Home

Thơ

Sưu Tập

Văn Điếu Tế  Linh Tinh Trang Ca Dao Search

 

ải nam quan

Nông Bản Nhân gởi cho danchu.net và các tổ chức dan chủ hải ngoại.


Trước hết tôi cảm ơn nỗ lực vận động cộng đồng quốc tế của Diễn đàn Dân Chủ cũng như quý anh chị em ở khắp nơi nhằm bảo vệ các đối tác trong nước như Giáo sư Trần Khuê, Luật gia Lê Chí Quang và Bác sĩ Phạm Hồng Sơn.


19-4-2002 Nỗ lực nhiệt thành giúp đỡ này tạo được ấn tượng cao quý trong các đối tác dân chủ và chắc chắn thêm nhiều tài liệu sẽ được gởi lên DanChu.net để phổ biến rộng rãi hơn. Sự hợp tác hỗ tương bất vụ lợi vì dân chủ của anh chị em trong và ngoài nước khích lệ đồng bào và nhờ đó họ thấy viễn ảnh dân chủ thực sự nằm trong tầm tay khả đạt.


Tôi cũng thấy sự hợp tác của DĐ Dân Chủ cùng các tổ chức khác thực hiện hội luận về án trạng đảng CSVN mãi quốc cầu vinh vào thượng tuần tháng 6 này là một việc làm vô cùng quan trọng bởi vì nhiều đồng bào trong cũng như ngoài nước còn chưa biết hoặc biết không rõ về quốc nạn này. Tôi không dám cống hiến gì cho hội luận nhưng chỉ xin làm sáng tỏ một vấn đề mà chưa ai đưa ra câu trả lời thỏa đáng: Ải Nam Quan của Việt Nam hay Trung Hoa?


Nhiều người đã bàn luận về vấn đề Ải Nam Quan của ta hay tàu? Sự trao đổi bắt đầu từ mối ưu tư chung cho quyền lợi tối thượng của dân tộc nhưng hình như lại đi vào ngõ cụt vì nhiều người đọc lại sử ký và cổ liệu Việt Nam như Ðại Nam Nhất Thống Chí, Phương Ðình Dư Ðịa Chí, v.v., bắt đầu tỏ vẻ nghi ngờ điều mình học từ xưa là ‘đất nước Việt Nam hình chữ S trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau’. Ký giả Tú Gàn ở Mỹ cùng các ông Trương Nhân Tuấn và Tôn Thất Vinh ở Pháp dựa vào sử thư Việt Nam và tài liệu Pháp như Les frontières de la péninsule indochinoise của Lafont song song với sơ đồ các cột mốc Procès Verbal de la Commission d'Abornment de la Frontière Sino - Anamite, Section Est du Kouang Si lập ngày 21.8.1891 để ‘xác định rằng Ải Nam Quan không bao giờ là của Việt Nam’ bởi vì ‘không hề thấy có tài liệu nào nói rằng Ải Nam Quan của Việt Nam. Các sách đều chỉ nhắc đến các tranh chấp về phần đất thuộc khu vực Ðồng Ðăng trước Ải Nam Quan mà thôi’ (22-3-2002).


Một vị mang bút hiệu Bàn Tân Định có vẻ bênh vực đảng CSVN trong bài ‘Bàn về biên giới Việt Nam - Trung Quốc: Vấn đề dữ kiện’ với kết luận vô cùng mập mờ: ‘Nhưng xét một cách tổng quan, qua Chính Sử của Việt Nam, khó có thể nói toàn bộ Ải Nam Quan là thuộc về Việt Nam.’ Trong khi đó nhà viết sử Trần Gia Phụng ở Canada đã xuất bản một cuốn sách liên quan đến vấn đề ‘Chuyện Một Chiếc Ải Ðã Mất’ ám chỉ vô cớ là Việt Nam ít ra cũng làm chủ một phần ‘kiến trúc’ Ải Nam Quan. ‘Giáo sư Nguyễn Văn Canh cũng không dám có lời nào để nhận định xem Port de Chine và China Gate có phải là Cửa khẩu Việt Nam hay không’ khi đưa ra tấm hình cũ ‘Port de Chine’ (mà ký giả Tú Gàn viết là ‘tấm hình của Ải Nam Quan’) do W. Robert Moose in trong National Geographic Magazine. Vào ngày 21-1-2002, Kỹ sư Nguyễn Ðình Sài của Hội Chuyên Gia Việt Nam phổ biến tài liệu Nghĩa Vụ Bảo Vệ Bờ Cõi Việt Nam được đánh giá là nghiên cứu công phu với kết luận sai lệch ‘Ải Nam Quan đã nằm sâu trong "nội địa" Trung Quốc đến vài cây số.’ Sau đó vào ngày 14-3-2002 Chuyên gia Nguyễn Ngọc Danh cũng của hội này tổng kết lại các tài liệu liên quan đến Ải Nam Quan để chứng minh một cách lầm lẫn ‘rằng cho đến ngày gần đây Ải Nam Quan còn nằm trên lãnh thổ Việt Nam.’ Tựu trung, chúng ta thấy các tài liệu vừa kể và tất cả các bài phân tích được công bố gần đây mặc dầu viện dẫn sử ký cổ thư đều suy diễn Ải Nam Quan là một ‘cái đồn’ hay ‘Một Chiếc Ải’ hay thành quách biên phòng cho nên đã đưa ra những khẳng định sai trái.


