Trích
DienDan Danchu
Dữ
Kiện và Tài Liệu
Biên
giới Việt Nam
Việt
Nam bị lệ thuộc Trung quốc vào thế kỷ thứ 2 d.l. và giành
lại được độc lập từ năm 939. Bản đồ cổ của Trung
quốc từ thế kỷ thứ 4 và từ nhà Hán cho đến nhà Chu cho
biết biên cương Việt Nam bao gồm cả tỉnh Quảng Ðông,
Quảng Tây, Vân Nam và đảo Hải Nam tức là cả vùng Vịnh
Bắc Bộ đều thuộc Việt Nam [các
bản đồ cổ này được các thư viện đại học tồn trữ và
được in lại trong Encyclopedia Britannica, 15th Edi.,
Vol. 16, pp.82-96].
Một ngàn năm vừa
qua Trung quốc đã lấn chiếm nhiều đất đai của Việt Nam
như Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam (Yunnan) và đảo
Hải Nam. Vua Quang Trung đã từng dự tính chinh phục lại lưỡng
quảng (Quảng Ðông và Quảng Tây) nhưng rất tiếc ngài
qua đời đột ngột (1792) sau khi đã làm quân dân nhà Thanh
khiếp đảm với chiến thắng Ðống Ða thần tốc vào năm
1789.
Diễn
đàn Dân Chủ:
Bản đồ biên giới phía Bắc Việt Nam [NAM VIỆT] trước năm
111 (trước khi bị Trung quốc xâm chiếm) bao gồm Quảng Ðông,
Quảng Tây, bán đảo Quảng Châu Văn, đảo Hải Nam và cả vùng
vịnh Bắc Việt. Do đó nhà Thanh đã nhanh chóng chấp nhận
37% diện tích Vịnh Bắc Bộ mà Pháp dâng hiến qua Hiệp
Ước Thiên Tân. Thay vì đòi lại vùng đất và biển đã
mất trong Hiệp Ước Thiên Tân, đảng CSVN lại nhẫn tâm dâng
nhượng thêm 11 ngàn cây số vuông diện tích Vịnh Bắc Bộ
cho Trung quốc theo mật ước
ký kết vào ngày 25-12-2000.
1883
Ðối
đầu sự xâm lăng của Pháp, triều đình Huế cầu cứu
viện binh nhà Thanh. Bắc Kinh lúc đó đang bị các thế lực Tây
phương như Anh, Pháp, Tây Ban Nha áp bức (chiến tranh Nha
phiến 1839-42, Hiệp Ước Nam Kinh Anh Trung 1842, Trung Mỹ 1844,
Trung Pháp 1844, Thiên Tân 1958 (Trung Âu), Protocol of Lisbon 1887
với Bồ Ðào Nha về Macau) nhưng vẫn nhận ra cơ hội thao
túng chính trường Việt Nam nhằm bành trướng biên cương cho
nên đã gởi quân xâm chiếm Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang,
Bắc Ninh và Sơn Tây.
1884
Triều
đình Huế ký với Pháp một hiệp ước ngày 6-6-1884 chấp
nhận Ba Lê thay thế Việt Nam trong rất cả quan hệ đối
ngoại (điều 1) sau khi đã ký ‘Hiệp Ước Hòa Bình’
vào ngày 25-8-1883 thừa nhận Nam kỳ thuộc Pháp, Bắc kỳ bị
Pháp bảo hộ và Trung kỳ bị Pháp bảo hộ một nửa. Vào ngày
11-5-1884, nhà Thanh ký với Ba Lê một Quy Ước Sơ Bộ giữa Pháp
và Trung Quốc với điều kiện Bắc Kinh rút quân khỏi Bắc
kỳ và tôn trọng các hiệp ước giữa Việt Nam và Pháp cũng
như chấm dứt chế độ triều cống (Việt Nam, Ðại Hàn,
Nhật Bản và nhiều dân tộc khác xử dụng chính sách ngoại
giao hòa hoãn cho nên chấp nhận triều cống Bắc Kinh như chư
hầu nhưng không có nghĩa là thủ tiêu chủ quyền độc lập
quốc gia, điển hình như vua Quang Trung sau khi chiến thắng Ðống
Ða lẩy lừng vẫn giả vờ thần phục nhà Thanh).
