếu không muốn
nói là quan hệ?hực dân và thuộc địa kiểu mới, hay quan hệ giữa chủ nợ và con
nợ, trong đó con nợ đã từng muốn vỗ nợ (xù nợ) khi theo Liên Xô năm 1978, nên
phải nhận lãnh bài học của ông Ðặng Tiểu Bình (Deng Xiao-ping, 1904-1997), nhân
vật quyền thế nhất CSTH sau khi Mao Trạch Ðông (Mao Zedong, 1893-1976) qua đời.
Có lẽ cần nhắc
lại trong thời gian bang giao giữa hai bên căng thẳng, ngày 30-7-1979, một viên
chức ngoại giao CHNDTH tiết lộ cho biết từ 1954 đến 1971, 300.000 binh sĩ
CHNDTH đã chiến đấu bên cạnh binh sĩ Bắc Việt, trong đó hàng ngàn người đã tử
trận và hàng chục ngàn người đã bị thương Ông ta còn xác định số lượng vũ khí
CHNDTH viện trợ cho cộng sản Việt Nam từ 1950 đến 1977 lên đến 2.000.000 súng
hạng nhẹ, 27.000 đại pháo, 270 triệu băng đạn, 18 triệu đạn đại pháo, 179 máy
bay và 145 chiến hạm.(39) Người Trung Hoa tính rằng số viện trợ nầy tương đương
với khoảng 20 tỷ Mỹ kim theo thời giá lúc đó.
Như thế, việc
nhượng đất và nhượng biển là một tiến trình liên tục từ Hồ Chí Minh qua Lê
Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, đến Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh (tổng bí thư từ
2001), vì quyền lợi và tham vọng riêng tư của đảng CSVN, hay của những cá nhân
lãnh đạo đảng, có tính toán kỹ lưỡng lâu dài, chứ không phải dễ dàng bị đánh
lừa như ông Nguyễn Thanh Giang đã viết
Ðây chính là kết
quả của chính sách do Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN theo đuổi, đi
theo con đường cộng sản quốc tế, làm tay sai cho ngoại bang, liên tục gây ra
chiến tranh ý thức hệ,(40) khiến cho nhân dân lầm than, đói khổ, bây giờ lại
mất đất vào tay "người đồng chí cộng sản" phương bắc Ðiều nầy cho
thấy chủ nghĩa quốc tế cộng sản chỉ là cái áo khoác bề ngoài của chủ nghĩa dân
tộc bá quyền mà thôi.
Ðứng về phía
Trung Hoa, chiếm được ngọn đèo chiến lược có ải Nam Quan, cửa ngõ đi xuống phía
nam, là kết quả một cuộc đầu tư lâu dài và bền bĩ của "tình đồng chí chiến
đấu" giữa hai đảng CS anh em Những cuộc tấn công vũ bảo của vau chúa Trung
Hoa ngày trước cũng như của Ðặng Tiểu Bình năm 1979 không mấy thành công bằng
kế hoạch tàm thực (41) rất tinh vi, ẩn náu trong lớp vỏ bọc chủ nghĩa quốc tế
cộng sản Kế hoạch tàm thực rất nguy hiểm, vì sau ải Nam Quan, CHNDTH sẽ từ từ
lấn xuống đến một lúc nào đó sẽ nuốt trọn tỉnh Lạng Sơn rồi xuống châu thổ Hồng
Hà.
Lãnh thổ và lãnh
hải Việt Nam là di sản do tổ tiên để lại cho toàn thể dân chúng Việt Nam, và là
tài sản của toàn dân Việt Nam, có tính cách thiêng liêng, bất khả phân, bất khả
nhượng Ca dao chúng ta có câu: "Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang,/Bao nhiêu tấc
đất tấc vàng bấy nhiêu."? Trong nông nghiệp, mỗi tấc đất là mỗi tấc
vàng, nhưng trong lịch sử dân tộc, mỗi tấc đất không phải là mỗi tấc vàng Mỗi
tấc đất là mỗi di sản, là mỗi kỷ vật, mang hình ảnh bi hùng của bao nhiêu công
khó, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, bao nhiêu xương máu, tim óc của tiền nhân qua
hàng ngàn năm, để chúng ta có được tấc đất nầy ngày hôm nay.