Hầu hết các tài liệu liên quan đến vấn đề chủ quyền Ải Nam Quan chia thành hai trường phái: một là ‘xác định rằng Ải Nam Quan không bao giờ là của Việt Nam,’ hai là bàn luận thiếu minh bạch khiến cho đồng bào vô cùng hoang mang. Hai trường phái này tuy tương phản nhưng đều có nguồn gốc từ sự ưu tư đến tiền đồ dân tộc trước quốc nạn đảng CSVN mãi quốc cầu vinh. Có vị muốn xác định rõ ràng biên cương quốc gia để truy ra các phần đất đã mất; có vị đứng trước các bằng chứng được trình bày lại không biết biện luận như thế nào cho điều mình học từ xưa là ‘đất nước Việt Nam hình chữ S trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau’ cho nên chọn tư thế tránh né hay bàn luận qua loa bởi vì nặng lòng với Ải Nam Quan cho nên không lẽ bây giờ phải xác nhận Ải Nam Quan là của Trung Hoa!


Rất tiếc là hiện nay nhiều bậc thức giả chưa lên tiếng về vấn đề này khiến đồng bào tiếp tục hoang mang. Ðứng trước tình trạng này, tôi xin mạo muội đem chút kiến thức thô thiển để chứng minh là cả hai trường phái ưu tư với tiền đồ dân tộc kể trên không bên nào sai cả chỉ vì cả hai đã hiểu lầm chữ Ải và chữ Quan cho nên sử dụng từ vựng thiếu chính xác và do đó đưa ra những câu hỏi hay lời bàn luận vô căn cứ. Vì sự khác biệt giữa chữ Ải và chữ Quan cho nên khi ghi chép về đoạn biên thùy này, sử sách của ông cha chúng ta bằng nguyên văn Hán ngữ cũng như cổ thư của Tàu thận trọng chỉ dùng danh từ Nam Quan, Trấn-Nam Quan, hay cửa Nam Giao, v.v., khi nói về cửa khẩu này; nhưng hiện nay nhiều người cộng thêm chữ Ải vào rồi cưỡng ép sử sách khiến đồng bào vốn đang bàng hoàng trước tin đảng CSVN mãi quốc cầu vinh lại càng hoang mang hơn.  


Trả lời của tôi cho câu hỏi ‘Ải Nam Quan của ta hay tàu?’ là Ải Nam Quan của Việt Nam và Nam Quan của Trung Hoa. Các bạn có lẽ ngạc nhiên về câu trả lời này nhưng tôi xin giải thích là hai cụm từ Ải Nam Quan và Nam Quan có gốc Hán Việt. Chữ Ải ở đây nằm trong bộ Phụ có nghĩa là ‘nơi chật hẹp, chỗ hiểm thế’. Chữ Quan ở đây nằm trong bộ Môn có nghĩa là ‘cửa’ và ở vùng biên giới thường được dùng như cửa khẩu (khẩu có nghĩa là chỗ ra vào) vì vậy chúng ta mới nghe câu ‘bế quan (đóng cửa [khẩu]) tỏa cảng’ chứ không có từ ‘bế ải.’


Ải: nơi chật hẹp, chỗ hiểm thế  Quan: cửa  Quan Ải: vùng  hiểm yếu (ải) có cổng gác (quan/cửa)