1885
Trước
khi rút quân khỏi Việt Nam theo Quy Ước Sơ Bộ Thiên Tân1884,
Bắc Kinh muốn chiếm đoạt thêm đất đai lãnh hải Việt Nam
mà theo Trung quốc là ‘một
xứ chư hầu của Trung Hoa từ 600 năm nay’
khi thương thuyết với Ba Lê. Hiệp
Ước Hòa Bình, Hữu Nghị và Thương Mại 1885 ở Thiên Tân,
Hiệp Ước 26-5-1887 (công ước 1887 bổ sung về biên thổ và
Vịnh Bắc Bộ) và công ước 1895 ký giữa Pháp đại diện
cho Việt Nam và Trung Hoa công nhận biên giới phía bắc cũng
như lãnh hải (formant
la frontière)
của
Việt Nam là 63% diện tích Vịnh Bắc Bộ tức là vô hình
chung cung cấp cho Bắc Kinh 37% diện tích Vịnh Bắc Bộ.
(Hiệp Ước 26-5-1887:
‘Au Kouang-Tong, il est entendu que les points contestés qui sont situés
à l'est et au nord-est de Monkai, au-delà de la frontière telle qu'elle
a été fixée par la Commission de delimitation, sont attribués à la
Chine. Les iles qui sont à l'est du meridien de Paris 105 degré 43' de
longitude est, c'est-à-dire de la ligne nord -sud passant par la pointe
orientale de l'ile de Tch'a Kou ou Puanchan (Tra-co) et formant la
frontière [lập thành biên giới], sont également attribuées à
la Chine. Les iles Go-tho et les autres iles qui sont à l'ouest de ce
meridien appartiennent à l'Annam.’)
Trong
lúc thương thuyết, Bắc Kinh viện cớ bị mất ảnh hưởng
ở Việt Nam cho nên ‘cần có một đền bù dưới hình
thức nhường một ít đất ở vùng biên giới của Annam’ (lời
Lý Hồng Chương nói với Ðô đốc Rieuner). Pháp đã chấp
thuận nhượng một phần lãnh thổ Việt nam cho Trung Hoa: (a)
3/4 đất đai hay 750 cây số vuông của tổng Tụ Long ở Vân
Nam vốn là đất của Việt nam, và (b) mũi Bắc Luân (Packlung)
ở Quảng Ðông và ‘khu vực người Việt nằm trong lãnh
thổ Trung Hoa.’ Việc này khiến Việt Nam mất thêm
đất đai cũng như lãnh hải vì phải nhượng thêm biển cả ‘Các
đảo về phiá Ðông cuả đường kinh tuyến Paris 105o 43o của
kinh tuyến đông, nghĩa là đường chạy theo hướng đông-bắc
qua mũi phía đông đảo Trà cổ và lập thành đường ranh
sẽ giao cho Trung Hoa...’ Như
vật qua hiệp ước này, Việt Nam mất cho Trung quốc 37% diện
tích Vịnh Bắc Bộ cũng như 750 cây số vuông đất đai Vân
Nam và mũi Bắc Luân (Packlung) ở Quảng Ðông.
Ðiểm
cần lưu ý là trước khi có Hiệp ước Thiên Tân 1885 và
1887, không có tài liệu nào phủ nhận chủ quyền của Việt
Nam trên toàn Vịnh Bắc Bộ. Tất cả sử liệu trước đó
của Trung quốc chưa bao giờ dám xác nhận Vịnh Bắc Bộ là
của Trung Quốc và cho đến bây giờ tất cả tài liệu của
Bắc Kinh vẫn gọi Vịnh Bắc Bộ là Beibu Gulf (Vịnh Bắc Bộ)
mặc dầu nằm ở phía Nam Trung quốc
[gần đây Bắc Kinh dùng danh từ Gulf of Tonkin nhiều hơn].
Bản đồ địa dư của Trung quốc ghi rõ là hải cảng của vùng
đất cực Nam với địa danh Hợp Phố có tên là Bắc Hải.
Hải cảng cực Nam của Trung quốc có tên ‘Bắc
Hải’ (cửa biển phía Bắc) bởi vì nó dẫn ra vùng
biển thuộc lãnh hải phía Bắc của Việt Nam; nếu Bắc Kinh
không công nhận Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam thì đã đặt tên
cho hải cảng đó là Nam Hải như tên của đảo Hải Nam vì
nằm ở cực Nam nước Trung Hoa [điển hình như thành phố
Nam Kinh được mang địa danh này là vì nằm ở vùng đất phương
Nam khác với Bắc Kinh].
