Home

Thơ

Sưu Tập

Văn Điếu Tế  Linh Tinh Trang Ca Dao Search

 

   

Tiền tệ trong dân gian ở đất Gia Định xưa

--- không rơ tác giả ---


 

Ba trăm năm phát triển của Sài G̣n - Gia Định đă in dấu trên nhiều b́nh diện, trong đó có quan hệ tiền tệ. Trong bài khảo luận khái quát về tiền tệ Đàng Trong của nhà văn Sơn Nam, đồng tiền có số phận riêng, mang hơi thở thời đại, gắn bó với những biến cố, thăng trầm của mảnh đất này.

Đây là tiền, hiểu theo nghĩa thông thường là "Đồng tiền thông dụng để mà mua bán" (Tự vị Huỳnh Tịnh Của). Thời xưa tiền đúc bằng đồng, có giá trị tốt hơn tiền kẽm, có lẽ v́ vậy nên măi đến nay ta vẫn gọi đơn vị tiền tệ là đồng (đồng bạc) v́ thói quen. Thời phong kiến, vua c̣n ban thưởng những loại "tiền" vô cùng quư giá cho các vị công thần (không có lỗ chính giữa, gọi là kim tiền, ngân tiền) một kiểu huân chương, có thứ nặng đến gần một lượng.

Người Việt đă dùng tiền từ lâu và đă dùng tiền giấy để thử nghiệm (thời Hồ Quư Ly). Các chúa Nguyễn (trước Nguyễn Hữu Cảnh) đă dùng tiền để mua bán, nhưng thuế đất vẫn chú trọng thu bằng hiện vật (lúa), phải chăng v́ muốn được "chắc ăn", pḥng khi đói kém, có tiền không mua được gạo? Chúa Nguyễn, nối chí Nguyễn Kim, trên danh nghĩa, v́ vậy mà vẫn suy tôn nhà Lê, ḍng vua chính thống từ lâu đời, do đó không đúc tiền riêng, nhưng đă là kinh tế hàng hóa, ở mức độ thấp vẫn phải dùng tiền.

Đọc Phủ Biên tạp lục của Lê Quư Đôn, ta thấy các chúa đă linh động mua tiền cổ bên Trung Hoa không c̣n tiêu dùng, sẵn có niên hiệu Tường Phù, Thuần Hóa đem ra tiêu xài, rồi phỏng theo dáng ấy mà đúc lại, phỏng theo nét cũ của tiền Trung Hoa nhưng mỏng hơn. Lại cho người đến đảo Macau (áo Môn - bấy giờ người Bồ Đào Nha đang khai thác) để mua loại kẽm đặc biệt đem về đúc tiền. Họ Mạc ở Hà Tiên, được chút ít quyền tại thị trấn của ḿnh cũng đúc ra liên tục nhiều loại tiền. V́ nhu cầu thị trường nội địa và giao thương với nước ngoài, các chúa Nguyễn đă linh động giải quyết nhanh, có kiểm soát.

Trở lại vấn đề hơi hóc búa: Lúc Tây Sơn và Nguyễn Ánh tranh chấp nhau ở đất Gia Định vào những năm cuối thế kỷ 18, ở đây đă dùng loại tiền nào? Nay ở các hiệu tư nhân bán đồ cổ, ta gặp khá nhiều đồng tiền kẽm với niên hiệu đời Đường, đời Tống bên Trung Hoa, tính lại xưa hơn ngàn năm nhưng chưa chắc bên Trung Hoa c̣n bảo quản! Nên hiểu đa số vẫn là tiền đúc mà các chúa Nguyễn đă mô phỏng, tạm dùng v́ chưa được là triều đại chính thống. Tại những vùng tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, ở đồng bằng sông Cửu Long (xưa gọi đất Ba Giồng, Tam Phụ), khi rút lui nhanh, tránh truy kích, ta gặp nhiều loại tiền này.

Ở Hà Tiên, họ Mạc đă đúc tiền kẽm, hầu hết ghi niên hiệu Thái B́nh, nhưng ít ai chú ư sưu tầm. Cũng ở Hà Tiên, phía Ḥn Chông, gần ḥn Phụ Tử, c̣n Hang Tiền, hiểu là nơi sau này phát hiện nhiều tiền kẽm đóng lại thành khối. Và ở Sóc Trăng c̣n địa danh rạch Trường Tiền, có thể hiểu là nơi Nguyễn Ánh đă bố trí dạng xưởng nhỏ "dă chiến" để đúc tiền xài tạm bợ lúc chiến tranh dai dẳng, từ bên Xiêm về, tiền bạc không có lập tức để tiêu xài.

