Home

Thơ

Sưu Tập

Văn Điếu Tế  Linh Tinh Trang Ca Dao Search

 

 

 

Mốc Biên Giới Của Việt Nam và Trung Quốc. 

Trích từ LMVNTD http://www.lmvntd.org/ Ngày 1/29/2002

 

Ngày 27/12, Thứ trưởng ngoại giao Cộng Sản Việt Nam Lê Công Phụng và Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã cùng nhau làm lễ khánh thành cột mốc đầu tiên phân định ranh giới giữa hai nước ở hai đầu cầu Bắc Luân tại thị xã Móng Cáy- Việt Nam và thị trấn Ðông Hưng- Trung Quốc. 

Buổi lễ này mở đầu cho một giai đoạn cắm mốc trên thực địa theo Hiệp ước về Biên giới được hai chính phủ cộng sản ký kết vào tháng 12/1999. Sau khi buổi lễ chấm dứt, cả hai phía đã lần lượt sang thăm viếng cột mốc biên giới của nhau. Theo quan chức nhà nước CSVN giải thích, sở dĩ phải đóng mốc ở cả hai đầu cầu Bắc Luân, một trên lãnh thổ Việt Nam và một ở Trung Quốc là vì, theo thông lệ quốc tế, khi biên giới đi qua sông thì cùng lúc phải cắm cả 2 cột mốc tại hai bên bờ sông. 

Mốc biên giới đầu tiên này mang ký hiệu 1369, cao 2,2 m, rộng 50 cm và được làm bằng đá hoa cương. Theo Trưởng ban Biên giới thuộc Bộ Ngoại giao CSVN Trần Công Trực, trong vòng 3 năm tới, phải cắm xong khoảng 1.400 cột mốc trên một đường biên dài 1.350 km. Ải Nam Quan (hay Cửa Hữu Nghị mà Cộng sản Việt Nam sau này thường gọi), từng là biên giới ngàn đời của lịch sử Việt đã lùi xa vào lãnh thổ Trung Quốc. Và, 27/12/2001, ngày cắm mốc biên giới đầu tiên cũng là ngày đánh dấu đại tội bán nước của CSVN đối với dân tộc.

Năm 2002: Năm Hòa Nhập đấu Tranh Trong Ngòai 

Năm 2001 đã chấm dứt, với nhiều sự kiện đáng quan tâm. Trên thế giới, vụ khủng bố ngày 11/9 đã và đang mang lại nhiều thay đổi cho cuộc diện toàn cầu. Tại Việt Nam, hình ảnh của những nông dân biểu tình trong gió rét cuối năm ở Hà Nội đã tóm gọn bối cảnh của đất nước trong năm 2001, một đất nước bị đè nén trong bất mãn tột cùng và đang chực chờ đứng dậy để làm một sự thay đổi toàn diện.

Suối Phi Khanh. Một tên gọi có lẽ ít người nghe nói đến. Tương truyền rằng khi ông Nguyễn Phi Khanh bị quân nhà Minh bắt mang về Tàu, Nguyễn Trãi đã đi theo tiễn cha và khi đến Ải Nam Quan, ông Phi Khanh đã khuyên con quay về tìm cách rửa nhục cho nước nhà. Phút chia tay, hai cha con đều khóc. Nước mắt chảy thành vạt suối ở chỗ đất lõm, dân gian gọi là suối Phi Khanh. Ngày nay, nếu người Việt Nam nào muốn đi viếng di tích lịch sử này thì phải đi sang Tàu, vì kể từ khi đảng CSVN ký kết hiệp định biên giới với Trung Quốc, thì Ải Nam Quan và Suối Phi Khanh đều không còn là của Việt Nam. Thành tích”bán nước”này của đảng CSVN đã làm dấy lên một phong trào phản đối ở trong và ngoài nước.”Thành tích”này cũng được ghi lại trong một”Bài Ca Bán Nước”đang được các nhà ly khai ở Hà Nội cho lưu hành trên mạng Internet, với hai câu bất hủ như sau:

"Hoan hô cộng sản Việt Nam, Cuối đời bán cả giang san nước nhà."

