11 - Thảo mộc Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Thảo-mộc hai quần-đảo Hoàng, Trường có nhiều điểm đáng nói:
11.1- Tổng-quát về thảo-mộc các đảo ngoài biển đông.
Nói chung, thảo-mộc các đảo giữa Biển Đông không nhiều và không
được to lớn như trong đất liền. Thảo-mộc Hoàng-Sa Trường-Sa cũng không tươi-tốt
khi đem ra so sánh với những cây cỏ mọc trên các đảo vịnh Bắc-Việt, vịnh
Phú-Quốc. Về cây lớn, ít có đại-thọ và không thấy các loại gỗ quý. Về thân
thảo, đáng kể đến loại Nam-Sâm mọc nhiều ở Trường-Sa và một số đảo khác ở Biển
Đông. Đây là một dược-liệu quý-giá. Một số loại cỏ hay giây leo khác nữa mọc
lung-tung nhưng không nhiều.
Trên duyên-hải và trên những đảo ven biển Việt-Nam, cây dừa mọc
khắp nơi và phi-lao rất nhiều, Hoàng-Sa và Trường-Sa lại khác hẳn. Dừa và
phi-lao mọc trên các đảo thật thưa thớt, có đảo không có một cây dừa nào.
Linh-mục Henry Fontaine và giáo-sư Lê-văn-Hội xác-định "Không
có loại thảo-mộc nào là tại chỗ cả, tất cả từ vùng đất liền du-nhập đến bằng
nhiều cách ... Mọi thảo-mộc hiện có ở Hoàng-Sa đều tìm thấy ở Việt-Nam, nhất là
miền Trung Việt-Nam (Góp thêm vào sự tìm hiểu tộc-đoàn thảo-mộc trên quần-đảo
Hoàng-Sa - báo Khảo-cứu Niên-san Khoa-học Đại-học-đường Sài-Gòn 1957.)
Hình 78 -
Một hình-ảnh thảo-mộc quen thuộc ở Hoàng-Sa và Trường-Sa.
11.2 - Tài-liệu của giáo-sư
Fontaine.
Về dữ-kiện khoa-học, chúng
tôi xin trích một vài đoạn trong bài "Hoàng-Sa dưới mắt nhà Địa-chất H.
Fontaine" của Lạp-Chúc Nguyễn-Huy, đăng trong Đặc-San Sử-Địa số 29, năm
1975 để làm tài-liệu.
Những chữ phần gc (ghi-chú)
do chúng tôi mạn phép ghi thêm cho dễ hiểu :
... Về tộc-đoàn thảo-mộc,
cho đến nay người ta mới biết có bốn loại: Scaevola Koenigii VAHL
(Goodeniacée), Wedelia biflora DC (Composée), Guettarda speciosa LINNé
(Rubiacée) và Tournefortia agentae (Boraginacée) (Saurin, 1955, tr. 14-15.)
... Dưới đây là các
định-danh, một phần đã được ông Schmidt làm:
GRAMINéES (gc= họ hoà-bản)
* Eleusine indica GAERTIN:
đảo Pattle [Hoàng Sa) (ít gặp): cây gặp khắp nơi tại Việt Nam, Cao Miên, Ai
Lao, Thái Lan. Vùng nhiệt-đới và bán nhiệt-đới của cựu-lục-địa.
* Eragrotis amabilis WIGTH
ET ARN: đảo Pattle [Hoàng Sa](ít gặp): khắp nơi ở Việt-Nam, „n-độ, Mã-Lai.
* Eriochloa racemosa HACK:
đảo Roberts (Hữu-Nhật) (ít) gặp khá thường ở Việt-Nam, Á-Châu, Phi-Châu,
Mã-Lai, Úc-đại-Lợi.
* Brachiaria distachya A.
CAMUS: đảo Pattle (Hoang-Sa) (ít): khắp nơi ở Việt-Nam, „n-Độ, Trung-Hoa,
Mã-Lai, Úc-đại-Lợi.
* Lepturus repens R. Br.:
(ít); được thấy ở Bắc-Việt, Thái-Lan, Tích-Lan, Đại-Dương-Châu.
AMARANTACéES (gc= họ dền)
Achyrantes aspera LIN.: đảo
Money (Quang Ảnh) (thường): cây mọc trên hoang-địa, rất thường ở Việt-Nam, Cao-Miên,
Ai-Lao, Trung-Hoa, „n-Độ.
NYCTAGINACéES (gc= họ
bông-phấn)
Boerhaavia repens LIN.: đảo
Money [Quang Ảnh), đảo Drummond [Duy Mộng): khắp nơi ở Việt-Nam, Cao-Miên, Hoa
Nam, „n-Độ, Phi-Luật-Tân, Java, Phi Châu, Mỹ-Châu.
PORTULACACéES (gc= họ sam)
Portulaca pilosa LIN.: đảo
Pattle (Hoàng Sa] (trên những lối đi); Trung-Việt, Ai-Lao, Thái-Lan (xuất-xứ
tại Châu Mỹ nhiệt-đới.)
LAURACéES (gc= họ quế)
Cassytha filiformis LIN.:
đảo Pattle [Hoàng Sa], đảo Roberts [Hữu Nhật] thường gặp ở Việt Nam, vùng
nhiệt-đới.
