10 - đặc-tính chung của các
đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Có nhiều điểm đáng nói về các đảo thuộc Hoàng-Sa và Trường-Sa,
đặc-biệt là về cách cấu-tạo địa-chất.
10.1 - cấu-tạo địa-chất.
Trước hết, chúng ta duyệt xét các giả-thuyết cấu-tạo và sau đó tìm
hiểu tuổi-tác các đảo.
Không giống như các đảo khác nằm gần bờ biển Việt-Nam, các đảo
thuộc hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa không được tạo thành bởi các
khoáng-chất như đất đá Regosol trong đất liền mà là tập-thể chồng chất các xác
thân của san-hô, một loài sinh-vật dưới biển.
Kết-quả điều-nghiên của các chính-quyền Pháp, Mỹ và Việt-Nam cho
biết hầu hết các đảo nằm giữa biển khơi vùng nhiệt-đới như Hoàng-Sa và
Trường-Sa đều là các ám-tiêu san-hô, tiêu-biểu cho kiến-trúc ám-tiêu loại
Thái-bình-Dương. San-hô là một loại sinh-vật nhỏ thuộc dòng Xoang-tràng
(classes Anthozoa and Hydrozoa of the Phylum Coelenterata), sống tập-đoàn trên
mặt những đảo ngầm vùng biển nhiệt-đới.
Hình 63 - Hai loại san-hô thông-thường.
Đã có khá nhiều lý-thuyết hình-thành đảo san-hô như của Quoy và
Gaimard, Darwin, Krempf, Murray, Agassir v.v... Các công-trình nghiên-cứu của
người Pháp, đặc-biệt của ông P. Chevey thuộc viện Hải-học Đông-Dương, rất
hữu-ích cho những ai muốn tìm hiểu thêm về chi-tiết cấu-tạo đảo san-hô Biển
Đông.
Sau đây là tóm tắt một số kiến-thức về sự hình-thành các đảo
san-hô, trích từ hai bài "Thử khảo-sát về quần-đảo Hoàng-Sa" của
giáo-sư Sơn-Hồng-Đức, đăng trong Đặc-san Sử-Địa số 29 năm 1975, trang 185-206
và "Iles et Récifs de Coraux de la Mer de Chine" báo Bulletin de la
Société des Etudes Indochinoises, bộ IX, số 4, Saigon ngày 10-12-1934, trang
48-56.
Lý-thuyết Darwin được một số nhà địa-chất tin-tưởng là chính-xác
trong trường-hợp những ám-tiêu viền được thành-lập. Theo Darwin thì san-hô đã
nhờ hoàn-cảnh thuận-lợi sinh-sản thành một tập-đoàn rộng lớn viền quanh một hòn
đảo. Sau đó, chính sức nặng của san-hô và sự lún của đáy làm cho đảo từ từ chìm
xuống, còn san-hô vẫn tiếp-tục phát-triển.
* Khi đảo không chìm hoàn-toàn, hệ-thống gồm đảo ở giữa, ám-tiêu
viền ngoài bao bọc đầm nước bao quanh đảo.
* Khi đảo chìm hẳn, ta chỉ còn thấy ám-tiêu san-hô bao một đầm
nước yên-lặng..
Hình 64 - Sự hình-thành các đảo san-hô theo thuyết "lún
đáy" của Darwin.
Các lý-thuyết hình-thành đảo san-hô khác không phải là hoàn-toàn
sai lạc. Có lẽ mỗi giả-thuyết đúng vào một khía cạnh nào đó trong tiến-trình
kết-tụ:
a- Thuyết của Quoy và Gaymard cho rằng san-hô thành-lập trên miệng
những hỏa-diệm-sơn ngầm dưới biển. Khoa địa-chất đã ghi nhận nhiều núi lửa ngầm
hình-thành khi có địa-chấn trong vùng Biển Đông. Thuyết này không hoàn-toàn
đúng vì tại vài vùng có ám-tiêu san-hô lại không thấy có núi lửa.
Hình 65 - Thuyết hình-thành các đảo san-hô trên miệng núi lửa của
Quoy và Gaimard.
b- Thuyết của Murray là một thuyết tác-động hóa-học. Các phân-tử
vôi có trong nước biển kết-tụ trên những đỉnh núi ngầm. Khi khối vôi này cao
dần đến tầng nước có ánh-sáng mặt trời đầy đủ thì san-hô bám vào và sinh sản.
Murray cho rằng chính giữa khối san-hô, khí CO2 tích-tụ nhiều đã xâm-thực-hóa
san-hô làm vùng giữa biến mất.
Hình 66 - Thuyết hình-thành các đảo san-hô của Murray.
c- Thuyết của Agassiz cho rằng cái nền đất đá tạo-lập nên quần-đảo
san-hô là quan-trọng. Agassiz nghiên-cứu vùng Great Barrier ở Úc thấy rằng lớp
san-hô không dầy lắm. Phải có cái nền thích-hợp là dải núi ngầm dưới biển thì
mới có dẫy đảo san-hô. Phần kết-tụ được Agassiz trình-bày phần nào giống như
thuyết Murray.
