|
Sự Thật chi tiết về Trường Sa và
Hoàng Sa .
Lê
Tùng Minh
Sau hơn 40 năm (1956-2000) bành trướng và xâm chiếm các
quần đảo Hoàng Sa và trường Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam (1).
Trung Cộng lại lấn tới, vu cáo Việt Nam như là một nước
xâm phạm chủ quyền của họ, khi Việt Nam thiết lập
bộ máy chính quyền trên quần đảo Trường Sa.Mới đây,
vào đầu tháng 3-2001 người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao
Trung Cộng, Zhu Bangzao, đã lớn tiếng tuyên bố rằng:
"Bất cứ hành động đơn phương của nước nào ở
Nam Sa (tức Trường Sa) đều là xâm lấn vào chủ quyền
của Trung Quốc, và bị xem là bất hợp pháp và vô hiệu".
(Reuters)
Đúng là hành động "vừa ăn cướp vừa la làng",
cũng là mầm họa của một cuộc chiến tranh mở rộng vùng
kiểm loát lãnh hải trong khu vực biển Đông trong tương
lai, do chính Trung Cộng ngang ngược tiến hành, bất chấp
cả Luật Biển (Law of the Sea) đã được Liên Hiệp Quốc
thông qua (10-12-1982) và đã được đem ra thi hành từ ngày
16-12-1994 (2).
Hiểm họa do Trung Cộng gây ra ở biển Đông, thực tế đã
giáng lên đầu của đất nước chúng ta! Hoàng Sa và Trường
Sa là hai lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam từ xa
xưa trong lịch sử. Chúng ta cần làm sáng tỏ vấn đề này
trước công luận quốc tế, nhằm vạch trần xí đồ
chiếm đoạt "của người làm của mình" của
Trung Cô.ng.
Bài nghiên cứu này chỉ là một đóng góp nhỏ cho mặt
trận đấu tranh chống sự bành trướng chủ quyền ở khu
vực mà Trung Cộng gọi là Đông Hải.
o0o
Ị Hoàng Sa (Paracels)
Năm 1820, khi vua Minh Mạng mới lên ngôi, ngài đã quan tâm
đến "cái lợi muôn đời" của quần đảo Hoàng
Sa một vùng lãnh hải đã thuộc chủ quyền của nước
Việt Nam ít nhất là từ thế kỷ 15. Ngài đã truyền
dạy như sau: "Trong hải phận Quảng Ngãi, có một
dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân
biệt được nông sâụ Gần đây, thuyền buôn thường
mắc cạn bị hại Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang
năm sẽ phái người tới đó dựng miếu lập bia, và
trồng nhiều cây cối Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt,
người ta dễ nhận biết, ngõ hầu tránh được mắc cạn.
Đó cũng là việc lợi muôn đời". (3)
Di sản này - Miếu, bia và cây cối, vẫn còn lưu lại trên
quần đảo Hoàng Sa cho đến nay, là một trong nh"ng
bằng chứng cụ thể về chủ quyền của Việt Nam trên
quần đảo Hoàng Sa.
Ngược dòng lịch sử về trước, vào thời Lê Thánh Tông
(1460-1496) nước ta đã có Bản đồ Hồng Đức, trong đó
có ghi nhận vùng lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa là
thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bản đồ này đã được
in lại trong cuốn sử của nhà Nguyễn là Đại Nam Nhất
Thống Chí (4). Đây là một bằng chứng lịch sử, địa lý
cụ thể nhất, minh chứng chủ quyền của Việt Nam về
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Nghiên cứu lại các
bản đồ và lãnh hải của nước Trung Hoa phong kiến, và
thời nhà Minh ở thế kỷ 15, không thấy có một bản đồ
nào, còn lưu lại trong bảo tàng lịch sử của Trung Quốc,
đã ghi nhận địa danh của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.Mặt dù trong các sách lịch sử cổ của Trung Quốc có
nói đến địa danh Chướng Hải (tức Nam Hải ngày nay),
nhưng địa danh đó là chỉ ! một miền biển ở cách
huyện Hải Phòng (tức Quảng Đông) 50 dặm về phía Nam. Và
địa danh Nam Hải, theo cuốn "Tối Tân Thực Dụng Hán
Anh Tự Điển" do một nhóm học giả Trung Hoa biên
soạn, ấn hành ở Hồng Kông vào năm 1971, đã định nghĩa
như sau: "Nam Hải: 1. Tên của một huyện ở tỉnh
Quảng Đông, 2. Vùng biển phía Nam, kéo dài từ Đài Loan
thẳng đến Quảng Đông, 3. Một miền biển giới hạn ở
phía Nam của nước Trung Hoa cổ" (5)
Thực tế lịch
sử này đã chứng minh một cách xác đáng rằng: Các bản
đồ lãnh hải được gọi là Đông Hải hiện nay của
Trung Cộng là được vẽ ra từ sau năm 1949, năm Đảng
Cộng Sản Trung Quốc nắm chính quyền ở cả Trung Hoa
Lục Địạ Họ đã vẽ theo xí đồ bành trướng chủ
quyền ở biển Đông. Theo các bản đồ lãnh hải mới
vẽ này, Trung Cộng đã có chủ quyền trên 80% vùng biển
Đông. Thật là ngang ngược. Họ đã bất chấp công ước
Quốc Tế về Luật Biển đã thông qua ở Genève vào năm
1954. Theo công ứơc này: Lãnh hải và vùng tiếp cận thêm
lục địa của một quốc gia có duyên hải phải được tính
từ đất liền kéo dài đến 200 hải lý ở ngoài biển khơi
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là một đảo nằm ở
ngoài khơi biển Đông, đối diện với bờ biển của các
tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần
của tỉnh Quảng Ngãi Vùng lãnh hải này ngày xưa có tên
là Bãi Cát Vàng (đã có ghi rành rành trong Phủ Biên Tạp
Lục của Lê Quý Đôn, ở cuối thế kỷ 18, vào lúc chúa
Trịnh đã chiếm xong Phú Xuân, đuổi chúa Nguyễn Phúc
Thuần và cháu là Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Gia Định năm
1775).