Có lẽ vì quên nguồn gốc Hán ngữ của chữ Ải là ‘nơi chật hẹp, chỗ hiểm thế’ cho nên nhiều học giả Việt Nam dùng chữ Ải theo nghĩa sai lầm là cửa khẩu hay ‘cái đồn’ hay thành quách biên phòng do đó suy luận lẫn lộn rằng Ải Nam Quan cũng là cửa khẩu, ‘cái đồn’ hay thành lũy biên phòng mang tên Nam Quan. Do sai lầm này mà chúng ta thấy nhà viết sử Trần Gia Phụng đã xuất bản cả một tập sách để bày vẻ thêm là ‘Ải Nam Quan gồm hai phần kiến trúc (một của tàu, một của ta),’ Kỹ sư Nguyễn Ðình Sài khẳng định là ‘Ải Nam Quan đã nằm sâu trong “nội địa” Trung Quốc đến vài cây số,’ Chuyên Gia Nguyễn Ngọc Danh cố gắng ‘chứng minh rằng cho đến ngày gần đây (ít ra là năm 1954) Ải Nam Quan còn nằm trên lãnh thổ Việt Nam,’ Ký giả Tú Gàn cùng các ông Trương Nhân Tuấn và Tôn Thất Vinh ‘xác định rằng Ải Nam Quan không bao giờ là của Việt Nam,’ hay tác giả Bàn Tân Định viết ‘khó có thể nói toàn bộ Ải Nam Quan là thuộc về Việt Nam;’ những lập luận này trở nên vô nghĩa nếu các học giả hiểu đúng nghĩa của chữ Ải là ‘nơi chật hẹp, chỗ hiểm thế’ chứ không phải là cửa khẩu, ‘cái đồn’ hay thành quách biên phòng.


Khi nhận ra sự khác biệt giữa chữ Ải và chữ Quan như đã trình bày thì chúng ta mới hiểu sự minh bạch của cụm từ Quan Ải tức là vùng hiểm yếu (ải) có cổng gác (quan/cửa). Từ đó chúng ta có thể hiểu thêm cụm từ Biên Ải là vùng ranh giới (biên) hiểm thế (ải) [chứ không phải là thành quách hay cửa khẩu biên giới] cũng như Yếu Ải có nghĩa là nơi hiểm thế (ải) hệ trọng (yếu) [chứ không phải là thành quách hay cửa khẩu hệ trọng]; và cũng nhờ hiểu được chữ Trấn trong Trấn Nam Quan nằm trong bộ Kim có nghĩa ‘áp bức, bắt phải phục tòng’ cho nên chúng ta biết đuợc ý định của Bắc triều như thế nào đối với phương Nam khi dùng cụm từ này thay thế cho Nam Quan (xin đừng hiểu lầm chữ Trấn ở đây theo nghĩa ‘đơn vị hành chính khu vực’ như trong chữ thị trấn tức là thành thị để rồi thay thế lẫn lộn ý nghĩa đó với chữ Ải bởi vì Trấn Nam Quan hoàn toàn không có nghĩa là Ải Nam Quan).


Nhờ sự phân biệt nguồn gốc từ ngữ kể trên chúng ta biết được Nam Quan có nghĩa chính xác là cửa [khẩu] phía nam và phía nam ở đây là phía nam của Trung Hoa; trong khi đó, Ải Nam Quan có nghĩa chính xác là vùng hiểm thế (Ải) cạnh cửa [khẩu] phía nam (Nam Quan). Nam Quan vì là cửa khẩu cho nên được xây dựng tu bổ như sử sách đã ghi; ngược lại Ải Nam Quan là vùng đất hiểm thế chứ không phải là một thành quách được kiến trúc như nhiều học giả đã hiểu lầm. Do đó điều chúng ta học từ xưa là ‘đất nước Việt Nam hình chữ S trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau’ rất đúng bởi vì Ải Nam Quan là vùng biên giới hiểm thế của Việt Nam nằm phía nam của Nam Quan (cửa [khẩu] phía nam hay Port de Chine) thuộc Trung Hoa. Ông cha của chúng ta đã dùng từ ngữ rất chính xác cho nên khi đọc cổ sử chúng ta thấy ngay sự phân định rõ rệt về hai chữ Ải và Quan.


Đại Nam Nhất Thống Chí có đoạn ghi: ‘Cửa Nam Giao: cách tỉnh thành 31 dặm về phía bắc, ở địa phận 2 xã Đồng Đăng và Bảo Lâm thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp địa giới châu Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa này dựng năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại; có tên nữa là ‘Đại Nam Quan’, phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đất, đều dựa vào chân núi xây gạch làm tường gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa, có biển đề ba chữ ‘Trấn Nam quan’, dựng từ năm Ung Chính thứ 6 triều Thanh, có một cửa khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ ‘Trung ngoại nhất gia’, dựng từ năm Tân sửu đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có Chiêu Đức đài, đằng sau đài có Đình tham đường (nhà dừng ngựa) của nước Thanh; phía nam có Ngưỡng Đức đài của nước ta, bên tả bên hữu đài có 2 dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ này làm nơi tạm nghỉ.