MALVACéES (gc= họ bụp)
Sida corylifolia WALL.: đảo
Drummond [Duy Mộng); cây mọc ở Bắc-Việt, Ai-Lao, Thái-Lan, Hải-Nam, Java,
Madura, Phi-Luật-Tân. Sida rhombifolia LIN. var. parvifolia GAGNEP.: đảo Pattle
[Hoàng-Sa) (ít), Trung Việt.
TILIACéES (họ cò-ke)
Triumfetta pseudocanđ
SPER,: đảo Drummond (Duy-Mộng]; thường gặp ở Việt-Nam, Thái-Lan, Trung-Hoa,
Phi-Luật-Tân, „n-Độ.
Corchorus sp.: đảo Roberts
[Hữu-Nhật.)
ZYGOPHYLLACéES (gc= họ
quỷ-kiến sầu)
Tribulus terrestris LIN.:
đảo Pattle (hiếm); cây mọc trên duyên-hải cát Trung và Nam Việt-Nam. Vùng
nhiệt-đới và bán nhiệt-đới.
EUPHORBIACéES (gc= họ
thầu-dầu)
Euphorbia (thymofilia BURM?); đảo Roberts [Hữu Nhật) (hiếm.)
Euphorbia Atotao.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), cây trên duyên-hải,
thường gặp ở Việt-Nam, „n-Độ, lndonésia, Phi-luật-Tân, Trung-Hoa, Úc-đại-Lợi.
Phyllanthus Niruri LIN.: đảo Pattle (ít gặp): cây mọc trên
hoang-địa, ruộng vườn, khắp nơi ở Việt-Nam; Dưới chí-tuyến.
LUGUMINEUSES PAPILIONéES
(gc= lugumineuses, họ đậu)
Phaseolus (calcaratus ROXB.
?): đảo Money (Quang-Ảnh] (thường gặp.)
CONVOLULACéES (gc= họ bìm
bìm)
Ipomea Turpethum R. Br.:
đảo Pattle (Hoàng-Sa.) đảo Roberts [Hữu-Nhật), đảo Drummond (Duy-Mộng):
Việt-Nam, Trung-Hoa, Phi-Luật-Tân, Timor, Java.
BORAGINACéES (gc= họ lưu-ly
oa-cử)
Tournefortia argentea LIN.
F.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), đảo Robert (Hữu-Nhật): cây mọc trên giồng Trung-Phần
Việt-Nam, „n-Độ, Mã-Lai, Tích-Lan, Phi-Luật-Tân, Đài-Loan.
VERBENACéES (gc= họ
mã-tiên-thảo)
Premna sp.: đảo Money (Quang-Ảnh.)
Lippia nodiflora LIN.: Đảo Pattle [Hoàng-Sa); cây bò trên đất, rất
thường gặp ở Việt-Nam, nhất là trên vùng đất cát; Châu Mỹ nhiệt-đới và bán
nhiệt-đới và khắp Viễn-đông.
Stachytarphita jamaicensis LIN.: đảo Pattle (Hoàng-Sa) (hiếm), đảo
Robert (Hữu- Nhật) (thường gặp); khắp nơi ở Việt Nam. Cây xuất-xứ từ châu Mỹ
nhiệt-đới .
GOODENIACéES (gc= cỏ gai)
Scaevola Koenigii VAHL. (gc= cỏ gai rất rậm rạp): các đảo Pattle,
(Hoàng Sa] Money, [Quang-Ảnh), Roberts (Hữu-Nhật), Drummond (Duy Mộng), thường
gặp ở vùng ven biển Việt-Nam, vùng Đông-Á nhiệt đới, Đại-dương-Châu.
RUBIACéES (gc=nhàu)
Morinda citrifolia LIN..
var bracteata HOOK: đảo Pattle, Roberts, Drummond; cây hoang và có khi được
trồng ở Trung và Nam Việt-Nam, „n-Độ, Tích Lan, Mã-Lai. Cây này ít gặp trên
quần-đảo Hoàng-Sa (một hai cây trên mỗi đảo) và dường như được ngư-dân mang đến
và trồng vì dược-tính.
Guettarda speciosa LIN.:
đảo Money [Quang-Ảnh], đảo Drummond [Duy Mộng]; Nam Việt-Nam, Cao-Miên,
Thái-Lan, vùng nhiệt-đới .
COMPOSéES
Tridax procumbens LIN.: dảo
Pattle (Hoàng-Sa), đảo Roberts (Hữu-Nhật); khắp nơi ở Việt-Nam, „n-Độ.
Wedelia biflora DC.: đảo
Money (Quang-Ảnh), rất thường gặp ở Việt-Nam, „n-Độ, Thái Lan, Trung-Hoa,
Phi-Luật-Tân.
Eupatorium sp.: đảo Pattle (Hoàng Sa) (hiếm.)