Ðiều lạ lùng là mặc dù những sự tố cáo nói trên đang làm xôn xao dư luận ở trong cũng như ngoài nước, các nhân vật được gọi là”đại biểu nhân dân”ở Quốc Hội Hà Nội vẫn cứ tỉnh bơ, như không phải là chuyện đáng bận tâm, đến nỗi ông Trần Dũng Tiến, một đảng viên kỳ cựu của đảng CSVN, đã tức giận mắng vào mặt của”trung tướng đại biểu”Nguyễn Quốc Thước”Thế ông là bù nhìn à!". Có lẽ chính vì câu mắng này và hành động công khai tố cáo bản chất”bán nước”của tập đoàn lãnh đạo hiện nay, nên ông Trần Dũng Tiến đã bị công an Hà Nội cưỡng bách đưa về đồn hạch sách.

Một số đặc điểm của tình hình Việt Nam trong năm 2001:  

Phản ứng của chế độ đối với ông Trần Dũng Tiến cũng là phản ứng được dùng để đối phó với cao trào chống đối đang ngày một dâng cao ở Việt Nam. Năm 2001 có thể nói là năm đã bùng nổ nhiều chống đối đa diện. Năm 2001 cũng có thể nói là năm chồng chất nhiều khó khăn nan giải của đảng CSVN, với các đặc điểm có thể được tóm gọn như sau:  

Về mặt nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam, sự đấu đá trên thượng tầng vẫn diễn ra một cách gay gắt. Mặc dù trong kỳ đại hội lần thứ 9 vào tháng 4/2001, các phe nhóm đã tạm thời thỏa hiệp được với nhau qua giải pháp Nông Ðức Mạnh thay thế Lê Khả Phiêu trong vai trò Tổng Bí Thư, nhưng giải pháp này chỉ là tạm bợ và cuộc đấu đá tranh quyền sẽ bùng nổ lớn vào năm 2002, khi Hà Nội phải bầu lại Quốc Hội và sắp xếp những nhân sự đầu não của guồng máy nhà nước. Do hậu quả của sự tranh đoạt quyền lực và quyền lợi trên thượng tầng, nên sự phân hóa trong nội bộ đảng CSVN ngày một gia tăng và không còn thống nhất được với nhau về các định hướng cải cách. Ðiều này đã dẫn đến những quyết định tùy tiện của mọi nơi và mọi cấp, khiến cho guồng máy vận hành của chế độ bị rối loạn, tham nhũng tràn lan.

Về tình hình tôn giáo, năm 2001 là năm mà các Giáo Hội đã bước vào giai đoạn đấu tranh quyết liệt hơn, có tổ chức hơn và nhất là có sự kết hợp chặt chẽ hơn. Sự kết hợp này được thể hiện bằng sự gắn liền những đòi hỏi về quyền lợi thiết thân của tín đồ, của giáo hội, như đòi lại đất đai, phương tiện hành đạo, với quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Nó cũng được thể hiện bằng sự liên kết đấu tranh giữa các tôn giáo, liên kết trong lập trường và kể cả trong hành động. Nhờ vậy, cuộc đấu tranh của các tôn giáo trong năm qua đã có một tầm vóc mới, gây ra rất nhiều khó khăn cho chế độ và được sự chú ý đặc biệt của dư luận thế giới. Mặc dù Hà Nội đã áp dụng một số biện pháp cứng rắn như bắt giam và xử án nặng nề Linh Mục Nguyễn Văn Lý, quản thúc Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, cụ Lê Quang Liêm, đàn áp tín đồ Thiên Chúa Giáo tại Nguyệt Biều, An Truyền, dập tắt cuộc tranh đấu của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tại Miền Tây,... nhưng phong trào tranh đấu của các tôn giáo vẫn tiếp tục lan rộng và chắc chắn trong năm 2002 sẽ bùng nổ lớn hơn.