Xét: Trấn Nam quan không rõ bắt đầu từ triều đại nào, trong Nam sử và Bắc sử đều không có minh văn. Khoảng đời Lê Cảnh Hưng, đốc trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang sửa lại Ngưỡng Đức đài, lập bia ghi việc, đại lược nói: ‘Nước Việt ta có Ngũ Linh, quan ải trước ở đâu không rõ, là vì diên cách thế nào không ghi đủ. Gần đây lấy địa giới châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa quan, cửa quan có Ngưỡng Đức đài không rõ dựng từ năm nào, có lẽ bắt đầu từ đời Gia Tĩnh nhà Minh’. Văn bia ấy nay vẫn còn.


Lại xét: Niên hiệu Gia Tĩnh (1522 – 1566) ngang với niên hiệu Nguyên Hòa (1533 – 1566) nhà Lê (Trang Tông), văn bia cũng nói có lẽ thôi. Sử chép: năm Nguyên Hòa thứ 8 Mặc Đăng Dung cùng bầy với bầy tôi là bọn Nguyễn Như Khuê dâng biểu xin hàng ‘Đến Đây mới thấy Sử chép tên Trấn Nam Quan.’


Phương Đình Dư Địa Chí của Nguyễn Văn Siêu ghi lại ở quyển 5: ‘Cửa quan có ở ải nam quan: Tại địa phận hai xã Đồng Đăng và Bảo Lâm, châu Văn Uyên, phía bắc giáp địa giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, hai bên tả hữu núi đá cao ngất, ở giữa mở một cửa quan, có cánh cửa có khóa, chỉ khi có việc sứ mới mở, tên là Nam Quan (một tên là Đại Nam Quan, một tên là Trấn Di Quan, lại có tên là Trấn Nam Quan. Sử ký chép: Năm thứ 8 niên hiệu Nguyên Hòa nhà Lê, Mạc Đăng Dung cùng với bầy tôi là lũ Nguyễn Như Quế qua cửa Trấn Nam Quan đến Mạc phủ nhà Minh dâng biểu xin hàng, cái tên Trấn Nam Quan mới thấy từ đây), có Ngưỡng Đức Đài, khi trước lợp cỏ, năm thứ 34 niên hiệu Cảnh Hưng, quan đốc trấn là Nguyễn Trọng Đang sửa lại, có văn bia như sau:


Khi nước ta có cả đất Ngũ Linh, cửa quan ở nơi nào không xét vào đâu được, sau này thay đổi thế nào không rõ, gần đây lại lấy châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa quan, có đài gọi là Vọng Đức, không biết dựng từ năm nào, hình như mới có từ khoảng niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh (ngang với khoảng niên hiệu Nguyên Hòa nhà Lê nước ta). Đài có quán hai bên tả hữu lợp bằng cỏ, sửa chửa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung hưng đời thứ 14, vua ta kỷ nguyên năm thứ 41 là năm Canh Tý, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn Long nhà Thanh. Ðang tôi làm giữ chức Đốc trấn qua 5 năm là năm Giáp Thìn, sửa chữa lại, đổi dùng gạch ngói, đài mới có vẽ hoành tráng... Như đã trình bày, Nam Quan nằm ở châu Bằng Tường (Quảng Tây) vì là cửa khẩu cho nên được Trung Hoa xây dựng tu bổ như sử sách ghi chép; ngược lại, Ải Nam Quan là vùng đất biên giới hiểm thế chứ không phải là một thành quách được kiến trúc như nhiều học giả đã hiểu lầm. Hai nguồn sử liệu chính kể trên cho chúng ta biết trên vùng đất hiểm thế Ải Nam Quan, Việt Nam đã dựng một đài đối diện Nam Quan mang tên Ngưỡng Đức ‘có quán hai bên tả hữu lợp bằng cỏ, sửa chửa qua loa.’ Ðài Ngưỡng Đức ở ‘châu Văn Uyên (châu Cao Lộc có xã Ðồng Ðăng, xã Bảo Lâm) trấn Lạng Sơn’ đã được Ðốc trấn Nguyễn Trọng Đang ‘sửa chữa lại, đổi dùng gạch ngói, đài mới có vẽ hoành tráng’ vào năm Giáp Thìn 1774. Đại Nam Nhất Thống Chí và Phương Đình Dư Địa Chí ghi rõ cửa khẩu mang tên Nam Quan của Trung Hoa nằm ở châu Bằng Tường (Quảng Tây) không phải và cũng không bao gồm Ngưỡng Đức Ðài của Việt Nam nằm đối diện về phía nam ở châu Văn Uyên (Lạng Sơn) và chắc chắn không mang tên ‘Ải Nam Quan’ - như nhiều học giả hiện nay gán tiếng - cũng như chưa bao giờ là một ‘cái đồn’ chung của Tàu và Việt ‘gồm hai phần kiến trúc (một của tàu, một của ta).’