Chúng tôi xin mạn phép Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ để được trình-bày một
số hình vẽ trong tập sách Cây cỏ Việt Nam, 1993 của Giáo-sư về thảo-mộc
Hoàng-Sa như sau:
Hình 79 - Hoa mười giờ -họ Sam- (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
Hình 80 - Cassytha filiformis (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
Hình 81 - Quỉ Kiến Sầu (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
Quần-đảo Hoàng-Sa mới nổi lên gần đây. Các mảnh đất mới này tạo
nên một chỗ trống cho cây cỏ đến và tiếp-tục đến chiếm lập. Từ các vùng đất
lân-bang đến bằng nhiều cách, các hạt giống đã nảy nở và thảo-mộc từ đó phủ
trùm gần hết các đảo Pattle, Roberts, Money và Drummond; nhưng tộc-đoàn
thảo-mộc đó chưa đủ thời-gian để trải qua một tiến-trình nhằm mang lại một
đặc-tính riêng-biệt. Không có loại thảo-mộc nào là tại chỗ cả..."
Tài-liệu của Giáo-sư Sơn-Hồng-Đức cho các chi-tiết sau đây:
Loại cây cao thường thấy là các cây dừa và phi-lao. Các cây này
mọc lẻ tẻ không thành rừng, dừa gần mé nước, phi lao sống trên bãi thường nhỏ
bé hơn những cây nơi vùng duyên-hải.
Kế đó là Bàng Bể (Sea Almond), tên La-tinh Terminalia, thường cao
cỡ 5 - 7m. Nhánh mọc ngang thành tầng, thân cây u nần, lá to mầu xanh vàng khi
khô trở nên đỏ. Cây cho quả với nhân lớn và cứng, nướng chín ăn béo như
hạnh-nhân.
Hình 82 - Bàng Biển (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
To như cây bàng có cây Mù U, tên La-tinh là Calophyllum
Inophyllum, lá xanh đậm, dài lối 2 tấc có nhiều gân phụ sít nhau màu nhạt hơn
mầu lá, hoa trắng có nhiều tiểu-nhuỵ mầu vàng rất quyến rũ các loài bướm đốm.
Trái Mù U cứng, tròn; thịt mầu vàng khi khô nhăn lại mầu xám xịt. Người ta có
thể lấy hạt ép dầu thắp đèn. Vỏ cây tiết ra mủ vàng, có người dùng trị ghẻ.
Cao chừng 4- 5m là loại cây còng tàn lá đặc-biệt với các lá nhỏ
không mấy rậm rạp. Thân cây cũng đặc-biệt, nứt nẻ như những đường gân.
Hình 83 - Mù U (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
Ngoài ra có Cây Nhàu và Sồi Sim, tên La-tinh là Quercus
Myrsinifolia Blum xuất-hiện rất ít ở vài đảo. Loại đại-mộc này cao tới 13- 15m,
nhánh non không lồng, lá thon mầu mốc ở bên dưới và xám lại lúc khô.
Dưới thấp có hội-đoàn thảo-mộc thích-ứng với môi-trường cát hay
cát pha phosphate như:
-Họ Bìm-Bìm (Convolulaceae) gồm Ipomea Bilola và Ipomea Littoralis
-Họ Hoà-Bản như Cỏ Chông (Spinifex Littereus), Cỏ Còng-Còng
(Zoysia Matrella),
-Cỏ Xạ-Tử (Sporobolus
Virginicus.)
-Cỏ Cú mà dân đánh cá
thường đào lấy củ về làm vị thuốc Bắc.
Loại thảo-mộc được ngư-dân
thích nhất là Nam-Sâm, rất quý vì có dược-liệu. Nam-Sâm, tên La-tinh là
Boerhaavia Vipeus, là một loại cỏ phần dưới trườn trên đất, ngọn cất đầu lên.
Lá có mấy phiến xoan tròn dài, chùm mang tụ-tán 3 hoa.
Hình 84 - Nam-Sâm là một
dược-thảo mọc rất nhiều ở đảo Trường-Sa.
Chung quanh các đảo còn có
nhiều thứ rong biển. Một vài loại có thể sử-dụng như phân xanh bón cây, một số
khác có thể khai-thác như rau câu, một dược-liệu mà đồng-thời cũng là món ăn
hàng ngày của một số dân-tộc Đông-Nam-Á. Nguồn lợi này có thể đưa đến hình-thức
xuất-cảng được. Có hải-tảo mệnh-danh là "Euchecha" dùng làm
nguyên-liệu cho kỹ-nghệ sản-xuất mỹ-phẩm như kem thoa mặt.
11.3 - báo-cáo của Kỹ-sư
Trịnh-tuấn-Anh.
Năm 1973, Kỹ-sư
Trịnh-tuấn-Anh sau khi khảo-sát tổng-quát địa-lý, đã làm một phúc-trình về đảo
Nam-Yết. Vì tình-trạng thực-vật ở đảo Nam-Yết không khác mấy so với các đảo
khác trong vùng nên ta có thể dùng phúc-trình trên làm tiêu-biểu. Kỹ-sư họ
Trịnh viết như sau: "Cây cối ở đây chỉ gồm một số ít loại có trái hoặc hạt
từ các vùng duyên-hải Việt-Nam. Sarawak và các đảo lân cận trôi tấp vào đó mọc
lên.