6.- KẾT LUẬN
Tóm lại, câu
chuyện ải Nam Quan lọt vào tay CHNDTH và sự ký kết Hiệp ước về biên giới
trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc (30-12-1999) và Hiệp ước phân định
lãnh hải (25-12-2000) cho thấy:
1) Vì tham vọng
quyền lực cá nhân, Hồ Chí Minh và một số thuộc hạ du nhập chủ nghĩa cộng sản
vào Việt Nam, hoạt động cho quyền lợi của Ðệ tam Quốc tế Cộng sản, chẳng những
gây chiến tranh, đói khổ cho đồng bào, mà còn làm tiêu hao tài sản tổ tiên,
nhượng đất cho ngoại bang để đổi lấy súng ống, vũ khí nhắm bành trướng chủ nghĩa,
và bám lấy địa vị lãnh đạo độc tôn cá nhân.
2) Ðảng CSVN cai
trị đất nước một cách độc tài, xem thường pháp luật, thiếu tự do dân chủ Ðiều 4
hiến pháp Hà Nội năm 1992 cho phép đảng CSVN đứng trên pháp luật, nên quyền hạn
của thiểu số lãnh đạo cộng sản quá lớn Thiểu số nầy làm việc gì cũng nhân danh
đảng, lợi dụng chức vụ để hành động tùy tiện, không bị hiến pháp hay luật pháp
chế tài Vì vậy, khi cần thực hiện một mưu đồ riêng tư, họ tự ý hành động mà
không cần tham khảo ý kiến của bất cứ ai Họ đặt quyền lợi và tham vọng cá nhân
lên trên quyền lợi của đất nước, mà trường hợp hai bản hiệp ước trên đây là ví
dụ điển hình nhất.
3) Từ trước đến
nay, đảng CSVN luôn luôn tuyên truyền giành lấy chính nghĩa, luôn luôn tự hào
rằng họ là lực lượng dân tộc tiến bộ yêu nước, và kết tội tất cả những thành
phần đối lập từ năm 1945 cho đến nay là Việt gian, phản quốc, tay sai ngoại
bang, ngụy quyền, ngụy quân .. Nay nhà cầm quyền cộng sản CHXHCNVN nhượng đất
và nhượng biển qua hai hiệp ước trên, là bằng chứng cụ thể không thể biện minh
và không thể chối cãi được tội lỗi phản quốc bán nước của đảng CSVN và nhà cầm
quyền CHXHCNVN Ðây là tội lỗi lớn nhất trong lịch sử Việt Nam của tập đoàn lãnh
đạo đảng CSVN, lớn hơn tất cả tội lỗi của những tên tuổi đã bị lịch sử lên án phản
quốc như Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống .. Những nhà lãnh đạo đảng
CSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và trước lịch sử hành vi nhượng đất,
nhượng biển cho ngoại bang, đã bị cấm ngặt theo điều 74 của bộ Quốc triều
hình luật đã được ban hành từ thời vua Lê Thánh Tông (trị vì
1460-1497).(42)
4) Từ lâu, đảng
CSVN đã bị rạn nứt, nhiều đảng viên kỳ cựu đã bỏ đảng Chắc chắn, sự kiện ải Nam
Quan lọt vào tay Trung Hoa sẽ làm rất nhiều đảng viên nữa thức tỉnh để quay trở
về với đại bộ phận dân tộc Chắc chắn không ai muốn phục vụ cho một đảng chính
trị bán nước, chỉ trừ một thiểu số vì muốn được hưởng một chút quyền lợi, địa
vị nhất thời mà quên đi lương tri dân tộc, mới chạy theo đảng CSVN.
5) Một trong
những điều kiện giúp các đảng CS trên thế giới nói chung, và đảng CSVN nói
riêng có thể lộng hành, là họ luôn luôn bí mật hành động, giấu diếm hành tung,
lại dùng bộ máy thông tin tuyên truyền che đậy và ngụy trang một cách kín đáo,
rồi tự ý giải thích, tuỳ thích tung hỏa mù, gây nhiễu xạ, làm cho không ai biết
được sự thật ở đâu.