Đại Nam Nhất Thống Chí và Phương Đình Dư Địa Chí cũng như các tài liệu của Pháp và Thanh triều đều chứng minh cho chúng ta thấy Nam Quan (cửa [khẩu] phía nam) của Trung Hoa còn có tên là Cửa Nam Giao, Đại Nam Quan, Trấn Di Quan, Trấn Nam Quan hay Porte de Chine được dùng như mốc điểm chứ không bao trùm Ải Nam Quan vốn là vùng hiểm yếu (Ải) cạnh Nam Quan. Sử sách và tài liệu cổ thư tuyệt đối không gọi Nam Quan (cửa [khẩu] phía nam) của Trung Hoa là Ải (vùng hiểm thế) Nam Quan bởi vì, như đã bàn ở trên, Ải Nam Quan có nghĩa là vùng hiểm thế (Ải) của Việt Nam cạnh cửa [khẩu] phía nam (Nam Quan) của Trung Hoa. Tôi có thể trình thêm sử sách ở đây để minh chứng cho vấn đề nhưng giới hạn của một tâm thư không cho phép. Tuy vậy, bạn vẫn có thể tham khảo thêm Bắc Thành Dư Ðịa Chí, Quảng Châu Ký, Tần Thư Ðịa Lý Chí, Lĩnh Biểu Lục Dị, v.v, để thấy sử liệu Hán ngữ của ta lẫn tàu phân định rõ rệt sự khác biệt giữa Nam Quan hay cửa khẩu phía nam của Trung Hoa và Ải hay vùng hiểm thế của Việt Nam cạnh Nam Quan. Do đó tôi xin xác nhận lại câu trả lời trước đây là vùng hiểm yếu mang địa danh Ải Nam Quan thuộc Việt Nam và cửa khẩu mang tên Nam Quan thuộc Trung Hoa. Tựu trung sự tranh luận vì lòng yêu nước của nhiều học giả trước đây chỉ xoay quanh sự lẫn lộn giữa chữ Ải và chữ Quan tương tự như ngày xưa khi các bậc đi trước đã bàn thảo sôi nổi là Kiều thương nhớ ai khi ngắm trời về đêm thấy ‘Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời’ cho đến khi vở lẽ là câu văn đó diễn tả những nét viết Hán ngữ của chữ Tâm (Thúc Kì Tâm là tên của Thúc Sinh).


Và khi biết được Ải Nam Quan là của Việt Nam, chúng ta mới thấy sự hèn hạ tồi bại của đảng CSVN khi dâng ít nhất 100 mét bề ngang của vùng đất thiên liêng này cho Trung Hoa để được Bắc Kinh bảo bọc. Thứ Trưởng Ngoại Giao CSVN Lê Công Phụng tiết lộ rằng đảng CSVN đã cắm cột mốc số 0 cách cửa khẩu Trung Hoa ‘trên 200m’ tức là chúng ta mất trên 100 thước đất bề ngang bởi vì theo Hiệp Ước Thiên Tân và Công ước 1887 giữa Pháp với Thanh triều thì cột mốc biên giới Việt Nam ở đây (số 18 có tên là Nam Quan) chỉ cách cửa khẩu Trung Hoa đúng 100 thước (à 100 m au S de la porte). Ðảng CSVN dâng đất cho Trung quốc nhưng lại nhẫn tâm cướp đoạt ruộng vườn của nông dân và cơ sở tôn giáo của nhân dân trong nước. Ðồng bào nhiều nơi đã lên tiếng phản đối và sớm muộn gì quân đội của nhân dân cũng sẽ lên tiếng bảo vệ quyền lợi của nhân dân chống lại thiểu số đảng viên cầm quyền bán nước cầu vinh. Tình hình sôi động gần đây trong nhân dân cũng như quân đội cho thấy đồng bào không ngồi yên để cho đảng CSVN mãi quốc cho Trung Hoa nhằm thủ lợi; và có lẽ cũng vì thế cho nên đảng chưa dám bắt Quốc Hội thông qua ‘Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa’ bởi vì bộ mặt phản quốc hèn hạ của đảng CSVN lộ nguyên hình trong hiệp định về lãnh hải này với sự dâng hiến cho Bắc Kinh trên 10 ngàn cây số vuông mặt biển.