Tài
liệu đặc biệt của Diễn đàn Dân Chủ công bố tại Hội
Luận Quốc Nạn Ðảng CSVN Dâng Ðất Nhượng Biển Cho Trung
Quốc ở Houston ngày 1-2 tháng 6, 2002:
Bản
đồ Trung quốc do W.H. Lizars vẽ và tô màu vào năm 1845 trước
Hiệp Ước Thiên Tân 1885 và Công Ước 1887, 1895 chứng minh
chủ quyền biên giới Việt Nam gồm cả một phần Quảng Tây
kéo dài đến Liên Châu bao trùm gần như hoàn toàn Vịnh Bắc
Bộ, và Trung quốc chỉ có một phần nhỏ bán đảo Quảng Châu
Văn (phần tô màu) và đảo Hải Nam trong Vịnh Bắc Bộ (Map
"China", Drawn & Engraved by W.H. Lizars, ca. 1845, Lizars
School Atlas, showing the area from the Gulf of Tonkin (Hainan) to "Corea"
and includes Formosa and part of Japan.).
Do
đó khi đất nước bị rơi vào vòng nô lệ thực dân Pháp,
Ba Lê cấp cho Thanh triều 37% lãnh hải vịnh Bắc Bộ qua Công
Ước 1887, Bắc Kinh nhanh chóng chấp thuận vì họ biết phần
lớn vùng biển này không thuộc về Trung quốc.
1954
Trung
cộng dời cột mốc biên giới vào sâu trong lãnh thổ Việt
Nam trong khi tu bổ đường xe lửa tiếp vận vũ khí chiến
cụ ở biên giới Trung Việt với sự chấp thuận của đảng
Cộng Sản Việt Nam.
1958
Ðảng
Cộng Sản Việt Nam qua Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng tuyên bố
chấp nhận các đòi hỏi bành trướng biên giới của Trung
quốc bao gồm cả Hoàng Sa và một phần Trường Sa vốn
thuộc lãnh hải của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền
Nam. Lá thư bán nước của Phạm Văn Ðồng gởi cho Chu Ân Lai
đề ngày 14-9-1958 được Bắc Kinh sử dụng như văn bản chánh
thức trong các vụ tranh chấp biên giới lãnh hải trong nhiều
năm qua.
1959
Trung quốc dựa vào
văn thư của Phạm Văn Ðồng để chiếm cứ các đảo Cam
Tuyền, Duy Mộng, Quang Hoà thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ngày
21-2-1959, một tiểu đoàn Thủy quân Lục Chiến Việt Nam
Cộng Hòa được sự yểm trợ của Hải Quân VNCH đã đánh
đuổi quân Trung Cộng ra khỏi các hải đảo đó.
1982
Chính
phủ CHXHCN Việt Nam ký Công Ước của Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển 1982 xác định biên giới lãnh hải gồm 12
hải lý (Article 3) và vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive
Economic Zone) 200 hải lý (Articles 55-75) cũng nhưng chủ quyền kinh-tế
trên bề rộng thềm lục-địa [continental
shelf] (Articles 76-77) của Việt Nam.
Chính
phủ CHXHCN Việt Nam qua văn thư chính thức tuyên bố với
cộng đồng quốc tế xác nhận giá trị pháp lý của Công
ước 1887 giữa Pháp đại diện cho Việt Nam và Thanh triều cũng
như xác
định biên giới lãnh
hải (maritime frontier) của Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ theo Công
ước 1887 tức là 63% diện tích vịnh.
(Statement of 12 November 1982 by the Government of the Solicits
Republic of Vietnam on the territorial Sea Baseline of Vietnam: (3) the maritime
frontier in the gulf between Vietnam and China is delineated according
to the 26 June 1887 Convention of frontier boundary signed between France
and the Qing Dynasty of China. The part of the gulf appertaining to
Vietnam constitutes the historic waters and is subjected to the juridical
regime of internal waters of the Socialist Republic of Vietnam.)