Theo các tài liệu địa lý biển Đông của nhiều nhà địa
lý học đã nghiên cứu và công bố rộng rãi (trong đó có
cả Bản Tuyên Bố Về Đường Căn Bản Lãnh Hải (Decaration
on baseline of Territorial Waters) của chính phủ CHXHCN Việt
Nam, ngày 12-11-1982) thì khoảng cách gi"a quần đảo Hoàng
Sa và đất liền Việt Nam, nơi gần nhất là 123 hải lý (tính
từ đảo Tri Tôn vào đến Cù Lao Ré) và nơi xa nhất là
135 hải lý (tính từ đảo Tri Tôn vào đến mũi Ba Làng
An, còn gọi là Cap Batangan). Trong khi đó khoảng cách
gi"a quần đảo Hoàng Sa và lục địa Trung Quốc ít
nhất là 235 hải lý (6).
Thực tế về khoảng cách địa lý này của quần đảo Hoàng
Sa đối với đất liền Việt Nam, lại thêm một bằng
chứng cụ thể và xác đáng về chủ quyền của Việt
Nam, đối với quần đảo Hoàng Sa. (Theo Công ứơc Quốc
Tế về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc). Còn về tài
liệu lưu tr" từ vào gi"a cuối thế kỷ 17, Việt
Nam cũng có cuốn "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư"
(1630-1653) của Đồ Bá đã ghi chép về địa lý của
quần đảo Hoàng Sa
o0o
Trước khi dẫn chứng thêm các tài liệu lịch sử của Phương
Tây có liên quan đến vùng lãnh hải Việt Nam trong khu
vực quần đảo Hoàng Sa, chúng tôi xin tóm lược tiến trình
quan hệ gi"a phương Tây và phương Đông vào cuối
thế kỷ 16, trong đó có quan hệ đến Việt Nam, đến
quần đảo Hoàng sa của Việt Nam.
Theo dòng lịch
sử thế giới, chúng ta được biết: Vào thế kỷ 15,16
trong số các nước phương Tây, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
là hai nước phát triển sớm nhất. Và Bồ Đào Nha là nước
phương Tây đầu tiên bành trướng thế lực sang phương
Đông. Nhưng vào cuối thế kỷ 16, Bồ Đào Nha phải nhường
bước cho Hòa Lan ở phương Đông.
Hòa Lan là một nước có nền công thương nghiệp phát
triển sớm và sau cuộc cách mạng vào cuối thế kỷ 16, Hòa
Lan đã trở thành nước tư bản chủ nghĩa đầu tiên, vượt
qua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, chiếm địa vị thứ nhất
trong nền thương mại thế giới vào thế kỷ 17. Công Ty
Đông Ấn Hòa Lan (Companie Hollandaise des Indes Orientales) (7)
thành lập vào năm 1602 là công cụ để Hòa Lan phát
triển sang châu Á. Trong hồ sơ lịch sử lưu tồn về
bản đồ về Đông Duơng đầu tiên (Carte de la peninsula
Indochinoise) được ấn hành vào năm 1595 do nhà địa lý
gốc Hoà Lan Frère Van Langren thực hiện. Và cũng lần đầu
tiên vùng lãnh hải Hoàng Sa của Việt Nam đã xuất hiện
trên bản đồ này với cái tên Hòa Lan là Paracels (có nghĩa
là đá ngầm) (8). "Bản đồ Đông Dương" của Frère
Van Langren đã mở đường cho! thương nhân Hoà Lan vào Đông
Dương, mà trước hết là vào Việt Nam. Ở thế kỷ 17 Hoà
Lan đã đến buôn bán và lập một số thương điếm ở
Việt Nam, trong đó có Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng
Nam. Quần đảo Hoàng Sa đã gắn liền với câu chuyện đắm
tàu của Hòa Lan trong lịch sử vào năm 1634. Nguyên là vào
ngày 20-1-1634, có 3 chiếc tàu buôn của Công ty Đông Ấn Hòa
Lan có tên là Veenhuisen, Schagen và Grootebroek, đồng khởi hành
từ Nam Dương (Batavia) để đến Đài Loan (Formose). Sang ngày
21-7 ba chiếc tàu nói trên đã đến lãnh hải Việt Nam,
tại khu vực quần đảo Hoàng Sa, thì gặp phải một
trận bão lớn. Chiếc Veenhuisen đã vượt qua được và đến
Đài Loan vào ngày 2-8-1634, và chiếc Schagen cũng thoát
hiểm để đến Đài Loan vào ngày 10-8-1634.
Chỉ riêng có chiếc Grootebroek là không vượt qua được
trận bão biển, nên đã bị chìm gần khu vực quần đảo
Hoàng Sa, ngang với bắc vĩ tuyến 17. Theo tập "Ký Sự
Batavia" (Journal de Batavia) của Công ty Đông Ấn Hòa Lan
năm 1635, đã cho biết chiếc Grootebroek đã bị chìm hẳn và
9 thủy thủ đã biệt tích. Thuyền trưởng Huijch và 62
thủy thủ khác thoát được, và họ đã cứu hơn 1/2 số
hàng trị giá 82.995 Florins (tiền Hòa Lan) trong tổng số hàng
trị giá 153.600 Florins. Sau cơn bão, thuyền trưởng Huijch và
12 thủy thủ đi thuyền nhỏ vào đất liền để nhờ chính
quyền địa phương của xứ Đàng Trong (miền Nam Việt
Nam) cho thuyền lớn ra cứu 50 thủy thủ còn lại đang ẩn
núp tại quần đảo Hoàng Sa để tránh bão.
Câu chuyện đắm tàu Hòa Lan Grootebroek còn nhiều gút mắc
với chính quyền địa phương của xứ Đàng Trong vào
cuối đời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Nhưng tới đời
chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648) đã giải quyết
êm đẹp - Viên chức cướp đoạt tài sản của thương
thuyền Grootebroek đã bị "xử trảm và phanh thây".
Vì vậy, năm 1636, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã chính thức
đặt thương điếm tại Hội An là vậỵ
Qua sự kiện này, một câu hỏi được đặt ra cho nhà
cầm quyền Trung Cộng là: Nếu quần đảo Hoàng Sa lúc
ấy là của Trung Quốc thì tại sao các thương nhân Hòa
Lan lại không nhờ chính quyền nhà Mãn Thanh giải quyết,
mà lại nhờ Việt Nam? Bằng chứng thêm chủ quyền hợp
pháp của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa.
Sự thật vẫn là sự thật!