Ðồng bào ở hải ngoại có lẽ không tường tận về việc việc đảng CSVN đã chuẩn bị tư tưởng trong nước vài năm trước đây cho kế hoạch phản quốc hiện nay qua nỗ lực cưỡng hiếp lịch sử. Sau khi thay đổi Hiến Pháp vào năm 1992 để xóa tên kẻ thù là ‘bọn bá quyền Trung quốc’ và nhằm chuẩn bị cho việc bán nước, các kiện tướng sử gia được đảng ra lệnh phán xét lại sử liệu để cầu Tàu. Giáo sư sử học Trường Ðại Học Tổng Hợp Hà Nội Phan Huy Lê khai bút trong phần giới thiệu Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư do nxb Văn Hóa Thông Tin ở Hà Nội phát hành vào năm 2000 bằng cách phê bình là sử gia Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư đã sai lầm khi xem Triệu Ðà và nước Nam Việt bao gồm Bắc phần, bắc Trung phần, Quảng Ðông và Quảng Tây như một triều đại chính thống của Việt Nam. Ngoài Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Tổng Luận của Lê Tung cũng xác nhận sự chính thống và biên cương của Nam Việt bao gồm cả Quảng Ðông và Quảng Tây [Lưỡng Quảng] với ước mơ chinh phục lại vùng đất đó của vua Quang Trung; tuy vậy, Phan Huy Lê vẫn phủ nhận việc này trong chiều hướng Việt Nam chưa từng có chủ quyền ở Lưỡng Quảng vốn đang nằm trong tay Trung quốc.


Trong khi đó Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm của Viện Khoa Học Xã Hội dưới sự chỉ đạo của đảng CSVN đã tổ chức một hội nghị về nhà Mạc vào năm 2000 để rửa ba trọng tội ‘cướp ngôi, dâng đất, đầu hàng giặc’ mà lịch sử Việt Nam khắc ghi khinh tởm. Mục đích của hội nghị này là để chuẩn bị tư tưởng trong nước trước khi đảng chính thức dâng nhượng biên thổ lãnh hải cho Trung quốc như họ Mạc đã làm cách đây gần 500 năm. Ðảng CSVN lo sợ nhân dân và quân đội phản kháng hành động mãi quốc cầu vinh cho nên cố gắng một cách tuyệt vọng để chạy tội quá khứ của Mạc Ðăng Dung và từ đó rửa đại tội bán nước hiện nay của đảng. Trong hội nghị này Giáo sư Trần Khuê đưa ngòi viết đi quá xa với bút pháp tưởng chừng chặc chẽ trong nhãn quan của độc giả kém hiểu biết nhưng thực sự chứa đựng đầy mâu thuẩn lịch sử như lối lý luận đồng hóa chính sách ngoại giao yển chuyển của Hoàng Ðế Quang Trung sau chiến thắng Ðống Ða với hành động đê hèn mãi quốc cầu vinh của Mạc Ðăng Dung để kết luận ‘tôi có thể khẳng định nhà Mạc không hề mắc tội bán nước’ (Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, nxb Ðà Nẳng 2000, tr. 44). Làm sao một sử gia khách quan có thể đồng hóa chính sách đối ngoại hòa bình trong uy thế oai hùng song song với thái độ khinh thường nhà Thanh của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ với hành động đốn mạt tự mang gông cùm, mặc đồ tù nhân để dâng đất cho Bắc Kinh của họ Mạc!


Từ hội nghị rửa tội cho Mạc Ðăng Dung này, đảng CSVN ngụy luận nhập nhoạng rằng đại sĩ phu Nguyễn Bỉnh Khiêm mà còn phục vụ Mạc Ðăng Dung thì thành phần trí thức cũng như nhân dân, quân đội các cấp hôm nay không nên chống lại đảng khi đảng bán nước cho Trung quốc để được Bắc Kinh bảo bọc như họ Mạc ngày xưa. May mắn thay cho tiền đồ dân tộc là nhân dân và quân đội hôm nay không dễ bị đảng lừa cho nên chúng ta mới thấy phong trào phản đối đảng CSVN mãi quốc cầu vinh bùng nổ khắp nơi. Ðặc biệt hơn là chính những người vốn từng bào chữa cho Mặc Ðăng Dung trước đây như Giáo sư Trần Khuê đã nhận thấy bị đảng CSVN gian lận tri thức cho nên nhanh chóng lên tiếng phê bình hành động bán nước của đảng. Họ đã bị đảng đàn áp nhưng nhờ nỗ lực vận động can thiệp của Diễn đàn Dân Chủ và các tổ chức khác mà đảng chưa dám ra tay thủ tiêu họ.  