Về phía quần chúng quốc nội, phong trào khiếu kiện của người dân đã và đang trở thành một vấn nạn đối với chế độ. Hình ảnh nông dân từ các vùng quê kéo về tỉnh cắm dùi, căng biểu ngữ trước các cơ quan đã trở thành bình thường ở nhiều nơi. Ngay tại Hà Nội, người dân cũng thường xuyên kéo tới trước Trụ Sở Trung Ương đảng CSVN, trước Quốc Hội hay trước tư gia của các nhân vật lãnh đạo để bày tỏ sự bất mãn. Hiện tượng này cho thấy quần chúng quốc nội ngày một bớt sợ hãi chế độ và đã bắt đầu dám đứng lên tranh đấu đòi hỏi quyền lợi thiết thân. Cao điểm của phong trào khiếu kiện là cuộc nổi dậy của đồng bào sắc tộc tại Tây Nguyên. Cuộc nổi dậy này được quốc tế và kể cả lãnh đạo Hà Nội đánh giá là nghiêm trọng nhất, kể từ khi đảng CSVN cầm quyền cho đến nay. Ngoài yếu tố tôn giáo, vấn đề cướp đất và đối xử bất công của nhà cầm quyền đối với người sắc tộc là nguyên nhân chính đã làm bùng nổ cuộc nổi dậy. Mặc dù Hà Nội đã cố gắng áp dụng nhiều biện pháp, từ ve vuốt đến đàn áp, nhằm dập tắt cuộc đấu tranh, nhưng ngòi nổ tại Tây Nguyên và những ngòi nổ khác của phong trào khiếu kiện có nhiều chỉ dấu sẽ bốc cháy dữ dội trong năm 2002.

Sau cùng, cuộc tranh đấu của những người ly khai đang xoáy vào chổ yếu nhất của đảng CSVN là vấn đề tham nhũng và đang đánh vào tư thế của tập đoàn này qua vụ”nhượng đất, bán nước”cho Trung Quốc. Trong những tháng vừa qua, sự kiện nhiều cựu đảng viên đảng CSVN đòi thành lập các hội nhân dân chống tham nhũng và phanh phui nhiều vụ tham nhũng động trời của một số nhân vật lãnh đạo Hà Nội đã làm cho tập đoàn độc tài CSVN trở nên lúng túng và không biết phải đối phó ra sao. Nghiêm trọng hơn, khi tập đoàn này bị tố cáo là đã nhượng cho Trung Quốc một phần đất đai và lãnh hải của Việt Nam, qua hai hiệp định được ký kết vào cuối năm 1999 và cuối năm 2000, một làn sóng phản đối đã được dấy lên ở trong cũng như ngoài nước. Vì đây là một vấn đề có ảnh hưởng lâu dài đến quyền lợi của dân tộc, nên đã khiến cho nhiều người Việt Nam, trong đó có cả những đảng viên CSVN, đã lên tiếng tố cáo bản chất bán nước của tập đoàn lãnh đạo Hà Nội.

Trong năm 2002, cuộc đấu tranh này sẽ lan rộng ra nhiều thành phần quần chúng ở trong nước và sẽ đặt tập đoàn lãnh đạo của đảng CSVN trước những khó khăn mới.

Năm 2002: Năm Hòa Nhập Ðấu Tranh Trong Ngoài

Những đặc điểm nói trên cho thấy tập đoàn độc tài tại Việt Nam đang gặp những khó khăn vô cùng nan giải và những phản ứng cứng rắn trong năm 2001 chỉ là những phản ứng của một chế độ cùng đường. Viễn cảnh đấu tranh cho tự do dân chủ trong năm 2002 có nhiều chỉ dấu thuận lợi, vấn đề là làm thế nào khai dụng một cách hữu hiệu, để đưa công cuộc tranh đấu chung đến thành công?