Sinh-cảnh thực-vật chính ở
trên hòn đảo gồm có Dừa và một loại cây thích-hợp với môi-trường biển mọc chung
quanh:
Tournefortia argentea Loài
Boraginaceae
Cocos nucifera Loài Palmae
Ngoài ra còn một số ít cây
khác với dây leo và cỏ, mọc rất tươi tốt gồm có:
-Bàng Fagraea crenulata Maingay Loganiaceae
-Nhàu Morinda angustifolia Roxb Rubiaceae
-Mù-u Calophyllum Inophyllum Lin Guttleferae
-Rau sam Portulaca Oleracea L. Portulacaceae
-Thuarea involuta R. Br Gramineae
Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh có
cùng nhận-xét như giáo-sư Sơn-Hồng-Đức về việc canh-tác. Hai ông cho rằng các
cây ăn trái như mãng-cầu hay nhãn và một vài loại hoa-mầu phụ như rau cải có
thể thích-hợp nhất. Cây trái nên trồng ở giữa đảo và rau cỏ nên trồng vào mùa
mưa.
12 - Tài-nguyên.
Tài-nguyên Biển Đông gồm có
phân bón trên các đảo, cá tôm thu-hoạch ngoài biển và dầu khí nằm sâu dưới lòng
biển:
12.1 - Phosphate.
Theo những bản phúc-trình
về tài-nguyên thì khối dự-trữ phosphate ở quần-đảo Hoàng-Sa có thể tới hơn 4
triệu tấn, nghĩa là đủ cho nhu-cầu phân bón của Việt-Nam Cộng-hòa trong vòng 25
năm (nhu-cầu những năm 1970.) Số lượng do Kỹ-sư Trần-Hữu-Châu phỏng-định vào
mùa thu năm 1973 là 3,595,000 m3 cho riêng 6 đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm.
Trọng-lượng mỗi m3 phosphate là 1.5 tấn. Nếu chỉ khai-thác một nửa thôi, số
lượng phosphate dùng được cũng tới 2,700,000 tấn.
Theo tài-liệu của Nha
Khoáng-Chất (Bộ Kinh-Tế VNCH) thì số lượng dự-trữ phosphate (trên các đảo chính
của quần-đảo Hoàng-Sa) như sau: *Hoàng-Sa, có từ 560,000 đến 1,000,000 tấn.
*Hữu-Nhật có lối 1,400,000
tấn.
*Quang-Ảnh có từ 700,000
đến 1,200,000 tấn.
*Duy-Mộng có từ 600,000 đến
1,000,00 tấn.
(trích bài của Giáo-sư
Sơn-Hồng-Đức, Đặc-San Sử Địa 29, 1977, trang 204.)
— Trường-Sa, số lượng
phosphate chưa được tính toán đầy đủ, nhưng ước-lượng cũng hàng triệu tấn.
Công-việc khai-thác nguồn lợi này ở Trường-Sa đã nhiều lần dở dang. Trước thời
1975, người ta còn thấy trên các đảo ở Trường-Sa nhiều đống phân chim gom lại
chưa di-chuyển đi hết.
12.2 - Ngư-nghiệp.
Hàng năm, vùng Biển Đông
thu-hoạch được khoảng 5 hay 6 triệu tấn hải-sản, chiếm vào khoảng 1/14 tổng-số
sản-lượng của thế-giới (70 hay 80 triệu tấn.) Khả-năng thu-hoạch còn có thể cao
hơn nhiều, ít nhất là 3 triệu tấn nữa.
Hình 85 - Mức-độ khai-thác
ngư-nghiệp tại Biển Đông, cao nhất tại vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lai và dọc
duyên hải.
Cá thu
Loại cá đang được khai-thác
có kế-hoạch quy-mô nhất là cá thu, danh-loại Thunnus Thynnus. Thịt cá này ăn
thật ngon, bán rất được giá. Cá thu Yellowfin Tuna sống gần như khắp nơi ở Biển
Đông, suốt dọc từ phía bắc Hoàng-Sa đến phía nam Trường-Sa, di-chuyển theo mùa
tới tận Mindanao và Borneo.
Chỉ riêng trong khu-vực
phía đông của Trường-Sa, ước-lượng thu-hoạch hàng năm tới 50 triệu Mỹ-kim. Sau
Yellowfin Tuna, các loại Skipjack Tuna, Bigeye Tuna, Mackerels cũng nhiều.
Ngoài các tàu đánh cá
Phi-luật-Tân đang hoạt-động sôi nổi nhất trong kỹ-nghệ đánh cá thu, số tàu
Trung-Hoa cũng đã tăng-gia nhiều. Việt-Nam mới bắt đầu khai-thác.
Hình 86 - Bản-đồ chỉ-đẫn
đường di-chuyển của các loại cá thu theo mùa qua những vùng biển do nhiều
quốc-gia kiểm-soát.
Theo giáo-sư Vũ-Tự-Lập thì
vùng biển Hoàng-Sa và Trường-Sa là đối-tượng tranh-chấp về ngư-trường. Những
trữ-lượng quan-trọng về hải-sản đang bị các Tàu đánh cá Nhật-Bản và Nam-Hàn
khai-thác (Atlas du Việt-Nam, Vũ Tự Lập & Christian Taillard, Reclus et La
Documentation Francaise, 1994, trang 36.)
Hình 87 - Loại lưới bắt cá
ăn nổi.
Hình 88 - Loại lưới bắt cá
ăn chìm.
Ngoài cá thu, còn nhiều
loại cá hay hải-sản khác có thể mang lại những nguồn lợi lớn như tôm, cua, mực,
bào ngư, vi cá, rong biển ...