Hình 67 -
Thuyết hình-thành các đảo san-hô của Agassiz đặt quan-trọng ở dải
núi ngầm.
d- Thuyết của Krempf liên-hệ đến gió mùa. Đây là một giả-thuyết
mới về sự tạo-lập những đảo san-hô. Theo ông nhờ các phản-ứng hóa-học, những
vật-chất lững lờ trong nước kết-hợp với san-hô. Tập-thể này tiến-triển theo
chiều thẳng đứng và dần dần tạo thành đảo. Krempf cho rằng khi san-hô nổi lên
thì bị sóng và gió xâm-thực, những vật-liệu bị gió mùa xâm-thực sẽ bị cuốn rơi
vào bên trong đè lớp san-hô bên trong và giết chết đi. Tới khi gió mùa nghịch
lại thì vùng bên kia lại bị xâm-thực và vật-liệu cũng rơi vào bên trong... Vòng
đai san-hô vì thế thường có hình bầu dục kéo dài theo chiều ảnh-hưởng của gió
mùa.
Hình 68- Thuyết hình-thành các đảo san-hô với gió mùa của Krempf.
Biển Đông là vùng biển có hai vụ gió mùa Đông-Bắc và Tây-Nam thật
rõ rệt trong năm. Lý thuyết Krempf giải-thích được tại sao các ám-tiêu san-hô
lớn trong các quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa lại giống như những hình bầu-dục
khổng-lồ kéo dài theo cùng hướng, từ Đông-Bắc đến Tây-Nam.
10.2 - Đất-đai san-hô.
Các đảo ở Trường-Sa và Hoàng-Sa đều là các ám-tiêu san-hô.
Đặc-tính đất đai vì đó khác-biệt với đất-đai các đảo ven biển cũng như đất đai
vùng duyên-hải.
Trong bản "Phúc-trình Cuộc Thám-sát Hòn Nam Yít thuộc
Quần-đảo Trường-Sa vào mùa thu năm 1973" Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh viết như
sau:
"... Đây là những ám-tiêu san-hô tiêu-biểu trong vùng
Thái-bình-Dương. Trong quá-trình địa-chất, hòn Nam-Yít được thành-lập do sự
nguội đặc của dung-nham huyền-vũ phún-xuất ngầm dưới mặt nước. Về sau san-hô
bám vào đó và tăng-trưởng mau lẹ nhờ vào các điều-kiện thích-hợp cho môi-trường
sinh sống của chúng như chiều sâu của mực nước biển, nhiệt-độ lượng Oxy ...
San-hô nhờ có vỏ vôi nên khi chết vỏ sẽ hóa cứng và thành-lập nên
đá vôi san-hô có nguồn-gốc sinh-học.
... Đất đai thuộc nhóm Regosol trắng ở ven bìa hòn là các đụn cát
thấp nằm che phủ lớp đá vôi san-hô bên dưới. Trắc-diện đất (được đo) có chiều
sâu thay đổi từ 40cm đến 120cm.
... Trắc-diện (đụn cát ven bìa) có sa-cấu cát pha thịt nên độ
thoát thủy mạnh và khả-năng giữ nước kém. — ven bìa hòn đảo, nước mặn thấm-nhập
nên độ dẫn điện trong dung-dịch đất khá cao . Ngoài ra vì trong cát có lẫn thật
nhiều mảnh vỏ sò, ốc, san-hô bằng CO3Ca bị nát vụn nên lượng Ca trao đổi được
chiếm tỉ-lệ thật cao .
Trong khi các trắc-diện lấy ở giữa hòn, nơi các chỗ trũng có cây
cối mọc tươi tốt nên trong đất có lượng chất hữu-cơ rất giàu do thực-vật bị
huỷ-hoại cung-cấp, độ dẫn-điện, lượng Ca và Na giảm đi một cách rõ rệt, đồng
thời chất lân và Mg đồng-hóa cao hơn so với nơi bìa đảo. Sa cấu của đất
tương-đối cũng ít cát hơn, giàu đất thịt và sét hơn, do đó đất tương-đối chậm thoát
thủy hơn.
Các nhận-xét trên cho thấy là đất đai ở giữa hòn thích-hợp cho
việc canh-tác hơn so với ven bìa nhờ khá giàu chất hữu-cơ, lân, chậm thoát thủy
và nhất là ít bị mặn.
... Kết-quả cuộc thám-sát tại chỗ cho thấy đất đai trên hòn
Nam-Yết không đủ khả-năng nuôi sống vài chục người nếu chỉ tự-lực
canh-tác."