Lịch sử bao giờ cũng là bằng chứng hùng hồn nhất!
Suốt gần 2 thế kỷ sau (1634-1816) nhà Mãn Thanh (Trung
Quốc) vẫn không có một sử liệu nào đề cập đến
quần đảo Hoàng Sa là của Trung Quốc. Trong khi đó vào năm
1816 vua Gia Long (triều Nguyễn - Việt Nam) đã tiếp tục
sự nghiệp của các triều đại trước, chính thức tiếp
quản quần đảo Hoàng Sa. Sự thật đã được Đức Giám
Mục Tabert (Pháp) phản ảnh như sau: "Quần đảo mà người
Việt gọi là Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm rất nhiều hòn đảo
chằng chịt với nhau, lởm chởm nh"ng đá nhô lên
gi"a nh"ng bãi cát, làm cho nh"ng kẻ đi biển
rất e ngại, đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ
Đàng Trong... Hoàng đế Gia Long đã chú tâm gắn thêm cái
đóa hoa kỳ lạ đó (Hoàng Sa) vào cái vương miện của ngài
Vì vậy, mà ngài thấy đúng lúc đã thân chinh vượt
biển để tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, va! ` chính là vào
năm 1816, mà ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của
xứ Đàng Trong" (10). Và ôngJean Baptiste (1769-1825) cũng
đã phản ảnh sự kiện "vua Gia Long cắm cờ trên
quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816" trong cuốn "Mémoire
sur la Cochinchine" ấn hành ở Huế vào năm 1923.
Trải qua 5 thế kỷ - từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20,
quần đảo Hoàng Sa liên tục thuộc về chủ quyền của dân
tộc Việt Nam Đó là sự thật. Một sự thật chính danh
trong lịch sử. Không có ngòi bút nào có thể sửa đổi
sự thật này: Không có tấm hải đồ giả tạo nào bôi xóa
được chủ quyền hợp pháp của Việt Nam về quần đảo
Hoàng Sa.
Đến thế kỷ 20, dù Việt Nam đã trở thành thuộc địa
của thực dân Pháp, nhưng cả hai vùng lãnh hải Hoàng Sa và
Trường Sa cũng vẫn gắn liền với số phận của tổ
quốc Việt Nam. Bởi vì khoa hải học đã chứng minh một
cách chính xác rằng: "Quần đảo Hoàng Sa nằm trên
một cao nguyên chìm dưới biển và dính liền với lục địa
Việt Nam". Đây là một bằng chứng khoa học càng sáng
tỏ hơn giá trị lịch sử về chủ quyền hợp pháp của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Đúng như lời
kết luận của tiến sĩ Krempt, Giám dốc Hải Học Viện
Đông Dương, rằng: "Về phương diện địa chất,
nh"ng đảo Hoàng Sa là một phần của Việt Nam". Các
nhà nghiên cứu hải học, như ông Oliver Ạ Saix và ông
Marcel Beauvoix đều có kết luận như vậỵ (11)
Ngoài bằng chứng về khoa địa chất học, còn có thêm
bằng chứng về sự quản trị quần đảo Hoàng Sa của chính
quyền thực dân Pháp ở Việt Nam n"ạ Đó là, từ năm
1920 Nha Thương Chánh (Douanes) đã tổ chức nh"ng cuộc
tuần du xung quanh quần đảo Hoàng Sa để ngăn ngừa buôn
lậụ Đó là, năm 1925 Hải Học Viện Nha Trang đã cử
một phái đoàn các nhà hải học ra quan sát Hoàng Sa để
nghiên cứu tường tận tại chỗ. Đó là, nhà cầm quyền
Pháp đã thiét lập một địa lý hành chính cho quần đảo
Hoàng Sa, được gọi là "Delegation Administrative des
Paracels", sát nhập vào tỉnh Thừa Thiên (6-1932). Và chính
quyền Pháp cũng đã cho phép một số công ty Nhật Bản
được quyền khai thác phosphate tại quần đảo Hoàng Sa.
Nh"ng việc làm công khai này của chính quyền Pháp
tại sao không thấy vương triều Mãn Thanh phả! n đốỉ
Bởi một lý do dễ hiểu là Quần đảo Hoàng Sa không
phải thuộc về chủ quyền của Trung Quốc, mà là thuộc
về chủ quyền của Việt Nam.
Tóm lại, các
sử gia và các nhà pháp lý học của Trung Cộng có cố tình
bẻ cong ngòi bút, làm trái lương tâm trí thức, vâng
lệnh Đảng Cộng Sản Trung Quốc, viết lại lịch sử,
vẽ lại bản đồ, thực hiện mưu đồ chiếm đoạt
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, chỉ để cho thế giới
cười chê mà thôi, Bằng cách nào họ cũng không xóa được
bằng chứng về lịch sử và địa lý chính xác của
quần đảo Hoàng Sa - một quần đảo thuộc chủ quyền
hợp pháp của Việt Nam suốt thời nhà Lê (thế kỷ 15)
cho đến trước khi Trung Cộng xua quân xâm chiếm Hoàng Sa
(20-1-1974).
Tấm bia chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa
tuy đã bị Trung Cộng đập phá. Nhưng ở trong sách sử cũng
như ở Viện Bảo Tàng của Việt Nam vẫn còn lưu lại rõ
ràng. Tấm bia chủ quyền thời Gia Long (1816) còn ghi rõ như
sau:
Répubique Francaise Empire d'Annam Archipel des Paracesl 1816 - Ile
de Pattle - 1938
Cùng với bia chủ quyền, sắc lệnh số 174/NV ngày
13-7-1961 của Tổng Thống VNCH đặt quần đảo Hoàng Sa
thuộc tỉnh Quảng Nam (thay vì thuộc Thừa Thiên như thời
Pháp thuộc) là nh"ng bằng chứng pháp lý chứng minh
chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
IỊ Trường Sa (Spartly Archipelagoes)
Sau gần 40 năm lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, Trung Cộng
lại tiến hành việc lấn chiếm quần đảo Trường Sa
(1995 đến nay). Đã lấn chiếm vùng lãnh hải của Việt
Nam mà Trung Cộng còn "đánh trống la làng" là
Việt Nam đã "xâm phạm chủ quyền" của Trung
Quốc, và đòi Việt Nam phải "làm sáng tỏ lập trường
về Trường Sa"?