Ðảng CSVN đã chuẩn bị bán nước của nhân dân cho Trung quốc một cách chu đáo như kể trên và ban đầu tưởng chừng như có thể trốn tránh được vết nhơ trọng tội mãi quốc qua xảo thủ cưỡng ép tư tưởng và giấu giếm thông tin. May mắn là dân tộc có được cộng đồng kiều bào hải ngoại với phương tiện truyền thông đại chúng đã phá thủng lưới chắn thông tin và kết hợp với nhân tố trong nước nhằm lên tiếng phản đối hành động mãi quốc cầu vinh ô nhục của đảng CSVN. Chính sự phản đối toàn thế giới của người Việt hải ngoại bắt buộc đảng phải ra lệnh cho Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng lên tiếng trên Internet (chứ không phải trên mặt báo chí trong nước) về vấn đề này. Tôi thực sự cảm ơn Lê Công Phụng vì đã bật mí khá nhiều chi tiết về trọng tội bán nước cũng như bề sâu ngu dốt về lịch sử và công pháp quốc tế của nhóm cầm quyền đảng CSVN. Theo Phụng, ‘cái quan trọng nhất’ của cuộc đàm phán hải thổ Việt-Hoa ‘là xác định mục tiêu của đảng, của chính phủ (CSVN)’ để ‘bám sát mục tiêu’ chứ không phải là để bảo vệ quyền lợi của nhân dân và đất đai của tổ tiên. Do đó vì quyền lợi tồn vong thực tiễn, đảng CSVN đã không ngần ngại dâng hơn 100 thước đất bề ngang ở Ải Nam Quan cũng như một nửa thác Bản Giốc vốn nằm cách biên giới ít nhất 5 cây số theo bản đồ Cao Bằng trong thời thuộc Pháp và trên 10 ngàn cây số vuông của Vịnh Bắc Bộ cho Trung cộng theo lời thố lộ của Lê Công Phụng. Khi bàn về biên giới thì đảng ra vẻ hiểu biết về Hiệp Ước Thiên Tân giữa Pháp và Trung Hoa nhưng khi nói đến lãnh hải thì đảng lý luận rằng hiệp ước này thiếu chính xác và viện dẫn Công Ước Quốc Tế về Luật Biển năm 1982 để nhường thêm cho Bắc Kinh 9% diện tích Vịnh Bắc Bộ nơi có nhiều tiềm năng dầu hoả và khí đốt.


Chiều sâu ngu dốt vô giới hạn của nhóm cầm quyền đảng CSVN lộ rõ qua lời phát biểu của Lê Công Phụng khi ông này phân tích ‘từ trước tới nay chưa có đường biên giới trên Vịnh bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung quốc’ và ‘đường quản lý hành chính’ giữa Pháp và nhà Thanh ‘không xem (như một cơ sở) bởi lẽ nó hoàn toàn không phù hợp với luật pháp quốc tế, tức là Công Ước Quốc Tế về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982’. Rõ ràng là đảng CSVN không hiểu rõ Hiệp Ước Thiên Tân, Công ước 1887 giữa Pháp và nhà Thanh cùng Công Ước Quốc Tế về Luật Biển 1982 mà dám công khai dùng các tài liệu này để ngụy biện cho hành động đê hèn dâng đất nhượng biển cho Trung quốc.
Công ước 1887 giữa Pháp và nhà Thanh xác định rõ ràng biên giới trên Vịnh Bắc Bộ như sau: v ‘Au Kouang-Tong, il est entendu que les points contestés qui sont situés à l'est et au nord-est de Monkai, au-delà de la frontière telle qu'elle a été fixée par la Commission de delimitation, sont attribués à la Chine. Les iles qui sont à l'est du meridien de Paris 105 degré 43' de longitude est, c'est-à-dire de la ligne nord -sud passant par la pointe orientale de l'ile de Tch'a Kou ou Puanchan (Tra-co) et formant la frontière, sont également attribuées à la Chine. Les iles Go-tho et les autres iles qui sont à l'ouest de ce meridien appartiennent à l'Annam.’


Ðường quản lý hành chính được mô tả kỷ lưỡng và được xác định là lập thành biên giới (formant la frontière) trên Công ước 1887 do Pháp và Trung Hoa ký kết vậy mà đảng CSVN qua Lê Công Phụng tuyên bố rằng ‘từ trước tới nay chưa có đường biên giới trên Vịnh bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung quốc.’ Thực sự đảng CSVN cũng không ngu dốt đến như vậy bởi vì vào tháng 8-1974 khi Bắc Kinh đòi phân chia Vịnh Bắc Bộ, Hà Nội dưới ô dù bảo vệ của Mạc Tư Khoa đã thẳng thừng khước từ với lý luận là đường biên giới trong vịnh đã được Pháp và Thanh triều quy định rõ ràng từ xưa. Nhưng hiện nay vì cần phải tiếp tục đàn áp nhân dân và quân đội trước tiến trình dân chủ hóa đất nước cho nên đảng CSVN phải ca ngợi hành động bán nước của Mạc Ðăng Dung và quên đi đường biên giới trong Vịnh Bắc Bộ được ghi trên Công ước 1887 để dâng đất nhượng biển cầu thân với Bắc Kinh.