Tuy vậy Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh cũng kêu gọi các quân-nhân đồn-trú
nên ý-thức việc tự-lực cánh-sinh mạnh mẽ như Lỗ-Bình-Sơn hơn là chỉ lệ-thuộc
hoàn-toàn vào nguồn thực-phẩm tiếp-tế từ đất liền.
Hình 69- Bảng phân-chất đất trên đảo Nam-Yết của Kỹ-sư
Trịnh-tuấn-Anh.
10.3 - kích-thước và tuổi-tác các đảo.
Các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa thường thấp và nhỏ. Tuổi của san-hô
cấu tạo nên đảo khó mà biết được chính-xác.
10.3.1 - Kích-thước của đảo san-hô.
San-hô, nguyên-chất cấu tạo nên đảo, là loài thủy-sinh-vật; tuy
chúng có thể nảy nở và phát-triển theo chiều cao, nhưng khi đạt đến một cao-độ
giới-hạn nào đó thì chúng ngưng lại vì san-hô không thể sinh-tồn được nếu bị
đẩy ra ngoài nước quá lâu. Trong khi mặt biển lên xuống theo thủy-triều, độ cao
mực nước lại cũng ảnh-hưởng theo với cả tình-trạng nóng lạnh của trái đất. Khi
băng đá tích-tụ nhiều ở hai địa-cực thì mực nước biển thấp, khi băng đá tan rã
thì mực nước dâng lên cao.
Giáo sư Sơn-Hồng-Đức cho rằng các đảo san-hô không thể nào cao hơn
mực nước cao nhất của bể thời trước.
Tại quần-đảo Hoàng-Sa, ngoài Đảo Đá là hòn cao nhất, tới 50 ft (16
m); những hòn đảo khác thấp hơn nhiều. Nhìn chung các đảo Hoàng-Sa cao hơn hẳn
những đảo ở Trường-Sa vì Nam-yết là đảo cao nhất của quần-đảo Trường-Sa chỉ vào
khoảng 15ft, hay chưa quá 5m (có tài-liệu ghi 20m hay 60ft, những con số này
không đúng.)
Hình 70 - Theo P. Chevey, các ám-tiêu san-hô không mọc cao được vì
phần san-hô nằm trên mực nước lớn của thủy-triều sẽ bị chết. Chỉ cách Hoàng-Sa
chừng hơn 100 Hải-lý về phía đất liền Việt-Nam, mà hòn Cù-Lao Ré nhờ sự cấu-tạo
địa-chất khác-biệt nên rộng lớn (dài khoảng 5km) và cao hơn nhiều, tới 590 ft
(180m.
cao-độ của các đảo san-hô khiêm-tốn như vậy, những người lái tàu thuyền chỉ
nhận ra đảo khi lại thật gần. Đảo đã thấp sát mặt biển, lại còn rải rác nhiều
bãi cạn hay rặng san-hô mọc ngầm nữa. Những nguy-cơ thảm khốc cho người đi biển
thật bất ngờ và thật nhiều. Khi thời-tiết xấu và trong đêm tối, đặc-biệt lúc
giông bão; số lượng thương-thuyền hay chiến-hạm đã mắc cạn ở những vùng này
không có thống-kê nào ghi lại cho hết được. Có nhiều xác tàu trơ trọi, những
ống khói và đài chỉ-huy nhô lên mặt biển nhắc nhở bao tai-nạn hãi-hùng đã xảy
ra.
10.3.2 - Tuổi đảo: thật già và thật
trẻ .
- Hiện chưa có sự định tuổi chính-xác cho các đảo Hoàng-Sa /
Trường-Sa, nên chúng ta chỉ có thể phát-biểu một cách tổng-quát là sự hiện-hữu
của chúng đã từ cuối đệ tứ nguyên-đại, trong vòng nhiều triệu năm...
Xin lấy một thí-dụ để so sánh tuổi-tác của bãi ngầm san-hô Bikini
thuộc quần-đảo Marshall Islands, nơi vụ thí-nghiệm nổ nguyên-tử ngầm dưới nước
diễn ra năm 1946. San-hô nơi đây, tương-tự như Hoàng-Sa / Trường-Sa, nhưng dầy
tới hàng ngàn feet, được định tuổi là 30,000,000 năm.
Chúng ta biết rằng từ khi biển thành-hình, mực nước biển đã từng
lên xuống nhiều lần. Vì mực nước ngày nay đang ở cao-độ tối-đa và san-hô chỉ
mọc trong nước, thế nên phần phía trên của đảo chắc chắn chỉ mới xuất hiện
trong vòng mười mấy ngàn năm trở lại đây, khi nước biển ở mức-độ 40 hay 50m
thấp hơn hiện-thời. Phần san-hô chìm sâu trong lòng biển hẳn nhiên phải già nua
hơn nhiều.
-Căn-cứ trên những tài-liệu nghiên-cứu đã phổ-biến, các nhà
địa-chất tin-tưởng rằng nhiều đảo san-hô trong Biển Đông đang tiếp-tục
thành-hình và một số đảo sẽ có thể bị biến mất vì những chuyển-động địa-chấn.