Quần đảo Trường Sa hiện nay đang là một vùng lãnh
hải có sự tranh chấp của nhiều nước:
1. Vùng Trung Cộng đang tranh chấp với Việt Nam là vùng lãnh
hải nằm về phía Tây của đảo Trường Sa (gọi tắt là
Tây Trường Sa). Tây Trường Sa là vùng lãnh hải nằm
gần bờ biển Việt Nam nhất (so với các đảo khác ở phía
Đông của quần đảo Trường Sa).
Đảo Trường Sa là hòn đảo lớn và quan trọng nhất
của vùng lãnh hải Tây Trường Sa.Người Pháp gọi đảo
này là Đảo Bão Tố (Ile de Tempête). Nằm gi"a
nh"ng bãi và đá của vùng Tây Nam Trường Sa, đảo Trường
Sa có một diện tích rộng khả dĩ có thể lập được
một phi đạo chiến thuật (phi đạo ngắn). Trước năm
1970, quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã cố đồn trú và
bố phòng ở đảo nàỵ Sau năm 1975, quân đội nhân dân
của CHXHCNVN đã xây dựng căn cứ quân sự, xây cầu tàu
và bến đậu cho tàu thuyền cập bến. Hải quân của
CHXHCNVN đã có một lực lượng đồn trú thường xuyên
tại đảo này, là cái gai trong mắt của Trung Cộng hiện
nay.
Tính cho đến hết cuối năm 2000, hải quân CHXHCNVN, ngoài
việc xây cầu tàu, còn thiết lập được một hệ thống
hải đăng trên các đảo của Tây Trường Sa và chánh
phủ CHXHCNVN cũng đã thiết lập xong bộ máy chính quyền
để quản trị cả vùng lãnh hải của quần đảo Trường
Sa.Chính vì thế mà Trung Cộng đã la hoảng là "Việt
Nam đã xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc". Đúng là
vừa ăn cướp vừa la làng! (như một phiếm luận của
một ký giả Phương Tây).
2. Vùng 5 nước tranh chấp chủ quyền với Việt Nam (12) là
vùng ở phần cực nam quần đảo Trường Sa.Vùng này
phần nhiều là đảo thật nhỏ.
Đảo An Bang (tức Amboyna Cay) là đảo
lớn nhất trong vùng cực nam Trường Sa.Bờ biển của
Trung Cộng nằm cách xa đảo này đến 1000 hải lý, thế
nhưng họ vẫn liên tục đòi chủ quyền và đang tìm cách
lấn chiếm.
Vị trí quan trọng thứ hai bên cạnh đảo An Bang là Bãi
Thuyền Chài (tức Barque Canada Shoal) nên hải quân CHXHCNVN
đã có mặt trên bãi này từ mấy năm nay để khẳng định
chủ quyền của Việt Nam. Vùng lãnh hải này đang diễn ra
sự tranh chấp chủ quyền khá phức tạp. Ngoài hải quân
Việt Nam trú đóng ở Bãi Thuyền Chài từ 40 đến 60 hải
lý.
3. Vùng tranh chấp gi"a Trung Quốc, Phi Luật Tân, Đài
Loan và Việt Nam ở trung tâm và phía Nam của quần đảo
Trường Sa.Đây là một vùng đảo, hòn rộng lớn nhất và
có nhiều hòn đảo lớn trong quần đảo Trường Sa.
Trong vùng lãnh hải đang tranh chấp gay gắt này, Đảo Ba Bình
(tức đảo Itu Buba) là một hòn đảo lớn nhất của
quần đảo Trường Sa.Đài Loan đã đưa hải quân chiếm
đảo này từ tháng 6-1946. Nhưng, Đài Loan lại rút quân ra
khỏi đảo Ba Bình vào năm 1950. Đến tháng 5-1951 hải quân
Đài Loan lại tái chiếm Ba Bình, khi nghe tin Phi Luật Tân
đang khám phá tài nguyên của quần đảo Trường Sa.Đài
Loan đã đưa một tiểu đoàn thủy quân lục chiến trú đóng
thường xuyên ở Ba Bình. Họ đã biến Ba Bình thành một
căn cứ quân sự hoàn chỉnh, có cả phi đạo chiến
thuật hiện đại nhất so với các căn cứ của Việt Nam
ở đảo Trường Sa.Xét trong lịch sử hiện đại, Việt
Nam gi" chủ quyền đảo Ba Bình từ thời nhà Nguyễn,
cho đến thời Pháp thuộc (1884-1945). Nhưng khi có sự
biến cách mạng tháng 8-1945 và cuộc chiến tranh Việt Pháp
(1954-1946) thì Đài Loan nhân cơ hội đó, đưa quân chiếm
đảo Ba Bình.
Nếu Ba Bình là hòn đảo lớn nhất, thì hòn đảo Nam
Yết là hòn đảo cao nhất của quần đảo Trường Sa.Có
nhiều tài liệu nói về chiều cao của hòn đảo quan
trọng này - 61 feet hoặc 20 mét hay thấp hơn - nhưng vẫn
chưa xác định cụ thể, nhưng chắc nhắn là cao hơn các
đảo khác trong cả quần đảo Trường Sa.Nam Yết nằm đối
diện với Ba Bình về hướng Bắc - nơi có cây dựng cầu
tàu của đảo Nam Yết.
Việt Nam đã có chủ quyền từ lâu tại đảo Nam Yết. Đến
thời Việt Nam Cộng Hoà đã có xây dựng hệ thống công
sự phòng thủ khá kiên cố trên đảo Nam Yết. Bộ chỉ
huy quân sự của hải quân VNCH ở quần đảo Trường Sa vào
nh"ng năm 1974-1975 đã đặt tại Nam Yết. Nam yết là
một vị trí quân sự tốt nhất để canh phòng mọi hoạt
động của Đài Loan ở Ba Bình và cả Phi Luật Tân ở khu
Đông Bắc quần đảo Trường Sa.Nhưng hiện nay hải quân
CHXHCNVN lại không lập Bộ Chỉ Huy quân sự của cả
quần đảo ở Nam Yết, mà chỉ để một toán canh phòng
thôi
Để mở đầu thực hiện âm mưu bá chiếm quần đảo Trường
Sa, tháng 1-1988, Trung Cộng xua quân tiến chiếm hòn Đá
Ch" Thập (Fierry Cross Reef). Hòn Đá Ch" Thập cách
đảo Trường Sa (13) Thuộc khu vực Tây Trường Sa) là 80
hải lý về phía Đông Bắc. Hiện nay Trung Cộng đã đặt
tại đây một trụ sở tổng chi huy quân trú phòng của
họ ở quần đảo Truờng Sạ Rõ ràng là Trung Cộng đã
thách thức trắng trợn đối với chủ quyền của Việt
Nam ở quần đảo Truờng Sạ Mầm mống chiến tranh sẽ
xảy ra bất cứ lúc nào ở vùng lãnh hải quan trọng này
- Trường Sa, Đá Ch" Thập. Và thực tế đã xảy ra
một trận thủy chiến ở khu vực này vào gi"a năm
1988, gi"a Trung Cộng và CHXHCNVN (Kết quả:CHXHCNVN đã
bị đánh chìm 2 chiến hạm, thiệt hại 70 người.)