Bắc Kinh ngụy biện là Công ước 1887 không dàn
xếp biên giới lãnh hải nhưng lại sử dụng các văn bản này
như văn bản pháp lý (official documents) để chiếm đoạt
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1987
Chính
phủ CHXHCN Việt Nam tố cáo Trung quốc đã dời 100 cột
mốc biên giới vào sâu trong nội địa Việt Nam sau cuộc
chiến 1979 và vẫn còn chiếm đóng nhiều vùng cao điểm biên
giới.
1989
Quan
hệ ngoại giao giữa Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh trở lại bình
thường với sự viếng thăm Bắc Kinh của TBT Gorbachev từ ngày
15 đến 18-5-1989. Vào ngày 4-6-1989, đảng CSTQ tàn sát hàng ngàn
sinh viên biểu tình đòi dân chủ ở Thiên An Môn. Vào tháng
9-1989 TBT Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Ðồng và TT Ðỗ Mười bí
mật sang Trung quốc để nối lại ‘tình hữu nghị’
theo chính sách mới của Liên Sô. Ðặng Tiểu Bình khinh bỉ
đảng CSVN cho nên không chịu gặp mặt cả Phạm Văn Ðồng và
không cho tiếp đãi phái đoàn đảng CSVN ở Bắc Kinh.
1991
Chế
độ cộng sản Liên Sô – tổ quốc xã hội chủ nghĩa
của đảng Cộng Sản Việt Nam - sụp đổ vào tháng
8-1991. Ngoại trừ ở Việt Nam, Trung Hoa, Bắc Hàn và Cuba,
chế độ cộng sản ở các quốc gia khác đã tiếp bước tàn
lụi theo tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Sô. Mất hậu
thuẩn của Liên Sô, đảng Cộng Sản Việt Nam xoay 180 độ
từ Mạc Tư Khoa qua thần phục ‘bá
quyền phương bắc’ (ghi rõ ràng trong Hiến Pháp của CHXHCN
Việt Nam vào lúc đó)
để tìm
thế lực ngoại bang bảo vệ hầu nương tựa chống lại trào
lưu dân chủ hóa đất nước. Tháng 11-1991, quan hệ ngoại
giao giữa Hà Nội và Bắc Kinh được chính thức bình thường
hóa.
1992
Ðảng
Cộng Sản Việt Nam thay đổi Hiến Pháp CHXHCN Việt Nam để xóa
tên kẻ thù là ‘bá quyền phương bắc.’
TBT
đảng CS Trung quốc Đặng Tiểu Bình khi còn sống đã đánh
giá giới lãnh đạo đảng CSVN là lũ man trá quên ân nghĩa
trợ giúp của Bắc Kinh trong cuộc chiến 30 năm; do đó khi đảng
CSVN trở lại thần
phục Bắc Kinh, Trung quốc nắm
được yếu điểm nương
tựa thế lực ngoại bang chống lại trào lưu dân chủ hóa đất
nước của
đảng CSVN cho nên chủ trương chèn ép Hà Nội tối đa trên
mọi lãnh vực.
Giải
Phóng Quân Trung quốc chiếm đóng các vùng cao điểm trong
nội địa Việt Nam sau
cuộc chiến 1979 đã
đốt nhà và xua đuổi dân Việt Nam ra khỏi các vùng chiếm
đóng đặc biệc là ở Lạng Sơn cạnh quốc lộ 1 và sau đó
di dân Tàu vào cướp đoạt tài sản đất đai để canh tác
nhằm tạo hiện tượng
‘biến
thiên về con người, của thiên nhiên, của các sự kiện chính
trị, và vì vậy đường biên giới không còn nguyên vẹn như
lúc nhà Thanh và thực dân Pháp phân định..’
mà sau này TT
Ngoại
Giao Lê Công Phụng có nhắc đến.
Bộ Ngoại Giao CHXHCN
Việt Nam không dám phản đối hay đòi hỏi Bắc Kinh rút dân
quân ra khỏi các vùng chiếm đóng mà chỉ yêu cầu Bắc Kinh
đừng tái phạm nữa, tức là vô hình chung công nhận sở
hữu chủ của Trung quốc trên các vùng chiếm đóng.
1994
Trong
khi Quốc Hội CHXHCN Việt Nam thông qua Công Ước của Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, trong
bài The South China Sea Disputes: A View From Vietnam trên báo
American Asian Review, Vol. 12, No. 4, Winter, 1994 (pp. 23-37), Ðào Huy
Ngọc của Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN
cũng xác
nhận đòi hỏi chủ quyền lãnh hải (sea boundary) của Việt
Nam trong Vịnh
Bắc Bộ là 63% diện tích vịnh (Vietnam has always maintained
that the 1887 Sino-French Convention on the delimitation of the frontier
between China and Tonkin (North Vietnam) established the "sea
boundary" between the two countries in the Gulf.)