Báo Economist, July 7, 1990 loan tin chỉ mới đây, vào năm 1988
bỗng-nhiên có một hòn đảo nhỏ nổi lên gần bờ vùng Sabah của Mã-lai-Á, cho dù
không có những rung-chuyển địa-chấn gì dữ dội (bài "Fishing for Trouble in
the Spratlys", trang 36.)
Ngoài ra sự hình-thành cũng như sự tồn-tại của các đảo còn
lệ-thuộc vào môi-trường sinh sống của san-hô như ánh-sáng, nhiệt-độ, đặc-tính
đáy biển, độ mặn và lượng Oxy trong nước biển...
-Theo những tài-liệu ghi nhận được từ các nhà hàng-hải thì trong
khoảng vài trăm năm nay trở lại đây, một số đảo mới tiếp-tục xuất-hiện và cao
dần:
*Vào tiền-bán thế-kỷ XIX, ông Gutzlaff thuộc hội Geographical
Society of London đã viết trong bài nhan-đề "Geography of the
Cochinchinese Empire" (báo The Journal of the Asiatic Society of London
năm 1849) như sau: "... quần-đảo Cát Vàng gần bờ biển An-Nam, nằm giữa các
vĩ-tuyến 15 và 17 độ Bắc và các kinh-tuyến 111 và 113 độ Đông... không biết vì
san-hô hay vì lẽ gì khác mà các ghềnh đá ấy cứ lớn dần, thật rõ ràng là các đảo
nhỏ ấy cứ mỗi năm mỗi cao hơn. Có vài hòn bây giờ có thể cư-trú được mà mấy năm
trước, sóng còn vỗ mạnh đập tràn qua ..."
*Bãi Thuyền Chài tại quần-đảo Trường-Sa chỉ mới nổi lên mấp mé mặt
nước hồi gần đây. Toàn bãi hiện nay đã dài khoảng 32 km, chỗ rộng nhất vào
khoảng 5 - 6 km (Lịch văn-hóa Việt-Nam, Hà-nội 1989.) Như vậy bãi đang cao dần,
có thể sau này vài ba chục năm sẽ trở thành đảo hay một nhóm đảo nhỏ. Tuy vậy
hiện nay bãi Thuyền Chài chưa có đủ an-toàn cho con người cư-trú.
10.4 - Hoàng-Sa và Trường-Sa thuộc Việt-Nam về phương-diện vị-trí.
Quần-đảo Hoàng-Sa nằm giữa vùng Biển Đông của nước Việt-Nam, ngang
bờ biển các tỉnh Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam và một phần Quảng-Ngãi. Còn
hầu hết các đảo của Quần-đảo Trường-Sa nằm ngang vĩ-độ với Phan-Rang - Cà Mâu .
Về khoảng cách đất liền, quần-đảo Hoàng-Sa nằm gần Việt-Nam nhất.
Sự so sánh như sau:
-Khoảng cách từ đảo Tri-Tôn (15 độ 47'N, 111 độ 12'E) tới Lý-Sơn
hay Cù-lao Ré (15 độ 22'N, 109 độ 07'E) là 2 độ 03 phút trên thước đo khoảng
cách vĩ-độ, tức chỉ có 123 hải-lý.
Nếu lại lấy tọa-độ (Lý-Sơn 15 độ 23.1'N, 109 độ 09.0'E) từ trong
bản tuyên-cáo đường căn-bản nội-hải của chính-quyền CHXHCN Việt-Nam
(Declaration on Baseline of Territorial waters, 12 November 1982) thì khoảng
cách đến bờ Cù-lao Ré thu ngắn lại dưới 121 hải-lý.
Từ đảo Tri-Tôn này đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan- 15 độ 14'N,
108 độ 56'E) tức đất liền lục-địa Việt-Nam, khoảng cách đo được 135 hải-lý.
-Trong khi đó, khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải-Nam xa tới
140 hải-lý (đảo Hoàng-Sa - 16 độ 32N, 111 độ 36 E và Ling-sui Pt hay Leong-soi
Pt - 18 độ 22 N, 110 độ 03 E.) Khoảng cách từ Hoàng-Sa tới đất liền lục-địa
Trung-Hoa còn xa hơn rất nhiều, tối-thiểu là 235 hải-lý.
-Nếu người Trung-Hoa dùng "bãi đá ngầm" (North Reef)
là m chuẩn để đo đến bờ
"đảo" Hải-Nam tại Ling-sui Pt, họ "tạo" ra khoảng cách thật
gần: 112 hải-lý! Điều đó không thể là một lý lẽ tranh cãi vì đá ngầm không có
giá-trị như đảo trong việc chuẩn-định ranh giới.