Từ trước tới nay, chúng ta vẫn có thói quen phân ranh cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ ở Việt Nam ra thành hai địa bàn: quốc nội và hải ngoại. Sự phân ranh về mặt địa lý này có những điểm hữu lý trước đây vì đặc tính của hai địa bàn khác nhau, tâm lý của đồng bào trong nước và người Việt hải ngoại có những yếu tố khác biệt, quan trọng hơn cả là sự ngăn cách trong ngoài về mặt thông tin, khiến cho sự trao đổi giữa những người đấu tranh ở trong và ngoài nước gặp rất nhiều trở ngại.

Trong thời gian qua, nhất là trong năm 2001, chúng ta nhận thấy sự trao đổi trong ngoài càng lúc càng nhanh chóng hơn. Lý do là trong hoàn cảnh phải mở cửa ra với thế giới bên ngoài, Hà Nội không còn cách nào để có thể kiểm soát lượng thông tin ra vào Việt Nam đang gia tốc theo thời gian. Khai dụng hoàn cảnh khách quan này, nhiều tầng lớp quần chúng trong nước, từ thanh niên, sinh viên, đến giới tôn giáo, đối kháng, đã tìm mọi cách để vượt qua sự kiểm soát của nhà nước hầu có thể trao đổi, liên lạc với hải ngoại một cách nhanh chóng và an toàn. Trong khi đó, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng chủ động mở ra những hướng bức phá truyền thông, mang đến cho đồng bào trong nước những nguồn tin tức đa diện, đồng thời tích cực hơn trong việc tiếp trợ các cuộc tranh đấu tại quê nhà, mang đến cho những phong trào quần chúng trong nước từ tài chánh, phương tiện và kể cả nhân sự. 

Thực tế của đầu năm 2002 cho thấy sự ngăn cách về địa lý trong ngoài đã không còn là một cản trở lớn lao. Những sự trao đổi về tin tức, tài liệu, những bàn thảo về kế hoạch, công tác đã diễn ra từng ngày,từng giờ giữa những người tranh đấu cho dân chủ ở trong và ngoài nước. Ðây là thực tế của tình trạng hòa nhập đấu tranh trong ngoài và trong năm 2002, chúng ta cần khai dụng tối đa để xoay chuyển tình hình đất nước.Một cách cụ thể, ngoài nỗ lực hỗ trợ các tôn giáo hay vận động áp lực quốc tế, chúng ta có thể cùng nhau đẩy mạnh thêm một số nỗ lực sau đây:  

1. Nâng cuộc tranh đấu tố cáo đảng CSVN”bán nước”lên thành phong trào quần chúng cả trong lẫn ngoài nước. Thể hiện tinh thần”hòa nhập đấu tranh trong ngoài", cuộc tranh đấu chống hành động bán nước của đảng CSVN sẽ phải vượt lên trên mọi giới hạn về địa lý hay chính kiến, vì đây là cuộc đấu tranh cho quyền lợi tối thượng của dân tộc. Với sự thúc đẩy của những người tranh đấu ở trong và ngoài nước, với sự tham gia nhập cuộc của nhiều tổ chức, đoàn thể, cộng đồng, trong năm 2002, chúng ta cần dấy lên một phong trào quần chúng quy mô nhằm phản đối các hiệp định bán nước mà tập đoàn lãnh đạo CSVN đã ký kết với Trung Quốc. Sự phối hợp trong ngoài sẽ tạo điều kiện để phong trào này ngày một lan rộng và đại đa số quần chúng Việt Nam đều trực tiếp hay gián tiếp lên tiếng phản đối hành động bán nước của đảng CSVN.