Cộng sản đã tận
dụng một bí quyết tâm lý mà triết gia Sigmund Freud (1856-1939) đã từng đề cập
đến: nói láo được lập đi lập lại nhiều lần, lúc đầu có thể bị nghi ngờ, sau
người ta tưởng là "thật", và cuối cùng người ta tin rằng đó là
"sự thật", vì có quá nhiều người nói, quá nhiều lần nói Chẳng những
thế, chính người nói láo cũng nhập tâm và tin đó là sự thật.
Ngày nay khoa
học kỹ thuật tiến bộ vượt bậc, nhất là ngành truyền thông viễn liên, nên các
đảng CS nói chung và đảng CSVN nói riêng không còn có thể che giấu những hành
động đen tối gian trá được nữa Mọi sự thật được phơi bày nhanh chóng trước công
luận Dân chúng không còn dễ bị lừa phỉnh như trước Ví dụ việc CSVN nhượng đất
ải Nam Quan với những tin tức, hình ảnh cụ thể loan truyền nhanh chóng và đầy
đủ trên mạng lưới thông tin quốc tế, không còn có thể che giấu hay chối cãi.
Chính sự phát
triển của ngành truyền thông giúp thế giới bên ngoài và cả dân chúng trong các
nước cộng sản biết rõ tình hình và diễn tiến chính trị tại các nước Ðông Âu,
theo dõi, cổ võ và hỗ trợ các cuộc biểu tình địa phương, đưa đến sự sụp đổ của
các chế độ cộng sản tại đây vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90
Chắc chắn rồi
đây điều đó sẽ tái diễn trên các nước CS còn lại, trong đó có Việt Nam Chỉ có
sự giải thể chế độ cộng sản hiện nay ở Việt Nam, thay thế bằng một chính quyền
dân chủ, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, mới có thể tạo sức mạnh dân tộc tổng
lực, để堦#273;ặt lại và đòi lại vùng đất Nam Quan và hàng ngàn cây số trên mặt
biển Bắc Việt trở về với tổ quốc.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 1-2-2002)
CHÚ THÍCH:
Gia Tĩnh: niên
hiệu duy nhất của vua Minh Thế Tông (trị vì 1522-1566).
Ung Chính
(Yung-chen):? niên hiệu duy nhất của vua Thanh Thế Tông (trị vì 1723-1735).
Theo Từ điển
Việt Pháp của J.F.M. Genibrel, Nhà in Tân Ðịnh, Sài Gòn, 1898, Nxb. Khai
Trí, Sài Gòn, chụp in lại năm 1973, thì? 1 trượng = 10 xích; 1 xích = 0,487 m.;
vậy 1 trượng = 4,87 m. Theo những dịch giả bộ Cương mục thì: 1 trượng =
10 thước,? 1 thước Tàu = 0,3333 thước tây, vậy 1 trượng = 3,33 m. (Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, viết tắt là Cương mục, bản
dịch Nxb. Văn Sử Ðịa, Hà Nội 1957,, sđd. tr. 160.)
Càn Long
(Ch?ien-lung):? niên hiệu duy nhất của vua Thanh Cao Tông (trị vì 1736-1795).
Ðại Nam nhất
thống chí, viết tắt ÐNNTC,
Phạm Trọng Ðiềm dịch, Ðào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 1997, tập 4, tt.
384-385.
?Cảnh Hưng: niên
hiệu duy nhất của vua Lê Hiển Tông (trị vì 1740-1786)
ÐNNTC, sđd. tr. 385.
Nhạn Môn Quan, mang
tên nầy vì nơi đây có nhiều chim nhạn, ở tỉnh Tuy Viễn, giáp Mông Cổ, cửa ải
cực bắc Trung Hoa Nhạn Môn Quan nổi tiếng với câu chuyện "Chiêu Quân cống
Hồ". Chiêu Quân, tên là Vương Tường, là cung phi của Hán Nguyên Ðế (48-33
TCN) Hán Nguyên Ðế có nhiều cung phi, sai Mao Diên Thọ vẽ hình cung phi cho vua
tuyển chọn Chiêu Quân tự tin mình đẹp, không đút lót tiền bạc cho Mao Diên Thọ.