Luận-lý khoảng cách và số lượng đảo của người Việt lúc xưa như
Đỗ-Bá, Lê-quý-Đôn không hoàn-toàn sai lạc quá đáng như cách-thức xuyên-tạc của
người Trung-Hoa khi cho rằng Bãi Cát Vàng trong sách cổ Việt-Nam không phải là
quần-đảo Hoàng-Sa ngày nay. Lý-luận của họ thật ngoan-cố hay kiến-thức hàng-hải
của họ ấu-trĩ khi nói rằng thuyền đi một vài ngày làm sao tới được Hoàng-Sa.
Hình 71- Bản-đồ ghi khoảng cách các đảo gần nhất của quần-đảo
Hoàng-Sa đến các đảo gần đất liền (Trích từ Bản-đồ Southeast Asia- National
Geographic Society- Washington DC, 1968.)
Các nhà hàng-hải ngoại-quốc như Pierre Paris (1942), J. B. Piétri
(1949) cho biết ghe thuyền chạy buồm Việt-Nam xưa nay có vận-tốc rất cao, vượt
các tàu thuyền Âu-châu đồng thời. Chiến-thuyền thời chúa Nguyễn đã chứng tỏ
luôn luôn chiếm ưu-thắng về vận-tốc khi hải-chiến. Hải-quân Việt nhiều lần đánh
đuổi tàu Hòa-Lan (năm 1644) cũng như đã từng trước đó đánh chìm hai tàu của họ
(năm 1643) nhờ chạy nhanh.
Sự thật rành rành, Tri-Tôn là một trong các đảo Hoàng-Sa chỉ cách
bờ đất Trung-Việt có 135 hải-lý, cách bìa Cù-Lao Ré 121 hải-lý. Các đội
Hoàng-Sa đặt căn-cứ và xuất-phát từ Cù-lao-Ré. Khi thuận buồm, suôi gió, với
vận-tốc 12 gút (hl/giờ), cơ-hội cho những ghe bầu Việt vượt khoảng này trong
vòng nửa ngày không phải không có .
Ngay trong những sách cổ cũng nói là thuyền ta đi từ Quảng-Ngãi
đến Quảng-Đông chỉ trong 3, 4 ngày. Từ bờ ra Tri-tôn khoảng cách ngắn ngủi hơn
1/6 đoạn đường kể trên. Người thời nay, có lẽ vì ít đi biển nên cho rằng việc
chạy ra đảo khó khăn quá chăng? Học-giả Lê-quý-Đôn khi viết trong
"Phủ-biên Tạp-lục", đã cho biết những đường giao-thương vượt biển dễ
dàng hồi hai ba thế-kỷ về trước như sau: "Xứ Thuận-Quảng, đường thủy và
các đường lục giao-thông với tỉnh Quảng-Nam... Còn đường biển thì hai xứ Thuận
Quảng chỉ cách tỉnh Mân và tỉnh Quảng-Đông của Trung-Quốc có ba bốn ngày đường
nên các tàu buôn Trung-Quốc từ xưa đến nay thường-thường tụ-tập ở hải-phận
Thuận-Hóa và Quảng-Nam."
Nếu Trung-Cộng nói Hoàng-Sa trong sách cổ Việt-Nam không phải
Hoàng-Sa vậy thì ngoài khơi Cù-lao-Ré (Lý-sơn) trở ra biển có còn bất cứ một
đảo hay quần-đảo nào (ngoài Hoàng-Sa) hay không? ... còn có đảo nào nằm giữa
Cù-lao Ré và quần-đảo Hoàng-Sa nữa đâu ?
Bản-đồ cổ của Á-Đông không đặt nặng tỷ-lệ. Trên các bản-đồ
tượng-hình của ta và của Tàu có khi cả một quận, một tỉnh chỉ được vẽ lớn bằng
một cửa sông, một ngọn núi lớn hàng trăm dậm. Sử-gia Phạm-văn-Sơn đã viết:
"... Kỹ-thuật của ta trong việc vẽ bản-đồ đã theo lối tượng-hình, như vậy
có khác kỹ-thuật vẽ bản-đồ của Âu-châu có phần tinh-vi hơn nhưng dù sao lối vẽ
của ta cũng như của Tàu vẫn có thể giúp người coi hình-dung được thế sông ngòi,
núi non và các địa-phương trong nước." (Việt-sử Toàn-thư, 1960: 489.)
Bỏ ngoài những khoảng cách lớn nhỏ không theo tỷ-lệ như đã nói,
người ta thấy bản-đồ cổ thời Hồng-Đức (1460-1498) do nho-sĩ Đỗ-Bá công-bố
(khoảng 1630-1653) và bản-đồ nhà Nguyễn chỉ-định rõ ràng là vị-trí Hoàng-Sa /
Trường-Sa nằm ở ngoài khơi duyên-hải Việt-Nam.