2. Tạo điều kiện để dấy lên một phong trào bất phục tùng chế độ tại Việt Nam.

Trong nhiều cuộc cách mạng dân chủ, sự sụp đổ của thế lực độc tài đã bắt nguồn từ những hành động bất phục tùng của người dân. Những hành động này nếu được bộc phát một cách đồng loạt và mạnh mẽ, thì sẽ làm tê liệt chế độ và khó có cường quyền nào có thể đứng vững. Hiện nay, những chỉ dấu về sự bất phục tùng đang ngày một rõ nét ở Việt Nam. Ngoài phong trào khiếu kiện đưa đến sự kiện quần chúng xuống đường biểu tình, bất chấp sự cấm đoán của nhà cầm quyền, hay cuộc tranh đấu của các tôn giáo, biến cố ở Tây Nguyên là hình ảnh rõ nét nhất về sự bất phục tùng đang đặt nhà cầm quyền CSVN vào tình trạng khó khăn. Mới đây, qua lời kêu gọi thành lập các”hội nhân dân chống tham nhũng", một số người tranh đấu ở trong nước đã ngang nhiên cho các hội này hoạt động, bất chấp sự cấm đoán của nhà cầm quyền. Trong năm 2002, chúng ta cần thúc đẩy, hỗ trợ để tình trạng bất phục tùng này lan rộng ra trên nhiều bình diện khác, kể cả trên bình diện chính trị.

3. Biến năm 2002 thành năm bức phá thông tin.

Trong thời gian qua, tuy kết quả của mặt trận truyền thông rất đáng khích lệ, sự trao đổi trong ngoài đã trở nên nhanh chóng và dồi dào hơn nhiều, nhưng trên thực tế, sự bưng bít thông tin trong nước vẫn còn rất lớn. Nhiều sự kiện quan trọng xảy ra ngay tại trong nước, nhưng đa số đồng bào quốc nội chưa được biết tới, nhất là quần chúng nông thôn, hay biết một cách sai lạc qua sự tuyên truyền bóp méo của chế độ. Do đó, chúng ta còn phải nỗ lực nhiều hơn trên bình diện này. Với mục tiêu phá vỡ sự bưng bít thông tin của chế độ, chúng ta cần tiếp tay nuôi dưỡng những đài phát thanh hướng về Việt Nam, khai dụng các phương tiện truyền thông điện tử và mọi cơ hội tiếp xúc với đồng bào trong nước để truyền đạt tin tức. Chúng ta phải biến năm 2002 thành năm bức phá thông tin, mỗi người Việt hải ngoại sẽ thành một chiến sĩ truyền thông trong cuộc chiến phá vỡ sự bưng bít thông tin hiện nay tại Việt Nam.

Một năm đã trôi qua, với rất nhiều diễn biến tại quê nhà. Nhiều người Việt Nam đã không còn giữ thái độ”quan sát”hay”thờ ơ”trước sự thật của đất nước. Ðây cũng là một diễn biến đầy tích cực. Trong năm 2002, chúng ta sẽ khai dụng diễn biến tích cực này để cộng đồng người Việt hải ngoại không chỉ đóng vai trò yểm trợ, quần chúng trong nước sẽ thoát khỏi tâm lý sợ hãi và thụ động, để hòa nhập làm một, cùng nhau dứt điểm chế độ độc tài, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Ngọc Ðức

 

 

 

 

 

 

Thư Mục 

Thơ

Đổi Thay  
Những Đoản Khúc
Tơ Vò
Hương Phai 
Thi Đàm /Thi Họa

Kịch Thơ 

Cô Hàng Nước  
Ngồi Đợi Bình Minh

Truyện Dài

Cơ Trời Vận Nước
Trầm Bay

Truyện Ngắn

Bước Hổng Chân Không
Ba Con Yến Nhỏ
Cây Cà Rem Đầu Đời

Sưu Tập

Ca Dao

Huy Chương VNCH

Huy hiệu QL/VNCH

Huy Hiệu QĐ Pháp/Đ-Dương

Tiền Tệ
Quân Sử VNCH

Điếu Tế 

Văn Tế
Điếu Văn
25 Năm Xây Dựng CĐ
Hot Links
Ha Huyen Chi
Gia Đình Võ Bị
All Links

Miếng Ngọt Quê Hương

Thực Vô Cầu Bão
Cá Kho
Món Xào

Send mail to haphuonghoai@gmail.com with questions or comments about this web site.
Copyright © 2003 Haphuonghoai
Last modified: 01/29/13