Khi Diên Thọ vẽ Chiêu Quân, y thêm một nốt ruồi lên khuôn mặt, rồi nói với nhà
vua rằng Chiêu Quân có nốt ruồi sát phu, vua không nên gần Nguyên Ðế tin thật Lúc đó, vua Hung Nô ở
phía bắc đang thế mạnh, yêu cầu vua Hán phải gởi cống phẩm cùng một cung phi
đẹp Diên Thọ mưu cùng các gian thần gởi Chiêu Quân ra đi Khi triều yết nhà vua
để từ biệt, Hán Nguyên Ðế mới biết Chiêu Quân là tuyệt thế giai nhân, nhưng
việc đã rồi, không thay người khác được, đành phải để Chiêu Quân ra đi Tương
truyền rằng Chiêu Quân chẳng những đẹp mà có tài văn thơ Khi qua Nhạn Môn Quan,
cửa ải cuối cùng phía bắc nước Trung Hoa, Chiêu Quân xót xa cho thân thế, cảm
tác nhiều bài thơ rất cảm động "Chiêu Quân cống Hồ" (Hồ tức là Hung
Nô) trở thành đề tài cho văn nhân thi sĩ Trung Hoa cũng như Việt Nam. (Câu 479
trong Truyện Kiều: "Quá quan nầy khúc Chiêu Quân".)
Bên Trung Hoa, Chu Toàn Trung lật đổ nhà Ðường năm 907, lập ra nhà Hậu
Lương (907-923) Năm 908 (mậu thìn), nhà Hậu Lương đặt Lưu Ẩn là tiết độ sứ
Thanh Hải (Quảng Châu), kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải (Giao Châu) nhắm để lấy lại
nước cổ Việt Lưu Ẩn qua đời năm 911 (tân mùi), em là Lưu Cung (hay Nham, Yêm)
lên thay Lưu Cung tự xưng đế, đặt quốc hiệu là Nam Hán năm 917 (đinh sửu)
Lời "chua" của Cương mục, sđd tt. 166-167: " Bắt đầu từ sông Lục Ðầu thuộc địa hạt tỉnh
Bắc Ninh phân lưu chảy vào địa hạt tỉnh Hải Dương? : một chi theo Mỹ Giang, một
chi theo Châu Cốc Sơn, hai chi hợp lại ở xã Ðoan Lễ Khúc sông hợp lại nầy gọi
là sông Bạch Ðằng Sông Bạch Ðằng phía nam giáp giới huyện Thủy Ðường, tỉnh Hải
Dương? ; phía bắc giáp giới huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Yên; chuyển về phía nam
29 dặm, đổ ra cửa biển Nam Triệu Theo sách Ðịa lý chí [Dư địa chí] của Nguyễn Trãi, sông Bạch Ðằng còn có tên
gọi nữa là sông Vân Cừ, rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao ngất, nhiều ngành
sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ
bến, thực là một nơi hiểm yếu về đường biển. "
Theo Nguyễn Khắc Ngữ trong Việt
Nam, đất nước mến yêu, Văn Hoá, Montréal, 1984, tr. 128, sông Bạch Ðằng nay
gọi là sông Ðà Bạch, một thoát lưu của sông Thái Bình.
Jennifer
Holmgren, Chinese Colonisation of Northern Vietnam, Australian National
University Press, Canberra, 1980, tr. 14.
Hữu Ngọc, Nguyễn
Ðức Hiền, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn [Hoàng Xuân Hãn toàn tập], Nxb.
Giáo Dục, Hà Nội, 1998, tr. 418 [Sách nầy in lại toàn bộ tác phẩm của giáo sư
Hoàng Xuân Hãn.]
Vùng sông Lục
Nam gặp sông Thương, nay thuộc tỉnh Hải Dương.
Theo Cương
mục, Nội Bàng ở Lạng Sơn (bản dịch, sđd. tr. 524), nhưng học giả Ðào
Duy Anh, đi nghiên cứu tại chỗ, cho rằng Nội Bàng có thể ở xã Chú, tỉnh Bắc
Giang. (Ðào Duy Anh, Ðất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Thuận Hóa, Huế,
in lần thứ 2, 1997, tr. 246.)
Trần Trọng Kim, Việt
Nam sử lược, in lần thứ 7, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1964, tr. 207.
Ðại Việt sử ký
toàn thư, viết tắt là Toàn
thư, bản dịch của Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tập 2, tt. 272, 276.