Hình 72 -
Bản-đồ cổ chỉ-định vị-trí Hoàng-Sa Trường-Sa nằm ngoài khơi Biển
Đông. (Trích Đại-Nam Nhất-thống Toàn-đồ triều Nguyễn.)
Người Tàu vẫn tự cho là nước họ giỏi Địa-lý, và bản-đồ Trung-Hoa
vẽ chính-xác hơn bản-đồ Việt-Nam nhưng triều-đình hay dân Trung-Hoa đã có
thực-hiện một bản-đồ nào ghi nhận những chi-tiết địa-lý tương-tự về Hoàng-Sa
Trường-Sa như vậy không?
10.5 - Hoàng-Sa/ Trường-Sa thuộc Việt-Nam về phương-diện địa-hình
đáy biển.
Về địa-hình đáy biển, quần-đảo Hoàng-Sa nằm sát với thềm lục-địa
của Việt-Nam.
-Toàn thể khu-vực quần-đảo Hoàng-Sa nổi cao hơn vùng biển vây
quanh nó. Nền đất toàn quần-đảo này được nối thẳng vào thềm lục-địa Việt-Nam
như là qua một cái cửa ngõ thông vào vùng cù-lao Ré và bờ biển Quảng-Ngãi.
Hành-lang đó khá nông, chỗ sâu nhất chỉ chừng 500 m. Trong khi đó, đáy biển đột
ngột lại sụt xuống về phía Trung-Hoa, độ sâu lên tới hàng ngàn mét, rồi 2000m,
3000m hay hơn nữa.
-Những hải-đồ có ghi độ sâu đáy biển chứng-minh rõ sự kiện này. Đường
đồng- thâm (thủy) 1000 thước bao kín các vùng về phía Bắc và Đông, trong khi
lại mở rộng qua phía Việt-Nam theo chiều hướng Tây Tây Nam.
Hình 73 - Bản-đồ chiều sâu đáy biển chứng-minh quần-đảo Hoàng-Sa
là phần nối dài của lục-địa Việt-Nam.
Nói một cách khác, nếu mực nước biển hạ xuống chừng 600 tới 700 m
thì Hoàng-Sa dính vào Việt-Nam như một khối đất liền và xa cách hẳn Trung-Hoa
bằng một vùng biển nước sâu.
Tiến-sĩ Krempf, giám-đốc Hải-học-viện Đông-Dương là người đầu tiên
đã đo đạc kỹ-lưỡng độ sâu đáy biển Hoàng-Sa và thấy rằng quần-đảo này là một
cái bình-nguyên ngoài biển, được nối dài ra từ rặng núi Trường-Sơn của
Trung-phần Việt-Nam. Trong tờ tường-trình kết-quả khảo-sát năm 1925, ông
kết-luận: "Về phương-diện địa-chất, như vậy, những đảo Hoàng-Sa là một
phần của Việt-Nam." (Géologiquement, donc, les Paracels font partie du
Việt-Nam.)
Bài báo-cáo được ghi nhận lại trong tập tổng-kết báo-cáo của Nha
Thủy-Đạo và Ngư-Nghiệp lên chính-quyền Đông-Pháp niên-khóa 1926-1927.
Nội-dung những kiến-thức về Hoàng-Sa tương-tự như vậy được Olivier
A. Saix đăng lại trong báo La Géographie, Tome LX, Nov.-Dec. 1933, trang
232-243.
Sau này có một bài tham-khảo nữa của Marcel Beauvois cũng là một
người Pháp như Krempt, lập lại sự kiện "về phương-diện địa-chất, Hoàng-Sa
là một phần của Việt-Nam" này (bài "Les Archipels Paracels et
Spratly", báo Vietnam Press, Saigon No.7574, Nov 1971.)
Về địa-hình đáy biển, Trường-Sa cũng rõ rệt nối liền với Việt-Nam
hơn bất cứ một quốc-gia nào khác bao quanh Biển Đông. Bờ biển Nam-phần Việt-Nam
chạy thoai-thoải tới tận bãi Tứ-Chính thuộc Trường-Sa. Trong thời Băng-Đá, sông
Cửu-long cùng những con sông nhỏ khác trên đồng-bằng Sunda đã đưa phù-sa theo
dòng nước chảy ra biển Trường-Sa.
Nhìn trên những hải-đồ có ghi các đường đồng-thâm, người ta thấy
quần-đảo Trường-Sa cách biệt hẳn với thềm lục-địa Trung-Hoa / Đài-Loan bằng
rãnh biển sâu 3,000m về phía Bắc và phía Đông-Bắc. Trường-Sa cũng ngăn cách với
Phi-luật-Tân, Brunei và Mã-lai-Á (Tiểu-bang Sabah) bằng rãnh biển East Palawan
Trough (The Spratly Islands Dispute and the Law of the Sea, Lee G. Cordner, báo
Ocean Development and International Law, Vol. 25, pp 61-74.)