Có một khu vực đã diễn ra sự tranh chấp vô cùng gay
cấn gi"a Việt Nam và Trung Cộng, đó là khu vực nhóm
đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island). Nhóm đảo này (gồm 6 hòn)
có một vòng đai san hô có tên là Union Reefs. Từ năm 1970,
hải quân VNCH đã đồn trú ở đâỵ Và hiện nay hải quân
CHXHCNVN cũng đang đồn trú đóng ở đâỵ Cho nên, có
nh"ng nơi hai bên Trung Việt trú đóng chỉ cách nhau có
3 hải lý. Đặc biệt quân của hai bên cùng trú đóng trên
một bãi đá ngầm nhỏ có tên là Johnson Reefs - Việt Nam
ở đầu phía Bắc, tại hòn đá Co-lin. Trung Cộng ở đầu
Nam, tại hòn đá Gác Mạ Như vậy, sự tranh chấp về
chủ quyền lãnh hải ở vùng này của quần đảo Trường
Sa gi"a Việt Nam với Đài Loan và Phi Luật Tân, nhưng tình
hình căng thẳng nhất là gi"a Trung Cộng với Vìệt
Nam. Chiến tranh lãnh hải ở vùng quần đảo Trường Sa có
thể bốc cháy bất cứ lúc nào.
Sự tranh chấp về chủ quyền lãnh hải ở vùng này của
quần đảo Trường Sa gi"a Việt Nam với Đài Loan và
Phi Luật Tân đang chỉ ngấm ngầm, bởi vì cả Đài Loan và
Phi Luật Tân (nhất là Phi Luật Tân) cũng đang bị Trung
Cộng thực hiện chiến thuật lấn chiến từ từ (bắt đầu
từ mùa xuân 1995 với hành động chiếm cứ hòn đá ngầm
Vành Khăn, của Trung Cộng).
Phi Luật Tân cũng không chịu lép vế. Họ đã dùng chiến
thuật "đàm phán công khai, bất ngờ tấn công bằng
quân sự để cho Trung Cộng không kịp trở taỵ Chẳng
hạn như, vào cuối tháng 3-1995, sau khi Trung Cộng đã
chiếm hòn đá ngầm Vành Khăn, Phi Luật Tân bắt đầu thương
thuyết với Trung Cộng tại Bắc Kinh. Trong khi cuộc thương
thuyết chỉ mới tiến hành có một ngày, thì bất ngờ
Phi Luật Tân cho hải quân tiến đến vùng đá ngầm ngoài
khơi đảo Palawan, đồng thời cho không quân dội bom tàn
phá các công trình xây cất của Trung Cộng trên các bãi
ngầm Jackson... Lãnh hải quan trọng nhất của Phi Luật Tân
ở trong vùng tranh chấp này là bãi Cỏ Rong (Reed
Tablemount). Bao quanh Bãi Cỏ Rong, có Bãi Trăng Khuyết (Half
Moon Shoal). Bãi Cá Ngựa (Sea Horse Shoal) và bờ biển
Palawan, đã được chính phủ Phi Luật Tân cho chia lô và
thăm dò dầu khí...
Bãi Cỏ Rong dài hơn 100 hải lý, và rộng đến 70 hải lý.
Tài nguyên dầu khí ở đây là nguồn lợi lớn lao nhất
của quốc gia Phi Luật Tân. Nhưng, chủ quyền của Phi
Luật Tân ở Bãi Cỏ Rong cũng đang bị Trung Cộng tìm cách
lấn chiếm. Qua một số sự kiện điển hình trên dây cho
chúng ta thấy tính chấp phức tạp của vùng lãnh hải Trường
Sa.Không phải toàn bộ quần đảo Trường Sa là của
Việt Nam. Nhưng phải khẳng định rằng Việt Nam có chủ
quyền một vùng lãnh hải rộng nhất trong khu vực quần
đảo Trường Sa.
Chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa đã
được minh chứng một cách xác đáng cả về hai phương
diện địa lý và lịch sử.
Về địa lý:
Quần đảo Trường Sa nằm về phía Nam của Biển Đông (đã
được ghi trong Bản Đồ Hồng Đức vào thời Lê Thánh Tông,
(1470-1498), cách Vũng Tàu 350 hải lý, cách Cam Ranh 250 hải
lý. Theo một tài liệu của nước ngoài - "Stanford
Journal of International Law", Spring 1992 - thì quần đảo
Trường Sa đã có hơn 500 hòn đất, đá, bãi riêng biệt
(14)
Chiều dài nhất của quần đảo Trường Sa (tên quốc tế
gọi là Spratly Archipelagoes) là 500 hải lý, tính từ Bãi
Cỏ Rong (Reed Tablemount) ở cực Đông - Đông Bắc của
quần đảo đến Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) ở cực Tây -
Tây Nam của quần đảo.