Toàn thư, bản dịch, tập 3, tt. 122-123.
Toàn thư, bản dịch tập 3, tr. 121 Cương mục,
bản dịch, tr. 1338 Cương mục đã dựa vào Quảng Yên sách, cho rằng động
An Lương thuộc châu Vạn Ninh, vẫn còn của nước ta, và cho rằng Toàn thư
chép lầm.
Hoàng Xuân Hãn,
"Việt Thanh chiến sử",? đăng lại trong Hữu Ngọc, Nguyễn Ðức Hiền, sđd.
tr. 1341.
Ðiều 4 chương 1
Hiến pháp năm 1992 của CHXHCNVN xác nhận vai trò lãnh đạo tối cao của đảng CSVN
Sau đây là nguyên văn điều nầy:? "Ðảng
cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội Mọi tổ chức của
đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật."
Theo lý thuyết
chiến tranh du kích, du kích quân luôn luôn cần đến một hậu cứ an toàn để lẫn
tránh, bảo toàn lực lượng khi bị truy đuổi Lãnh thổ Trung Hoa là hậu cứ an toàn
cho Việt Minh cộng sản chạy trốn khi bị? truy đuổi Quân đội Quốc Gia và quân
đội Pháp không thể xâm phạm lãnh thổ Trung Hoa.
Bài của ông Vũ
Khoan được ông Ngô Nhân Dụng trích dẫn trong bài bình luận "Mốc Mới",
nhật báo Người Việt Online, California, ngày 27-01-2002.
Lúc đó, người
viết bài nầy đang ở Ðà Nẵng Một diễn viên trong đoàn xiếc Hải Phòng, lên biên
giới phía bắc trình diễn giúp vui cho quân dân sau chiến tranh, đã kể lại cho
người viết rằng ít nhất 20 năm sau, Việt Nam chưa có thể xây dựng lại Lạng Sơn
như trước khi đánh nhau với Trung Hoa Lời nói đó, bây giờ thấy đúng.
Nguyễn Thanh
Giang trả lời phỏng vấn ngày 24-2-2002 của Ðài Phát thanh Little Sài Gòn,
Orange County, California Người Việt Online, ngày 25-1-2002, mục
"Tin Việt Nam".
Lê Công Phụng
[thứ trưởng Ngoại giao Hà Nội, trưởng đoàn thương thuyết Việt Nam], "Hiệp
định phân định vịnh Bắc Bộ và hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam - Trung
Quốc trong vịnh Bắc Bộ", tạp chí Cộng Sản, Hà Nội, số 2 tháng
1-2001.
Nguyễn Văn Canh,
"Việc thi hành hiệp ước biên giới 1999", Việt Báo Online,
California ngày 22-1-2002.[Ông Nguyễn Văn Canh, tiến sĩ Luật, Giáo sư Ðại học
Luật Khoa Sài Gòn trước năm 1975, hiện là thành viên Hoover Institude, Ðại học
Stanford.]
Ðiều mỉa mai là
ngày 4-1-2002, các sinh viên Việt Nam (dưới chế độ cộng sản) du học ở nước
ngoài, nhận được một tờ quảng cáo của Tổng cục Du lịch Trung Quốc, mời sinh
viên Việt Nam đi thăm các thắng cảnh vùng cực nam nước Trung Hoa như Mục Nam
Quan (Ải Nam Quan), Thác Bản Giốc, và tắm biển Hoàng Sa, câu cá Trường Sa, đi
du thuyền trên vịnh Bắc Việt.(Dương Thái Sơn, "Vấn đề Cộng Sản bán nước và
chiến lược đấu tranh", Việt Báo Online, số 2483 ngày 24-1-2002.)
Nguyên văn bản
văn nầy được đưa lên liên mạng thông tin quốc tế: tạp chí Việt Nam Dân Chủ,
tháng 12-2001, http:www.lmvntd.org/dossier/0111knghi.htm.
