Dẫn Nhập - Phần Một: Dữ Kiện - Tài Liệu - Phần
Hai: Phân Tích - Phần Ba: Đề Nghị - Kết Luận
NGHĨA VỤ BẢO VỆ BỜ CÕI VIỆT NAM
Tài liệu nghiên cứu của ông Nguyễn Ðình Sài
Nam
quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Bốn câu thơ trên của danh tướng Lý
Thường Kiệt sinh vào thế kỷ 11 đời nhà Lý, xác định rằng sông núi nước Nam là
của dân tộc Việt, đã hiện hữu từ hàng ngàn năm trước, bất cứ ai ngang ngược xâm
phạm sẽ bị đánh bại tan tành. Ðó là một tuyên ngôn về chủ quyền của đất nước,
là biểu tượng về quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của dân tộc Việt Nam trước các cuộc
xâm lấn không ngừng từ phương bắc. Trải qua bao nhiêu thời đại, biên giới Việt
Hoa vẫn được giữ nguyên vẹn. Ải Nam Quan bao lần được nhắc đến trong lịch sử
chống ngoại xâm vẫn luôn luôn là cái mốc ranh giới phương bắc của nước Việt.
Thế nhưng, đến cuối thập niên 50, thì lãnh thổ Việt Nam bắt đầu mất dần... Vì
sao ?
Nguyễn Ðình Sài
Kỹ Sư Công Chánh
Hội Chuyên Gia Việt Nam
Dẫn Nhập
Nguyễn Ðình Sài
(LÊN MẠNG THỨ BẢY 15 THÁNG MƯỜI HAI 2001)
I
- Nam Quốc Sơn Hà
Nam quốc sơn
hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Bốn câu thơ
trên của danh tướng Lý Thường Kiệt sinh vào thế kỷ 11 đời nhà Lý, xác định rằng
sông núi nước Nam là của dân tộc Việt, đã hiện hữu từ hàng ngàn năm trước, bất
cứ ai ngang ngược xâm phạm sẽ bị đánh bại tan tành. Ðó là một tuyên ngôn về chủ
quyền của đất nước, là biểu tượng về quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của dân tộc Việt
Nam trước các cuộc xâm lấn không ngừng từ phương bắc. Trải qua bao nhiêu thời
đại, biên giới Việt Hoa vẫn được giữ nguyên vẹn. Ải Nam Quan bao lần được nhắc
đến trong lịch sử chống ngoại xâm vẫn luôn luôn là cái mốc ranh giới phương bắc
của nước Việt. Thế nhưng, đến cuối thập niên 50, thì lãnh thổ Việt Nam bắt đầu
mất dần... Vì sao ?
II
- Vấn nạn của hậu duệ Việt Nam
Năm 1979,
Trung Quốc đem quân đánh chiếm Lào Kay, Cao Bằng và Lạng Sơn, ba thị trấn địa
đầu giới tuyến Việt Nam. Nhưng sau hơn hai tuần chạm phải chiến thuật du kích
của quân đội trú phòng địa phương, họ đã rút về. Họ gài lại một bãi mìn khổng
lồ trên vùng đất đã lấn chiếm để chặn đường truy kích của quân đội chính quy mà
đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) sắp điều động từ miền Nam lên chiến tuyến.
Sau 15 lần
hội đàm giữa đại diện Bắc Kinh và Hà Nội từ đầu thập niên 1990's, hiện nay hai
bên đã tiến tới việc vẽ bản đồ phân ranh giới (demarcation). Bắc Kinh thỏa
thuận tháo gỡ các mìn đã chôn. Ðến tháng 8 năm 1999, Bắc Kinh đã hoàn tất công
tác gỡ mìn dọc theo biên giới. Ðây là một thành quả được các nhà quan sát thời
sự xem là lớn nhất trong lịch sử gỡ mìn.
Về phía Hà
Nội, trong suốt thời gian hiện hữu, đảng CSVN đã nhiều lần tương nhượng đất đai
bị Bắc Kinh đánh chiếm. Bây giờ cổng "Hữu Nghị" thì nằm ở phía
nam ải Nam Quan và ải Nam Quan đã nằm sâu trong "nội địa"
Trung Quốc đến vài cây số. Trong các cuộc thương thảo hai bên, Bắc Kinh luôn
luôn biện giải đó chỉ là một tình tra.ng "hiện hữu tất nhiên"
(status quo) vì phần đất đó "do những thổ dân địa phương muốn sống dưới
nền hành chánh của Trung Quốc". Ngược lại CSVN hầu như không có thái
độ tranh thủ quyết liệt để đòi lại đất đai đã mất.
Mặt khác Hà
Nội cũng nhắm mắt cúi đầu cho Bắc Kinh chiếm giữ và khai thác mỏ dầu ở các quần
đảo Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa), và di nhượng luôn một phần của
Tonkin Bay (Vịnh Bắc Việt). Mục đích là đánh đổi sự ổn định để giao thương với
Mỹ và để rảnh tay mà bảo tồn quyền hành thống trị của đảng đối với nhân dân
Việt Nam.
Không những
thế, dưới sự dụ dỗ lẫn áp lực của Bắc Kinh, rồi đây đảng CSVN sẽ tiến hành công
cuộc xây xa lộ Trường Sơn ngay trên con "đường mòn HCM" trong
thời chiến, từ biên giới tây bắc xuống tận vùng Tây Ninh, rồi bắc sang xa lộ
đông-tây Việt Miên xuyên qua Cambodia, để Trung Quốc mượn đường mà giao thương
với Thailand, Malaysia, và Indonesia. Xa lộ này sẽ ảnh hưởng quan trọng trên
các phương diện môi sinh, kinh tế, chiến lược phòng thủ, không những đối với
Việt Nam, mà còn đối với cả toàn vùng Ðông Nam Á. Bài viết này nhằm mục đích
trình bày một cách tóm lược các diễn biến từ nửa thế kỷ qua, phân tích mối tham
vọng của Bắc Kinh cũng như những nhượng bộ của Hà Nội, để từ đó đề nghị một số
giải pháp thích ứng cho nghĩa vụ bảo vệ bờ cõi Việt Nam.
|