Trong thời-gian trước 1975,
Nha Ngư-Nghiệp thuộc bộ Canh-Nông của Việt-Nam Cộng-Hòa đã lập một bảng
danh-sách các hải-sản chính tại Biển Đông như sau:
-Cá ăn nổi: Cá Cơm, Cá Thu
ống, Cá Bạc má, Cá Nhám, Cá Rựa, Cá Sọc mướp, Cá trích, Cá ngừ, Cá chuồn, Cá
Nục, Cá Sòng.
-Cá ăn chìm: Cá chim, Cá
Chét, Cá Gộc, Cá Mối, Cá Thiều, Cá Đổng, Cá Bàn xa, Cá Đỏ gịa, Cá Hố, Cá Đuối.
Hình 89 - Các loại cá Biển
Đông quan-trọng cho ngư-nghiệp. (Theo tài-liệu của Nha Ngư-Nghiệp VNCH, 1970.)
Biển Đông khá kín gần như
Địa-trung-hải, chỉ thông ra ngoài đại-dương qua các ngõ hẹp như eo biển Malacca
và Karimata ở phía Nam; các eo Balabac và Mindanao ở phía Đông, eo biển
Đài-Loan và Bashi giữa Phi/ Đài-loan phía Đông Bắc. Ngày nay, sự tranh-chấp
ngư-trường đang xảy ra. Tuy chưa có chiến-trận giữa các lực-lượng hải-quân
nhưng đã có máu đổ của thường-dân trong vịnh Thái-Lan và nhiều ngư-phủ thuộc
các quốc-tịch khác nhau bị bắt giữ và tù tội.
Một khi hải-phận kinh-tế
200 hải-lý được tất cả các quốc-gia duyên-hải quyết-định thi-hành triệt-để, mà
ngày đó không còn xa, sự tranh-chấp về chủ-quyền đánh cá sẽ gia-tăng.
Tình-trạng chủ-quyền trên
Biển Đông còn rất mập mờ. — ngoài khơi, tàu thuyền đánh cá các nước hiện chen
kẽ nhau, không biết là mình đang đánh cá trên hải-phận nước nào.
Theo luật-gia Mark J.
Valencia, Việt-Nam phải đối đầu nhiều nhất với Thái-Lan và hai nước Trung-Hoa
trong những tranh-chấp về hải-phận đánh cá.
Ngày nay nhờ Luật Biển UNCLOS
được thi-hành, các nước quanh vùng Biển Đông sẽ có cơ-hội ngồi lại giải-quyết
những tranh-chấp về ngư-nghiệp trong vùng EEZ.
Theo điều-luật số 62
(UNCLOS, Article 62), Việt-Nam sẽ phải xác-định tổng-số sản-lượng hải-sản
dự-trù trong khu-vục kinh-tế của mình và ước-lượng khả-năng thu-hoạch của
ngư-dân. Hiện nay Việt-Nam chưa phát-triển đủ mạnh về kỹ-thuật đánh cá nên còn
lại một số lượng hải-sản thặng-dư đáng kể. Số hải-sản này nếu không sử-dụng
cũng tự-nhiên bị tiêu-tán, nên không thể để uổng-phí mà phải nhường lại cho các
quốc-gia khác trong trường-hợp được yêu-cầu.
Những nước nội-địa như
Ai-Lao cũng có thể được chia sẻ tài-nguyên của biển-cả. Chính-phủ nước này cần
khuyến-khích dân-chúng theo ngành hải-ngư-nghiệp. Quốc-gia duyên-hải thuận-lợi
nhất cho họ trong việc chia sẻ số hải-sản thặng-dư là Việt-Nam. Ngoài ra, dân
nội-địa sẽ có thể được quản-trị việc khai-thác ở những vùng biển chung, nằm bên
ngoài ranh-giới hải-phận của những quốc-gia duyên-hải.
Hình 90 - Vùng biển
"quốc-tế" nhỏ bé nằm ngoài những vòng tròn 200hl tính từ Hoàng-Sa,
Pratas, Philippines và Trường-Sa.
Việt-Nam đã có thỏa-ước về
đánh-cá trong hải-phận với Nga-Sô, Úc-đại-lợi, Đại-Hàn, Thái-Lan. Hải-sản trong
vịnh Thái-Lan đã bị khai-thác quá đáng gần như kiệt-quệ, nên ngư-phủ Thái-Lan rất
thèm khát nguồn-lợi biển Việt-Nam.
Trong trường-hợp tranh-chấp
Hoàng-Sa Trường-Sa được giải-quyết dứt khoát, nước nào có chủ-quyền dù là một
hay toàn thể quần-đảo đó cũng có quyền đòi-hỏi "chủ-quyền 200 hải-lý
kinh-tế" này tính từ đảo của họ. Các viện đại-học Hawai và Berkeley đã
phác-họa ra là "vùng biển quốc-tế" thâu lại rất nhỏ. Dải biển
diện-tích không đáng kể này nằm ở phía đông của Quần-đảo Hoàng-Sa. Nếu như một
nước nào đó lại lấy lý-do kéo dài thêm hải-phận (tối-đa là 350 hải-lý) thì
chẳng còn sót lại gì!
12.3 - Hải-sản phụ.