Bãi Tứ Chính (15) nằm sát thềm lục địa Việt Nam. Vùng
lãnh hải được gọi là Tây Trường Sa là vùng gần bờ
biển Việt Nam nhất so với các vùng lãnh hải của quần
đảo Trường Sa.Vùng Tây Trường Sa có 6 bãi và đá chính
sau đây: Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank), Bãi Quế Đường
(Grainger Bank), Bãi Phúc Tân (Prince Wales Bank), Bãi Phúc Nguyên
(Prince Consort Bank), Bãi Huyền Trân (Alexandra Bank), Bãi Vũng
Mây (Rifleman Bank) và Đá lát (Lađ Reef). Các địa danh đã
có trong bản đồ lãnh hải của Việt Nam Từ thời Lệ
(15) Hiện nay hải quân CHXHCNVN đang trú đóng trên toàn vùng
lãnh hải Tây Trường Sa, và phòng thủ, chống lại sự
lấn chiếm của Trung Cô.ng. Nguồn dầu khí của Vùng lãnh
hải Tây Trường Sa có một tr" lượng rất lớn. Đó
chính là miếng mồi ngon đã làm cho Trung Cộng không đè nén
được lòng tham không đáy của họ. Vì vậy, Trung Cộng
đã bịa ra cái gọi là Nam Hải bao gồm cả Trường Sa.Nhưng,
sự bịa đặt vô căn cứ đó đã bị dư luận quốc tế
vạch trần. Chẳng hạn như trong tác phẩm "La
Souverainetée des Archipels Paracels et Spratleys" luật gia
Monique Chemillier - Gendreau đã khẳng định rằng: "Nam
Hải của Trung Quốc chỉ kéo ngang đến đảo Hải Nam mà
thôi, và không thể kéo dài tới các vùng quanh quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. (16)
Về lịch sử:
-
- Chủ quyền của Việt Nam tại nhiều
khu vực lãnh hải trong vùng quần đảo Trường Sa đã được
lịch sử minh chứng liên tục ít nhất từ thế kỷ 15 đến
naỵ
Các sách xưa của Việt Nam như "Hoàng Việt Nhất Dư
Địa Chí" của Lê Quang Định, Hoàng Việt Địa Dư Chí
của Phan Huy Chú, "Phủ Biên Tạp Lục" và "Đại
Nam Nhất Thống Chí" của Sử Quán triều Nguyễn... đều
có nh"ng ghi chép về quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.Bản đồ Hồng Đức thời Lê Thánh Tôn (1470-1498) đã có
chỉ rõ vị trí quần đảo Truờng Sa nằm ngoài khơi
Biển Đông là vùng lãnh hải của Việt Nam. (17)
Theo "Phủ Biên Tạp lục" của nhà bác học Lê Quý
Đôn (1726-1784) thì từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên
(1613-1615) đã cho thành lập các đội hải binh tuần phòng
các vùng lãnh hải của Việt Nam: Đội Hoàng Sa chịu trách
nhiệm quần đảo Hoàng Sa. Đội Bắc Hải chịu trách
nhiệm quần đảo Trường Sa.Ngoài việc tuần tra, canh phàng
bảo vệ lãnh hải, hai đội này còn có nhiệm vụ thăm dò
và khai thác sản vật ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.Thực tế lịch sử này đã minh chứng rằng từ đầu
thế kỷ 17, Việt Nam đã nắm quyền làm chủ ở cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngành khảo cổ học của Việt Nam, qua các cuộc điều tra
và khai quật tại các đảo Trường Sa lớn, Nam Yết, Song
Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Lớn, Phan Vinh... thuộc quần đảo
Trường Sa, đã tìm được nhiều di vật gốm, sứ của
Việt Nam từ thế kỷ 17,18, và 19, đã khẳng định sự có
mặt liên tục của người Việt Nam ở quần đảo Trường
Sa suốt hơn 3 thế kỷ qua (không hề thấy vết tích của
người Trung Hoa hay Phi Luật Tân, Mã Lai Á hay Brunei). Qua
việc nghiên cứu và thẩm định các di vật khảo cổ đã
tìm thấy trong các cuộc khai quật trên quần đảo Trường
Sa nh"ng năm gần đâỵ Các nhà khảo cổ Việt Nam đều
nhận định rằng: "Nh"ng chứng tích khảo cổ
học về sự sinh sống và nh"ng hoạt động trên biển
của người Việt trên đảo Trường Sa trong nhiều thế
kỷ đã qua, đã thêm bằng chứng khoa học, xác định
chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Truờng Sa".
Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp (1884-1945) thì
người Pháp vẫn tiếp tục thực hiện chủ quyền trên
quần đảo Trường Sa.Một số hoạt động điển hình
của chính quyền Pháp tại quần đảo Trường Sa là:
Năm 1927, tiến sĩ Ạ Krempt, Giám đốc Viện Hải Dương
Học Đông Dương, sau chuyến thăm dò và khảo sát quần đảo
Hoàng Sa, đã tiến hành khảo sát địa và thăm dò tr"
lượng phosphate tại quần đảo Trường Sa.
Năm 1930, chính quyền Pháp ở Đông Dương chính thức cử
một phái đoàn ra căn cứ chủ quyền tại quần đảo Trường
Sa.Năm 1933, toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định sát
nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Đặc biệt là việc xây dựng Hải Học Viện Nha Trang
của Pháp, và sau năm 1956 đã trở thành một cơ sở nghiên
cứu hải học có tầm c" quốc tế của Việt Nam
Cộng Hoà. Hải Học Viện Nha Trang đã có nh"ng đóng góp
vào việc nghiên cứu, phát hiện tiềm năng dầu khí của
Việt Nam ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Đến nh"ng năm 1946-1954, mặc dù Việt Nam chưa hoàn toàn
độc lập, nhưng các nội các của chính phủ Cộng Hòa
Nam Kỳ - từ thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Thinh (1946) đến
thời thủ Tướng Bửu Lộc (1954) - cũng đã có quan tâm đến
việc thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Cụ thể: Tại hội
nghị San Francisco (1951) Thủ Tướng Trần Văn H"u, trưởng
phái đoàn Việt Nam đã long trọng tuyên bố công khai trước
mặt của phái đoàn 51 quốc gia, rằng: "Hoàng Sa và Trường
Sa là thuộc về chủ quyền của Việt Nam", và không có
quốc gia nào lên tiếng phản đối Đây cũng là một
bằng chứng pháp lý quốc tế về chủ quyền của Việt
Nam về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vào thời Việt Nam Cộng Hoà luôn luôn có mặt ở hai vùng
lãnh hải này, để tuần phòng, bảo vệ lãnh hải, và làm
công việc hỗ trợ cho các đoàn chuyên viên nghiên cứu và
thăm dò tài nguyên ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.Nhờ vậy, nên có nh"ng kết quả như sau:
- Báo cáo chuyên đề về thực vật ở Hoàng Sa - Trường
Sa của ông Lê Văn Hội (1957)
- Tường trình về tiềm năng phân bón ở Hoàng Sa của Lê
Thị Ngọc Thanh (1957)
- Nghiên cứu về phosphate ở Hoàng Sa của ông Trần Bửu
Châu 1973)
- Tường trình cuộc thám sát đảo Nam Yết (Trường Sa)
của ông Trịnh Tuấn Anh (1973)
Nhưng công việc nghiên cứu quy mô và có tầm vóc quốc
tế là việc thực hiện Chương Trình NAGA Đó là chương
trình nghiên cứu, khảo sát trên biển, dọc theo hành lang
thềm lục địa phía Nam vĩ tuyến 17 qua đến Vịnh Thái
Lan (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa). Công việc nghiên cứu
hải dưong học quy mô này kéo dài từ 1959 đến 1961, với
sự hợp tác của các khoa học gia Việt Nam cùng với các
chuyên gia Hoa Kỳ và Thái Lan.