Hình 74 - Bản-đồ chiều sâu đáy biển chứng-minh quần-đảo Trường-Sa
là phần nối dài của lục-địa Việt-Nam.
Sau khi nghiên-cứu nhân-văn, địa-hình vùng ĐNÁ thời tiền-sử,
giáo-sư môn Địa-Lý Keith Buchanan trường Đại-học Victoria, Tân-Tây-Lan đã vẽ ra
một bản-đồ có liên hệ tới địa-bàn di-dân từ Biển Đông vào đất liền. Sự thay đổi
sinh-hoạt ??? này là nguyên-do kiến-tạo nền văn-hoá Hoà-Bình. Xin xem lại Hình
3. Thời đó nước cạn, Hoàng-Sa và Trường-Sa dính vào đất liền Việt-Nam (The
Southeast Asian World, An Introductory Essay, Keith Buchanan, New York, 1967,
trang 45.)
10.6 - Hoàng-Sa/ Trường-Sa thuộc Việt-Nam về Phương-diện Địa-chất
và Sinh-học.
Một người gốc Trung-Hoa như Ting Tsz Kao đã nói rằng nhìn chung
thấy sự tuyên-bố chủ-quyền của Trung-Hoa ở Nam-Hải là điều kỳ-quặc và tham-lam
quá đáng, nhưng xét về địa-lý thì đúng là của Tàu (sic.)
Chỉ vì sự tham-lam mà các ông trí-thức như vậy đã biện-luận một
cách chủ-quan, không cần phải trái, bất-chấp cả lý-lẽ hiển-nhiên về địa-lý.
Nguyên-văn lời ngụy-biện đó như sau: "This island complex in international
waters appears at first sight a little odd or monstrous. But when one considers
the geographical composition of the Chinese ocean frontier as a whole, the
continuity of the possession of the archipelagoes becomes perceivable and
reasonable." (The Chinese Frontiers, Illinois 1980: 289.)
10.6.1 - Địa-chất. Các đảo của Trung-Hoa từ Bành-Hồ, Đài-Loan trở
lên phía Bắc, cấu tạo bằng những đất đá của nền đại-lục như granite, igneous
rock khác hẳn các đảo vùng Biển Đông của ta cấu-tạo bằng san-hô. Các quần-đảo
lại không quy-tụ nhiều đảo. Chỗ Kim-Môn (12 đảo) Mã-Tổ (7 đảo), các hải-đảo khá
cao và lớn, số lượng đảo thưa thớt. Xuống đến Pratas, tuy người Tàu gọi cưỡng
ép là Đông-Sa Quần-đảo (Tungsha) nhưng xứng-đáng kể là đảo (Island) theo Luật
Biển, chỉ có thể ghi-nhận một đảo mà thôi. Số-lượng này ít ỏi quá, không sao có
thể nói là tương-đồng với số lượng là 500 đơn-vị đất đá ở Hoàng-Sa và Trường-Sa
được.
Hình 75 - Bản-đồ "quần-đảo" Pratas với một đảo duy nhất.
Về những thành-tố cấu tạo, hai quần-đảo Hoàng-Sa cũng như
Trường-Sa mang đặc-tính Việt-Nam:
- Các đảo đều là những ám-tiêu san-hô tiêu-biểu cho vùng biển
nhiệt-đới của Việt-Nam.
-Khí-hậu ôn-đới của Trung-Hoa không cho phép sự cấu-tạo các
quần-đảo san-hô rộng lớn như vậy. Người ta cũng chẳng bao giờ thấy tuyết rơi ở
Hoàng-Sa như nơi Hoa-lục.
10.6.2 - Sinh-thực . Cây cỏ trên đảo đều là cây cỏ nhiệt-đới loại
cây cỏ đất liền Việt-Nam. Nhiều cây lớn được người Việt-Nam mang ra trồng từ
lâu. Cây mọc cao như các dấu hải-hiệu giúp cho nhiều tàu thuyền tránh khỏi
tai-nạn mắc cạn. Cây cũng giúp đảo giữ đất, tránh sóng, gió, nước xâm-thực.
Đại-Nam Thực-lục Chính-biên đệ-nhị kỷ quyển 104 chép rằng: Vua
Minh-Mạng bảo bộ Công: "Trong hải-phận Quảng-Ngãi, có một dải Hoàng-Sa, xa
trông trời nước một mầu, không phân biệt được nông sâu. Gần đây, thuyền buôn
thường mắc cạn bị hại. Nay nên dự-bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người
tới đó dựng miếu lập bia, và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh
tốt, người ta dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được mắc cạn. Đó cũng là việc
lợi muôn đời."
Người Tàu nói dựa vào sử-ký tuyên-bố chủ-quyền toàn thể Biển Đông,
nhưng không có sử sách nào của người Tàu ghi được công-lao hay chứng-tích
tương-tự như vậy!