Trong nhiều ngàn năm qua,
người dân duyên-hải Việt-Nam đã nhờ những hải-sản Biển Đông mà sinh-tồn. Ngoài
những hải-sản chính được khai-thác nhiều như đã kể ở trên, nhiều gia-đình
Việt-Nam còn sống vào sự khai-thác thương-mại các hải-sản phụ của Biển Đông.
Xin kể một số hải-sản phụ như : Vi cá, Yến sào...
12.3.1 - c biển. Vỏ ốc với
nhiều hình dáng và mầu sắc đặc-biệt thường được mọi người ưa thích, dùng để
trưng bày, chận sách. Một thời, vỏ ốc vỏ sò đã được con người sử-dụng như vật
trao đổi giống như chúng ta đang dùng tiền đồng tiền giấy ngày nay. Vỏ ốc lớn
dùng làm tù-và là một nhạc-cụ rất thường thấy ở đồng quê và trong quân-ngũ thời
xưa.
Biển Đông cung-cấp những
loại ốc cho thịt rất ngon và những loại ốc cho vỏ có giá-trị về tiền-bạc.
Các vỏ ốc Xà-cừ mầu sắc
lóng lánh khi cắt ra thành miếng, dùng để cẩn lên các tủ thờ, bàn ghế, câu đối,
tranh, liễn... Miếng xà-cừ mầu trắng như bạc nhưng nhờ phản-chiếu ánh-sáng
thành nhiều mầu sắc rất đẹp.
ốc Bào ngư (Abalone) hay
cửu-khổng vì trên vỏ có 9 cái lỗ bài-tiết. Thịt ốc bào ngư không những nổi
tiếng thơm ngon mà còn là một vị thuốc trị các bệnh về mắt như quáng gà,
thông-manh, mắt mờ rất hay.
Hình 91 - ốc bào-ngư và vài
loại sò ốc khác.
12.3.2 - Đỉa biển. Đỉa biển
hay Đồn-đột là một loại nhuyễn-thể không xương. Đỉa biển phát-triển mạnh nơi
các vùng biển nhiệt-đới như Biển Đông. Giống như cá mực phun mực đen khi bị
tấn-công, điả biển phun ra một loại chất độc mầu trắng. Người Tàu khai-thác
loại hải-sản này rất quy-mô, họ gọi là Hải-sâm. Tại các tửu-lầu, Hải-sâm là món
ăn quý nên bán rất được giá. Người Việt cũng rất thích đồn đột, đồng-bào ta làm
gỏi đồn-đột, hầm đồn đột với giò heo, nấu đồn đột trong những món lẩu
thập-cẩm...
Hình 92 - Đồn-đột và một
vài loài nhuyễn-thể khác.
12.3.3 - Ruộng muối.
Trung-bình một 1ít nước biển chứa tới 35gram muối. Người ta có thể cho nước
biển bay hơi tại ruộng muối. Khi nước bay hết, một lớp muối kết-tinh đọng lại
dưới ruộng. Nhiều làng ven biển Việt-Nam sinh-nhai bằng nghề này.
Trong một phạm-vi nhỏ hẹp,
quân-nhân trú-đóng Trường-Sa có thể khai-thác nghề làm muối này.
12.4 - Trữ-lượng dầu khí
Biển Đông.
Một số học-giả cho rằng
báo-cáo đầu-tiên về sự hiện-hữu dầu khí ở Biển Đông là kết-quả của các đoàn
nghiên-cứu thăm-dò của Liên-hiệp-quốc trong những năm cuối thập-niên 1960.
Thời-gian trước đó, nhiều giáo-sư địa-chất thuộc viện Đại-học Sài-Gòn đã
quả-quyết là theo kiến-thức chuyên-môn của họ, Việt-Nam không có dầu lửa. Cho
đến đầu thập-niên 1970, một số học-giả người Việt vẫn không tin rằng dầu hỏa có
nhiều như những báo-cáo thăm dò cho biết. Họ nghĩ rằng dầu hỏa nếu có thì chỉ
như những hạt sương buổi sáng đọng trên khắp ngọn cỏ, lá cây ngoài cánh đồng;
chuyện "không-tưởng" của họ kể ra là kỹ-nghệ khai-thác làm sao thu
hút được tất cả các dọt dầu rải rác đâu đó như vậy mà mang ra bán thương-mại!
Gần đây niềm tin-tưởng lại
khác hẳn. Câu chuyện "Biển Đông có dầu" không những được coi là điều
hiển-nhiên mà còn có những người tin-tưởng rằng trữ-lượng dầu khí Biển Đông lớn
không thua gì trữ-lượng toàn thể vùng Trung-Đông.
Dầu lửa là một chất hữu cơ.
Nước ta lại là vùng mà thực-vật và sinh-vật phát-triển rất phong-phú. Nhiều cây
cối và sinh-vật chỉ có ở nước ta mà không sinh-tồn được nơi khác. Giáo-sư
Phạm-Hoàng-Hộ cho biết "thựcvậtchúng Việtnam có lẽ gồm vào khoảng 12,000
loài, không kể rong, rêu, nấm. Đó là một trong những thựcvậtchúng phongphú nhất
thếgiới. Với một diệntích to hơn nước ta tới ba mươi lần, Canada chỉ có vào
4,500 loài, kể cả loài dunhập".