Riêng về mặt hành chánh, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã
ra hai sắc lệnh rất quan trọng, là nh"ng bằng chứng
pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và
Trường Sa:
- Sắc lệnh số 34/NV, ngày 29-11-1959, do Tổng thống VNCH ký,
quyết định sát nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước
Tuy (Bà Rịa cũ).
-
- - Sắc lệnh số 174/NV, ngày 13-7-1961 do
Tổng thống VNCH ký, quyết định sát nhập quần đảo Hoàng
Sa vào tỉnh Quảng Nam (thay vì Thừa Thiên như thời Pháp
thuộc).
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc chủ
quyền của Việt Nam ít nhất từ thế kỷ 15, với
nh"ng bằng chứng lịch sử hiển nhiên đã được ghi
trong Bản Đồ Hồng Đức (thời nhà Lê). Bằng chứng
lịch sử đó còn ghi trong nhièu sách sử của Việt Nam
(từ thời Lê đến thời Nguyễn), cũng như đã tìm thấy
trên hai quần đảo này, cộng với nhiều công trình nghiên
cứu về Hoàng Sa và Trường Sa của giới chuyên gia quốc
tế, đều cho thấy rõ ràng là: Hoàng Sa và Trường Sa đã
thuộc chủ quyền của VIệt Nam từ lâu trong lịch sử, ít
nhất là suốt hơn 5 thế kỷ quạ
Còn nếu xét theo thỏa ước của Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển (UNCLOS) được công bố vào ngày 10-12-1982, và
được đưa ra thi hành từ ngày 16-11-1994, thì nước Việt
Nam cũng đủ điều kiện để thực hiện chủ quyền trên
hai vùng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, theo luật pháp quốc tế.
Cho dù Trung Cộng có cho vẽ lại bản đồ, cho công bố tài
liệu giả, và dùng hành động quân sự để lấn chiếm
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, trong
suốt nửa thế kỷ qua, cũng chỉ làm cho dân tộc Trung Hoa
bị xúc phạm trước công luận quốc tế là vì lòng tham
tài nguyên trên biển mà Trung Cộng bất chấp cả pháp lý
và lương tâm chân chính của nền văn minh nhân loại
Tất cả nh"ng cố gắng trước đây của Liên Hiệp
Quốc trong suốt cả thế kỷ để đưa toàn thế giới
ngồi lại với nhau trong một sự nhất trí v"ng chắc
về biển cả đã tan v" vì cuồng vọng xâm chiếm
Biển Đông của Trung Cộng trong nửa thế kỷ quạ Biển
Đông nói chung, vùng lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam nói riêng, đã và đang nổi sóng, có thể trở thành
bão tố vào bất kỳ lúc nàọ Ngòi nổ chiến tranh cục
bộ trên biển Đông sẽ đưa đến cuộc chiến tranh Thái
Bình Dương đang được Trung Cộng châm lửạ
Đồng thời với việc kêu gọi quốc tế phải bằng mọi
cách ngăn chặn nguy cơ chiến tranh đó, dân tộc Việt Nam
không thể thụ động "yêu cầu đối thoại" với
Trung Cộng, mà phải chủ động, tích cực chuẩn bị giáng
trả cho kẻ xâm lược nh"ng đòn đích đáng, theo
truyền thống anh hùng của Trần Hưng Đạo Bình Nguyên:
Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù Thái
Bình nên gắng sức Non nước cũ ngàn thu (thơ Trần Quang
Khải)
Lê Tùng Minh
Chú Thích:
(1) Năm 1956, khi thực dân Pháp rút ra khỏi Việt Nam, Trung
Cộng liền xua hải quân chiếm đóng nhóm đảo Tuyên Đức
thuộc phía Tây Hoàng Sa. Ngày 20-1-1974, thừa cơ quân đội
Mỹ rút khỏi Việt Nam, Trung Cộng lại xua hải quân tiến
chiếm nhóm đảo Nguyệt Thiềm thuộc phía Đông Hoàng Sa.
Và hiện nay Trung Cộng đã thiết lập căn cứ hải quân,
xây dựng phi trường, đưa quân chiếm đóng cả khu vực
Hoàng Sa. Vào năm 1983, Trung Cộng cho vẽ lại bản đồ lãnh
hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mở rộng khu
vực, bao gồm bờ biển Phi Luật Tân, Tây giáp bờ biển Mã
Lai Á. Họ gọi đó là "Miền Đông Hải" của
Trung Quốc.
Đến ngày 25-1-1992, Trung Cộng ngang ngược thông qua một
đạo luật, tuyên bố rằng: Hai quần đảo Hoàng Sa và Trương
Sa đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc, vì vậy
nh"ng tàu của bất cứ nước nào đi ngang qa hai vùng lãnh
hải này đều phải xin phép Trung Quốc.
(2) Luật Biển - nói cho chính xác hơn là Thỏa ước UNCLOS
(United Nations Convention on the law of Sea) đã được thông qua
tại Montego Bay - Jamaica, có 159 quốc gia quốc tế đã pháp
biểu như sau: "Thỏa ước Liên Hiệp Quốc về luật
Biển là điều cận kề nhất mà loài người chúng ta có
thể tiến đến với nhaụ Mục tiêu đó nay đang trong
tầm tay". (Theo "The American Journal of International
law", Vol. 88, july 1994, page 499)
(3) Sử Quán Triều Nguyễn - Đại Nam thực lục (chính Biên),
Đệ nhị kỳ, quyển 104, bản ch" Hán in vào đời
Nguyễn - Bản dịch do nhà xuất bản Sử học thuộc Ủy
Ban Khoa Học Xã Hội ấn hành, Hà Nội, 1962-1971.