1999
Ðảng
Cộng Sản Việt Nam ra
lệnh cho Trung
Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm của Viện Khoa Học Xã Hội tài trợ
và tổ chức một hội nghị về Mạc Ðăng Dung để rửa ba
trọng tội ‘cướp ngôi, dâng đất, đầu hàng giặc’
mà lịch sử Việt Nam khắc ghi khinh tởm. Mục đích của
hội nghị này là để chuẩn
bị tư tưởng mãi quốc cầu vinh cho thành phần trí thức
trong nước trước
khi đảng chính thức dâng nhượng biên thổ lãnh hải cho
Trung quốc như họ Mạc đã làm cách đây gần 500 năm với
‘khẳng định nhà Mạc không hề mắc tội bán nước’
và lối lý luận trơ tráo so sánh chính sách đối ngoại hòa
bình trong uy thế oai hùng song song với thái độ khinh thường
Thanh triều của vua Quang Trung với hành động đốn mạt tự
mang gông cùm, mặc đồ tù nhân để dâng đất cho Bắc Kinh
của họ Mạc (các bài lý luận dọn đường được in
trong sách Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa
dân tộc, nxb Ðà Nẳng 2000).
30-12-1999
Ðảng
Cộng Sản Việt Nam qua ‘Hiệp
ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa’
ký ngày 30-12-1999 đã chính thức hóa chủ quyền của Trung
quốc trong các vùng chiếm đóng trên nội địa Việt nam
với lý do ‘đã
diễn ra rất nhiều biến thiên về con người, của thiên nhiên,
của các sự kiện chính trị, và vì vậy đường biên giới
không còn nguyên vẹn như lúc nhà Thanh và thực dân Pháp phân
định một thế kỷ trước.’ Ðảng
CSVN chấp nhận sự phân định biên giới trên đất liền
theo Hiệp Ước Thiên Tân 1885 và Công Ước 1887, 1895 với các
sửa đổi có lợi cho Bắc Kinh thay vì bãi bỏ các văn bản này
để đòi lại vùng đất từ Móng Cái kéo dài đến Liên Châu
và 750
cây số vuông của tổng Tụ Long ở Vân Nam cũng như mũi Bắc
Luân (Packlung) ở Quảng Ðông mà
thực dân Pháp đã nhượng cho nhà Thanh (Thứ
trưởng Ngoại
Giao Lê Công Phụng trả
lời phỏng vấn của VASC Orient, 28/1/2002).
Qua tiết lộ chính thức của
Thứ Trưởng Ngoại Giao CSVN Lê Công Phụng, Việt
Nam đã mất một
nửa thác Bản Giốc nổi tiếng và ít nhất 100 mét bề ngang
của vùng đất thiên liêng Ải Nam Quan cho Trung quốc
[đảng CSVN đã cắm cột mốc số 0 cách cửa khẩu Trung
quốc ‘trên 200m’ tức là Việt Nam mất trên 100 thước đất
bề ngang bởi vì theo Công ước 1887 thì cột mốc biên giới
Việt Nam ở đây (số 18 có tên là Nam Quan) chỉ cách cửa
khẩu Trung Hoa đúng 100 thước (à 100 m au S de la porte)].
Nhiều học giả khác cho biết Việt Nam mất từ 700 đến 2000
cây số vuông.
Tờ
báo thiên tả nổi tiếng L’Express của Pháp tiết lộ là
Việt Nam mất cho Trung quốc trên đất liền và mặt biển ‘lên
đến 15 ngàn cây số vuông’ (‘up to 15000 square kilometers have
been lost’) tức là nếu trừ đi 11.163 km2 diện tích mặt
biển mất cho Trung quốc thì đảng CSVN đã dâng cho Bắc Kinh
gần 4 ngàn km2 trên đất liền (‘up to 15000 square kilometers
have been lost’ quoted by Al Santoli, Hanoi cedes land and sea
territories to China: Chinese military budget worries Asian neighbors,
China Reform Monitor no. 435, 13-03-2002, American Foreign Policy Council,
Washington, D.C.)
|