Trần Ðại Sỹ,
"Bí mật vụ hiến đất dâng biển", Bản văn được chuyển qua Liberty
Flame, lưu trên Internet theo địa chỉ
http://groups.yahoo.com/group/HoiNghi/message/17582 (Viet Bao Online,
ngày 14-1-2002 trích đăng lại) Ðiạ chỉ của ông Trần Ðại Sỹ: số 5, Place Félix
Éboué, 75012 Paris, France. Theo ông Trần Ðại Sỹ, khi được chia 38 % trên vịnh
Bắc Việt, nhà Thanh rất mừng vì từ trước, người Trung Hoa coi vịnh Bắc Việt là
của Việt Nam.
Tạp chí Lướt
Sóng, "Sau khi mất đất, Việt Nam mất tới biển: Hơn một nửa vịnh Bắc
Việt thuộc Trung Cộng", Việt Báo Online, California, đăng lại, ngày
28-1-2002. (Ðường kinh tuyến 108 độ 03 phút 18 giây phân chia lãnh hải Việt Hoa
còn được gọi là "Ligne rouge" tức "Red Line", hay
"hồng tuyến" tức "đường thẳng đỏ".
Luật biển Liên
Hiệp Quốc (United Nations Convention on the Law of the Sea), ban hành ngày
10-12-1982, theo đó những nước có bờ biển lởm chởm sẽ dùng những "đường
thẳng căn bản" (baseline) nối liền các mũi đất và hải đảo để phân chia.
CSTH chủ trương
chia hai vịnh Bắc Việt, có nghĩa là tính từ đảo Hải Nam của Trung Hoa đến bờ
biển Bắc Việt.
Phía CSVN nói đến
sự hiện diện của các đảo có nghĩa là phân chia giữa đảo Bạch Long Vỹ của Việt
Nam và đảo Hải Nam của Trung Hoa.
Nguyễn Văn Tân, Từ
điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
1999, tr. 81.
Tạp chí Lướt
sóng, Việt Báo Online đăng lại ngày 28-1-2002.
Bản tin nhật báo Người
Việt Online, California, ngày 25-01-2001.
Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, Nxb. Văn Nghệ,
California, 1997, tr. 114.
* Theo nhà văn
Hoàng Tiến (hiện còn sống trong nước), thì vào năm 1954 hai bên ải có quân đội
hai nước canh gát, nhưng về sau, CHNDTH cho dân tràn lấn qua xây cất nhà cửa
phía bên lãnh thổ Việt Nam Viện lý do dân chúng mới tràn lấn muốn thuộc quyền
hành chánh của họ, CHNDTH xem đất đó là đất của họ.(Dương Thái Sơn, "Vấn
đề cộng sản bán nước và chiến lược đấu tranh", Việt Báo Online,
24-1-2002.) * Ông Nguyễn Gia Kiểng, trong bài "Hận Nam Quan ngày xưa, hận
Nam Quan ngày nay", trên Thông Luận số 155, tháng 01-2002, kể rằng
vào năm 1969, CHNDTH viện lý do xây dựng nhà ga ở Nam Quan để tiếp liệu cho Bắc
Việt, đã dời cột mốc số 0 vào phía trong lãnh thổ Việt Nam 1 km, và chiếm ải
Nam Quan từ đây Sự kiện nầy bị CSVN giấu nhẹm Năm 1971, đại tá Hải Anh, Phó văn
phòng Tổng cục Chính trị, được tin nầy lên Nam Quan quan sát, bị lính CHNDTH
chận lại không cho đi Ông đã làm báo cáo lên thượng cấp nhưng không được giải quyết. Jacques Massu, Jean-Julien Fonde, L?aventure Viêt-Minh, Nxb. Plon, Paris,
1980, tr. 293, phần chú thích.
Lê Duẩn, bí thư thứ
nhất đảng Lao Ðộng từ 1960 đến 1976, tổng bí thư đảng CSVN từ 1976 đến 1986, đã
từng nói:? ""Ta đánh Mỹ là đánh
cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc." (Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị),
Nxb. Văn Nghệ, California,
1997, tr. 422, phần chú thích.)
Tàm thực: Tàm là
dâu, thực là ăn. Kế hoạch tàm thực là kế hoạch thực hiện từ từ, lan truyền dần
dần như con tằm từ từ ăn hết lá dâu nầy đến lá dâu khác.
Nguyễn Ngọc Huy, Quốc
triều hình luật (phiên âm, dịch nghĩa và chú thích), Việt Publisher Thư
Quán, Hoa Kỳ, 1989, tr. 189.
|