Chúng ta lại biết rằng
trong những khoảng thời-gian khi Biển Đông khô-cạn, rừng cây nhiệt-đới trong
vùng còn lớn rộng hơn ngày nay rất nhiều. Nếu thực-vật nhiều tức chất hữu-cơ
kết-tầng trong đất đá phải phong-phú, người ta có thể suy-luận rằng số lượng
dầu lửa và khí đốt năm dưới lòng đất và lòng biển không thể nào ít oi được.
Sau nhiều khảo-sát, ngày
nay người ta đã vẽ được rõ ràng bản-đồ những khu-vực thủy-tra-thạch kết từng .
Các công-ty dầu lửa cũng khoan thử nhiều nơi và ghi-nhận những túi dầu khí tại
duyên-hải Hoa-Nam, trong vịnh Bắc-Việt, ngoài khơi Nam-phần, duyên-hải Mã-Lai-
Brunei- Palawan, vùng Bắc Hoàng-Sa, bãi Cỏ Rong ở Trường-Sa.
Vùng biển bao-la sâu trên
4,000m nằm giữa trung-tâm Biển Đông cũng hứa hẹn chứa đựng những kho dầu khí
khổng-lồ. Vì kỹ-thuật khai-thác những vùng biển sâu còn quá tốn-kém, người ta
chú-tâm vào những vùng nông-cạn. Hai vùng nằm trên thềm lục-địa Việt-Nam làm
Trung-Cộng thèm khát nhất nằm trong vịnh Bắc-phần và khu-vực bãi Tứ-Chính ở
ngoài khơi Nam-phần.
Hình 93- Những vùng
kết-tầng thủy-tra-thạch và những vùng biết có dầu khí hay đang được khai-thác.
Chỉ vì sự hiện-hữu của dầu lửa mà Trung-Cộng quyết chia lại Vịnh Bắc-Việt,
chiếm bãi Tứ-Chính cùng Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Sau đây là vài con số
ước-lượng:
Vùng Biển Đông rộng tới
1,460,000 dậm vuông chia ra hai phần gần bằng nhau:
-720,000 dậm vuông cho biển
và
-740,000 dậm vuông thuộc
thềm lục-địa .
Trên thềm lục-địa, tại
những khu-vực mà các lớp thủy-tra-thạch kết tầng dầy tới 11.000 ft, thường
thường là có chứa dầu hỏa hay khí đốt. Với kỹ-thuật hiện-đại, công việc khai-thác
tương-đối dễ dàng nơi những chỗ nông cạn này.
Theo như lý-thuyết của L.
G. Weaks thì cách ước-lượng như sau:
-vào khoảng 1.75% thềm
lục-địa (12,950 dậm vuông) mỗi dậm vuông chứa 896,000 thùng dầu lửa: 896,000 X
12,950 = 11,603,200,000 thùng
-vào khoảng 15% thềm
lục-địa (111,000 dậm vuông) mỗi dặm vuông chứa 320,000 thùng dầu lửa: 320,000 X
111,000 = 35,520,000,000 thùng
Tổng-số trữ-lượng dầu hỏa
của thềm lục-địa Biển Đông theo cách tính-toán này sẽ là 47,123 triệu thùng.
Dù phỏng-định một cách
bi-quan nhất, thềm lục-địa Việt-Nam chiếm không dưới 20% số lượng này.
Ngoài thềm lục-địa, vùng
sâu hơn nằm giữa Biển Đông là nơi tích-tụ những lớp thủy-tra-thạch rất dầy.
Những hãng dầu cho biết trữ-lượng dầu khí ở dưới các vùng lòng chảo
"basin" còn lớn hơn thềm-lục-địa nữa. Hiện nay kỹ-nghệ khai-thác dầu
dưới lòng biển sâu còn chưa được hoàn-bị.
Các đảo Hoàng-Sa và
Trường-Sa tương-đối nông cạn nên không nằm lọt vào trong những lòng chảo đó,
tuy nhiên khi tính toán đến ranh-giới kinh-tế 200 hải-lý người ta phải tính từ
đảo, nên quốc-gia nào có chủ-quyền hai quần-đảo sẽ sở-hữu luôn cả khối tài-sản
khổng-lồ chưa khai-thác này.
Nếu tổng-kết các ước-lượng
này, người ta có một con số quá sức lớn lao mà trước đây ba chục năm không ai
ngờ tới!
Giữa quần-đảo Hoàng-Sa và đảo
Hải-Nam, gần khu-vực mà Trung cộng đã chiếm của ta, họ đã tìm thấy một mỏ khí
đốt trữ-lượng 90 tỷ mét khối, hiện đang khai-thác (lịch Văn-Hóa Việt-Nam
Tổng-Hợp, 1988.)
Ngay giữa vùng quần-đảo
Hoàng-Sa, Trung-Cộng cũng khởi-sự thăm dò sau khi xâm-lăng. Trên nhiều bản-đồ
về tình-trạng dầu lửa, người ta thấy Trung-Cộng cho in hình một dàn khoan ở đó.
Tuy vậy sự khai thác dầu khí có lẽ chưa thực-sự tiến-hành.