(4) Tham khảo Bản Đồ Hồng Đức đã được in lại trong
cuốn Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa của
Vũ H"u San, tr. 111
(5) Xem "A New Pratical Chinese _ English Dictionary",
edition in chief: liang Shi-Chiu, editors: Chu Liang-Chen, David Shao,
Feffreg C. Tung, Chung Lu-Shen - The Far East Bơk Cọ Ltd, Hong Kong
1971, page 121, Column 2
(6) Tham Khảo "Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường
Sa" của Vũ H"u San, nhà in Hương Quê, Fremont, CA
94539,c năm 1994.
(7) Theo quan niệm của người Phương Tây lúc bấy giờ, Đông
Ấn là chỉ chung các nước phương Đông bao gồm Ấn Độ,
các nước Đông Nam Á, Trung Quốc và Nhật Bản.
(8) Tham khảo bài "Les Portugois sur les côtes du Vietnam et
du capa" của Peirre Y, Manguin, đăng trong BEFEO năm 1972,
trang 74. Nhưng theo "Dictionnarire de Bibligographie generale
ancienne et moderne de l'Indochine Francaise" của giáo sư Ạ
Brébion, ấn hành vào năm 1935, thì Paracels là tên một
chiếc tàu của Công ty Đông Ấn Hòa Lan. (theo nguồn tài
liệu sưu khảo của học giả Thái Văn Kiễm công bố trên
tập san Sử Địa số 29, Sàigòn, 3-1975)
(9) Xem bài viết của W.J.M. Buch, đăng trong BEFEO, Tome XXXVI,
năm 1936 - Bài "La compagnie des Indes Neerlandaise et l'
Indochine". (10) Tabert: "Univers, Histoire et Descriptionde
tous les peuples, de leurs réligions, moeurs et coutumes" xb năm
1883. Theo học giả Thái Văn Kiễm đã dẫn.
(11) Tham khảo bài của Oliver trong "La Géographie",
Tome LX, Nov - Dec. 1933, và bài của Marcel "Les Archipels
Paracels et Spratly" trong báo VIetnam Press, Sagon, Nov. 1971,
Nọ 7574
-
- (12) 5 nước đó
là: Trung Hoa Lục Địa, Đài Loan, Phi Luật Tân, Brunei va Mã
Lai Á
(13) Bộ chỉ huy quân sự hải quân của CHXHCNVN đặt ở
đảo Trường Sa.
(14) Tham khảo thêm: "Atlas for Marine Policy in Southeast
Asian Sea", edited by Joseph R. Morgan, and Mark J. Valencia -
University of alifornia Press, 1983.
(15) Tứ Chính là tên của một phường ở Cù Lao Ré
thuộc phủ Quảng Ngãi ngày xưạ Phúc Tân, Phúc Nguyên là
tên hai vị chúa của nhà Nguyễn (Phúc Nguyên hay Chúa Sãi
1562 - 1535. Phúc Tân hay húa Hiền 1619 - 1687) Quế Đường là
biệt hiệu của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784),
Huyền Trân là công chúa, con vua Trần Nhân Tôn (1279-1293)
(16) Sách đã dẫn, nhà xb L'Harmattan, Paris, 1996
(17) Đã được in lại trong cuốn "Đại Nam Nhất
Thống Chí", phần "Toàn Đồ Triều Nguyễn",
Xem thêm "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư" của Đỗ
Bá (1630-1653)
Lực lượng Hoàng Sa trước trận hải chiến 19/1/74
Note : Just for online reading
-
- VBKT, 11/1/00
Vương Hồng Anh tổng hợp
* Vụ Hoàng Sa 26 năm về trước:
Cách đây 26 năm, ngày 19 tháng 1/1974, Trung Cộng đã huy động
một lực lượng mạnh để đánh chiếm quần đảo Hoàng
Sa, lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòạ Trận chiến tại Hoàng
Sa xảy ra ở cách xa đất liền nên chỉ có những người
có mặt trong cuộc mới biết rõ diễn tiến sự việc
xảy rạ Về lực lượng Việt Nam Cộng Hòa, những chiến
binh Hải quân có mặt trên các chiến hạm là những
chứng nhân trận hải chiến, các quân nhân đồn trú bảo
vệ đảo và toán nhân viên khí tượng, cùng với toán đặc
nhiệm của bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 đổ bộ lên đảo trước
giờ G là những người đã mục kích phần nào biến cố
nàỵ
Sau khi Hoàng Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm, một số nhà
sử học, địa lý học Việt Nam đã có những bài viết
trình bày, minh định chủ quyền của VNCH trên quần đảo
này dựa theo theo các văn kiện, tài liệu lưu trữ tại thư
viện, văn khố và tại các trung tâm nghiên cứụ Riêng
về trận hải chiến, một số bài viết đăng trên các báo,
đặc san đã ghi lại diễn tiến dựa theo lời kể của các
nhân chứng. Gần cuối năm 1974, Tập san Sử Địa do một
nhóm giáo sư sinh viên Đại học Sư phạm Sài Gòn chủ trương
và do giáo sư Nguyễn Nhã chủ biên đã thực hiện một
số báo đặc biệt chuyên đề về Hoàng Sa Và Trường Sa,
trong đó có bài viết của tác giả Trần Thế Đức ghi
lại lời kể của một số nhân chứng về tình hình đảo
Hoàng Sa vào những ngày trước, trong và sau khi biến cố
xảy rạ
Thể theo yêu cầu của một số đông bạn đọc muốn tìm
hiểu thêm về biến cố Hoàng Sa, chúng tôi đã cố gắng
thu thập tài liệu để biên soạn loạt bài viết về sự
phòng thủ đảo Hoàng Sa và trận hải chiến ngày
19/1/1974. Trong số báo kỳ này, chúng tôi xin lược trình
toàn cảnh đảo Hoàng Sa trước giờ G, phần này được
biên soạn"
|