10.6.3 - Sinh-hóa . Lòng Biển Đông chất chứa các lớp
thủy-tra-thạch. Sau nhiều triệu năm các chất hữu-cơ đã tích-tụ lại, chịu sức ép
của nhiều lớp địa-tầng nên dần dần biến đổi thành dầu hỏa hay khí đốt. Các
khoa-học-gia cũng thấy những đặc-tính Việt-Nam trong sự biến-thể đó như sau:
- Bản-đồ địa-chất ghi nhận dấu vết những dòng sông thời xưa chảy
ra tới tận trung-tâm Biển Đông.
- Tài-nguyên đáy biển như dầu hỏa và khí đốt thường tạo thành
những túi kẹt giữa những lớp kết tầng (sediments.)
- Nhiều lần trái đất đã trải qua những thời-kỳ Băng-Giá lạnh lẽo.
Nước biển hạ xuống rất thấp và vịnh Bắc-Việt đã qua nhiều giai-đoạn khô cạn
cùng ngập nước nối-tiếp nhau. Khi khô cạn, đó là một vùng đồng-bằng bằng phẳng,
ít núi non. Bờ biển lúc này chạy ra xa, tới gần Hoàng-Sa.
- Sông Hồng-Hà của Việt-Nam đã từng cuồn cuộn chảy với lưu-lượng
nước nhiều lần lớn hơn hiện-thời. Có lẽ mấy triệu năm trước trong thời địa-chất
Pleistocene, dòng sông nước đỏ phù-sa này vào hạng lớn nhất hoàn-cầu. Khi đó,
hầu hết nước từ cao nguyên Tây-tạng đã đổ vào sông Hồng. Từ trên cái "mái
nhà của trái-đất", nguồn nước hùng-vĩ đã mang ra Biển Đông những
khối-lượng phù-sa khổng-lồ, tạo nhiều lớp kết tầng thủy-tra-thạch tại Hoàng-Sa.
Rồi dòng sông chính của miền Bắc nước ta bị thu nhỏ khi địa-chấn xảy ra, nâng
cao khu Vân-Nam cắt ngắn thượng-nguồn Hồng-Hà lại như ta thấy hiện nay. Nguồn
nước từ đó bắt đầu chảy sang phía Dương-Tử-Giang làm con sông vùng Hoa-Nam thêm
to lớn. (The Junks & Sampans of the Yangtze, G. R. G. Worscester,
Annapolis, 1971: 2.)
Cũng nhớ rằng vùng châu-thổ Dương-tử-Giang lúc xưa, theo sử Tàu,
cũng có người Việt cổ sinh sống. (Xem hình số 12.)
Hình 76 - Bản-đồ đáy biển với các con sông thời cổ nối dài theo
sông Hồng, nước chảy ra biển Hoàng-Sa.
- Sông Cửu-Long hay Mê-Kông của miền Nam nước Việt cũng đã làm
việc tương-tự như vậy để cấu-tạo nên những lớp thủy-tra-thạch ngoài khơi
Trường-Sa. Mới chừng chục ngàn năm trước, sông Kông (Sông Mẹ với Kông là sông -
Mê là mẹ ?) từng đưa nước tưới khắp phía Đông-Nam của vùng bình-nguyên rộng lớn
Sunda.
Các túi dầu như Rồng, Dừa, Bạch-Hổ, Đại-Hùng ... chỉ mới là những
kết-quả sơ-khởi. Cứ đi theo vết cũ của sông Kông, càng ra xa chúng ta càng có
thêm hy-vọng tìm thấy nhiều túi dầu lớn hơn nữa .
Hình 77 - Bản-đồ đáy biển với các con sông thời cổ nối dài theo
sông Cửu-Long, nước chảy ra biển Trường-Sa. (Hình 76&77 của Geological
Topographic Mapping Party of Fujian Province, 1980's.)
Cũng tương-tự như thực-vật trên đảo, các thủy-sinh-vật dưới Biển
Đông mang những mối liên-hệ Việt-Nam:
-Một tỷ-lệ lớn những chất hữu-cơ ở Biển Đông được mang đến nhờ
những dòng nước chảy từ lục-địa Việt-Nam mà ra. Các chất dinh-dưỡng cho
thủy-sinh-vật cũng cùng một nguồn đất Việt-Nam đó.
-Nhiều hải-sinh-vật Hoàng, Trường-Sa thuộc vùng
nhiệt-đới, rất quen thuộc với người Việt chúng ta nhưng xa lạ với người Tàu.
Báo-chí cho biết vào tháng 9/1994, Trung-Hoa khai-mạc khu trưng-bày 5000 mẫu
sinh-vật Hoàng-Sa thì phần 500 hải-sinh-vật đã được hết sức tán-thưởng. Lý-do
đúng nhất là vì hải-sinh-vật Hoàng-Sa vốn xa lạ quá, nhiều người Trung-Hoa mới
chỉ thấy lần đầu mà thôi, họ đi xem cho thỏa tính hiếu-kỳ! |