Riêng trong khu-vực
Trường-Sa, hai khu-vực đã được biết chắc chắn là có dầu khí:
-550 triệu thùng vùng phía
Tây bãi Tứ-chính trên thềm lục-địa Việt-Nam
-bãi Cỏ Rong do Phi-luật-Tân khai thác
12.5 - Dầu khí trong hải-phận do Việt-Nam kiểm-soát.
Không kể những khu-vực bị Trung-Cộng chiếm-đóng cũng như các vùng
biển ngoài khơi đang tranh-chấp, tài-nguyên về dầu khí trong lòng biển Việt-Nam
đã được ước-tính qua những số-lượng như sau:
-Theo tiến-sĩ Charles Johnson thuộc viện Est-West Center,
trữ-lượng dầu hỏa Việt-Nam ước-lượng vào khoảng từ 1.5 đếm 3.0 tỷ thùng. Để so
sánh, ta lấy trường-hợp các nước đang sản-xuất dầu lửa trong vùng như
Úc-đại-Lợi và Mã-lai-Á. Hai quốc-gia này có trữ-lượng lần lượt là 1.7 và 3.0 tỷ
thùng. Về khí đốt, trữ-lượng của Việt-Nam có thể nhiều tới 10,000 tỷ cubic
feet. Ba vùng giếng dầu khí đã được thăm dò đầy đủ và đang được khai-thác có
trữ-lượng như sau:
*Bạch-Hổ 175- 300 triệu thùng,
*Đại-Hùng 300- 600 triệu thùng,
*Rồng 100- 150 triệu thùng.
(Investing in VietNam: Oil and Gas Exploration, Michael J. Scown,
East Asian Executive Reports April 1992: 23.)
Hình 94 - Các lô phân-chia để khai-thác dầu-hỏa ngoài khơi
Nam-phần. Lưu-ý khu-vực tranh-chấp Việt-Hoa tại vùng Bãi Tứ-Chính (Vạn-An) và
vị-trí các giếng dầu: Rồng, Dừa, Bạch-Hổ, Đại-Hùng.
Những tin-tức lạc-quan vào cuối năm 1994 cho hay sản-lượng dầu khí
của Việt-Nam đã vượt qua mặt Trung-Cộng và phỏng-địnhViệt-Nam có số trữ-lượng
dầu khí khổng-lồ, vào hàng thứ tư trên thế-giới. (The United States and
Vietnam: Overcoming the Past and Investing in the Future, Thomas R. Stauch, báo
The International Lawyer, Winter 1994: 1025.)
12.6 - Những tài-nguyên Biển Đông trong tương-lai.
Theo đà phát-triển khoa-học kỹ-thuật, nhiều tài-nguyên quý-giá sẽ
dần dần được khai thác từ lòng biển. Con người sẽ đào thêm dầu khí ở những vùng
biển sâu hơn, lấy được nhiều loại quặng mỏ cần-thiết cho kỹ-nghệ.
Người Hoà-Lan với kỹ-thuật đê-điều ngăn-chận nước biển, từ các
thế-kỷ trước đã chiếm thêm được nhiều đất đai sinh sống. Người Nhật ngày nay
khởi-sự canh-tác quy-mô một vài loại thảo-mộc sống trong nước mặn như rong
biển, nhiều loại sò hến và đặc-biệt phát-đạt trong ngành sản-xuất ngọc trai
nhân-tạo.
Nhiều thí-nghiệm cho thấy trong tương-lai, loài người sẽ có thể
sinh-sống trong lòng biển. Những khu định-cư ngoài không-gian xem ra xa vời hơn
là những thành-phố nằm dưới mặt nước. Thế-giới biển-cả rồi ra sẽ trở nên
sinh-động đối với loài người không thua gì thế-giới trên đất liền.
Người Việt đã phải mất nhiều thế-kỷ mới vượt hết giải núi
Trường-Sơn để sát-nhập nửa phần miền Nam vào với lãnh-thổ. Nhưng rồi đây, theo
với đà phát-triển chung của nhân-loại, có lẽ dân ta sẽ không quá tốn-kém
thì-giờ để thâu-nhận Biển Đông làm cho căn nhà Việt-Nam rộng rãi hơn, giàu có
hơn.
Nhiều loại năng-lượng thiên-nhiên của biển cả đang được nghiên-cứu
để con người sử-dụng. Không bao lâu nữa, những dân duyên-hải như người Việt sẽ
có nhiều năng-lượng rẻ tiền lấy ra từ sóng, gió, thủy-triều, từ sự chênh-lệch
nhiệt-độ của nước biển ở trên mặt và dưới đáy biển, sự sai-biệt độ mặn giữa
nước ở sông và nước ngoài khơi v.v...
Hình 95 - Một số rong biển quen thuộc nhất của ngành canh-tác
biển.
Khác với việc trồng cấy trên mặt đất, người ta có một
"hải-gian" bao la để canh-tác "nông-phẩm" biển theo cả ba
chiều. Những nhà viết chuyện khoa-học giả-tưởng còn nghĩ rằng trong khoảng vài
thế-kỷ tới, nhân-loại sẽ bắt đầu cư-trú thường-trực trong lòng biển cả.
"Người biển", nhờ tiến-bộ khoa-học, sống thảnh-thơi và mọi sinh-hoạt
cũng bình-thường như chúng ta đang sống ngày nay trên cạn.
Lãnh-hải sẽ càng ngày càng có thêm giá-trị.
|