Ðảng CSVN cũng cố gắng lạm dụng Công Ước Quốc Tế về Luật Biển 1982 để chạy tội mãi quốc cầu vinh. Nhưng nhóm lãnh đạo đảng càng chứng tỏ sự đần độn ấu trĩ khi viện dẫn công ước phức tạp này cùng ‘điều kiện tự nhiên của Vịnh Bắc Bộ và quan trọng nhất là địa lý về phía Việt Nam và về phía Trung quốc và nguồn lợi trong vịnh’ (lời Lê Công Phụng) để nhường cho Bắc Kinh một vùng biển trên 10 ngàn cây số vuông nơi có hầu hết toàn bộ tiềm năng dầu hoả và khí đốt trong vịnh. Quyền lợi của nhân dân Việt Nam song song với biển trời bao la của tổ tiên trong Vịnh Bắc Bộ bị mất trắng nhưng đảng CSVN vẫn ngụy biện cho hành động bán ước này như đã cố gắng đánh bóng Mạc Ðăng Dung là thực tiễn và phù hợp với luật quốc tế! Nhóm lãnh đạo đảng CSVN mãi quốc hoặc là không biết hay cố tình che giấu một yếu tố quan trọng trong Công Ước Quốc Tế về Luật Biển 1982 được dùng để phân định ranh giới lãnh hải: mật độ dân chúng sinh sống trong vùng tranh chấp. Nếu chỉ dựa riêng vào yếu tố thực tế quan trọng này, Việt Nam vẫn xác định được chủ quyền hầu hết Vịnh Bắc Bộ bởi vì mật độ dân chúng của Việt Nam tiếp cận Vịnh Bắc Bộ vượt trội hơn của Trung quốc khá xa. Ðảng CSVN đã lộ nguyên hình một lũ bán nước cầu vinh đang cố ngụy biện một cách tuyệt vọng nhằm chống đỡ tiến trình dân chủ hóa đất nước. Nhân dân ba miền và quân đội các cấp đang truy sách đảng về hành động mãi quốc cầu thân Bắc Kinh. Tôi hy vọng đồng bào hải ngoại tiếp tục trợ lực dân tộc vốn đang gặp nguy cơ bị lịch sử bỏ rơi vì đảng CSVN đàn áp bắt phải đi ngược lại với trào lưu phát triển của nhân loại trong vòng một phần tư thế kỷ vừa qua. Sự hy sinh trong chính tâm vị quốc bất vụ lợi của những nhân tố dân chủ trong và ngoài nước hiện nay sẽ góp phần rửa sạch vết nhơ lịch sử lần thứ hai do đảng CSVN tạo ra làm hoen ố trào lưu sinh tồn của dân tộc.

Ngôn bất tận ý cho nên tôi xin dừng bút ở đây. Tôi kính xin gởi lời chúc tốt lành đến tất cả quý anh chị em đang vận động dân chủ cho đất nước và xin cầu chúc cho hội luận của các bạn về án trạng đảng CSVN mãi quốc cầu vinh được thành công mỹ mãn.


Thành kính, Nông Bản Nhân

Thư Mục 

Thơ

Đổi Thay  
Những Đoản Khúc
Tơ Vò
Hương Phai 
Thi Đàm /Thi Họa

Kịch Thơ 

Cô Hàng Nước  
Ngồi Đợi Bình Minh

Truyện Dài

Cơ Trời Vận Nước
Trầm Bay

Truyện Ngắn

Bước Hổng Chân Không
Ba Con Yến Nhỏ
Cây Cà Rem Đầu Đời

Sưu Tập

Ca Dao

Huy Chương VNCH

Huy hiệu QL/VNCH

Huy Hiệu QĐ Pháp/Đ-Dương

Tiền Tệ
Quân Sử VNCH

Điếu Tế 

Văn Tế
Điếu Văn
25 Năm Xây Dựng CĐ
Hot Links
Ha Huyen Chi
Gia Đình Võ Bị
All Links

Miếng Ngọt Quê Hương

Thực Vô Cầu Bão
Cá Kho
Món Xào

Send mail to haphuonghoai@gmail.com with questions or comments about this web site.
Copyright © 2003 Haphuonghoai
Last modified: 01/29/13