Lịch sử ra đời Sài G̣n gắn bó với sự phát triển của cảng biển nay là Hội An (phố cổ Hội An). Có thể nói không sai rằng: Hội An là "tiền bối" của cảng Sài G̣n, nơi đă có những loại tiền phương Đông và phương Tây, với trị giá không rơ rệt. Thật ra từ xưa người phương Đông vẫn thích "vàng thoi, bạc nén".

Sài G̣n mặc nhiên chịu ảnh hưởng thương mại, với tiền tệ giống như Phú Xuân và Hội An. Nhưng đến cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp đánh chiếm Sài G̣n rồi cả Nam Kỳ, Sài G̣n bị tách ra khỏi nước Việt Nam. Cảng Hội An c̣n đó, kém trù mật trong khi Sài G̣n trở nên phồn thịnh. Với chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", các đô đốc hải quân Pháp đă mở cảng rất sớm, một cảng Quốc tế với thủ tục thuế khóa đă áp dụng cho châu Âu ngay khi tướng Nguyễn Tri Phương đang mở rộng phạm vi của thành Chí Ḥa (Phú Thọ). Từ trước đồng bạc con c̣ của Mexico Tây Ban Nha khống chế đă phổ biến cùng với sự hiện diện của quân đội Tây Ban Nha (liên quân của Pháp). Tiền này khá nặng, trong thực tế có giá trị cụ thể so với tiền kẽm được ưa thích.

Anh ham chi đồng bạc con c̣
Bỏ cha bỏ mẹ theo pḥ Lang Sa.


Trên thị trường, v́ đồng bạc con c̣ (thật ra là con ó) không có đơn vị nhỏ, muốn mua sắm lặt vặt phải chặt ra làm tư, làm tám (gọi góc tư, góc tám, hoặc gọi cắt tư, cắt tám (cắt ra). Tuy cắt ra nhưng quả thật bằng bạc với tỷ lệ cao, lúc túng bấn cùng quẫn có thể cắt ra làm đồ trang sức. Người Pháp nắm ưu thế với đồng franc. V́ tiền kẽm c̣n thông dụng trong dân gian, thực dân tạm quy định một đồng franc của Pháp tương đương với một quan (600 đồng tiền kẽm) v́ vậy gọi là quan (tiếng Việt). Pháp đem qua Sài G̣n đồng quan bằng vàng, ít tiêu dùng. Bấy giờ, trong dân gian đồn đại rằng khi ra trận, hoặc khi càn quét nghĩa quân, giặc đem đồng franc hoặc đồng bạc Mexico (đă cắt ra) mà rải ra trên đường đi, v́ tham lam, nhiều người xúm nhau ra lượm, lắm khi chúng rải trong bụi rậm, phải mất nhiều th́ giờ để t́m, v́ vậy mà giặc thắng trận dễ dàng.

Để tiết kiệm tiền bạc người Pháp nghĩ ra cách dùng thuốc phiện để đổi lúa gạo khi xuất khẩu. Giới mại bản đầu cơ người Hoa nắm cơ hội này. Bấy giờ v́ thị trường tự do, cảng mở tự do nên tiền bạc nước ngoài lưu hành dễ dàng ở Sài G̣n. Thí dụ, đồng tiền gọi Lá Bài "từ Hongkong" (đă là nhượng địa cho Anh), lại c̣n đồng rupee (roupie), dân gian gọi dông dài là "cà ru-pi" từ ấn Độ. Đồng đô-la Mỹ xuất hiện, nhưng trong dân gian gần như không ai biết, cũng như đồng bảng Anh (livre sterling) chưa được nghe trong dân gian.

Theo cơ chế của thực dân ở Sài G̣n, người nước ngoài kể luôn Hoa kiều, ấn kiều được quyền đem các loại tiền ḿnh thích khi trở về quê quán. ở Sài G̣n, theo đường Đồng Khởi ngày nay, nơi người nước ngoài thường lui tới, nhiều người ấn kiều (phần lớn mang quốc tịch Pháp) sống khấm khá với nghề đổi tiền nước ngoài ra loại tiền khác, hoặc đổi ra tiền Đông Dương.

Cái Răng, Ba Đáng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anh có thương em (th́) cho bạc cho tiền,
Đừng cho lúa gạo, xóm giềng cười chê.


Cô gái thích được tặng tiền giấy vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo! hoặc:

Thông ngôn, kư lục, bạc chục không màng,
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay.


Lương bổng của công chức Việt hạng sang tuy là bạc chục (đôi ba lạng vàng) nhưng là tiền bằng bạc trắng. Nhớ lại thời xưa, nhiều vị điền chủ đi ra tỉnh để vay bạc của giới mại bản phải đem theo một tay thân tín để vác tiền, đựng trong cái bao. "Tôi cho anh vay 20 đồng bạc trắng", hiểu theo nghĩa đồng bạc thứ thiệt, không phải bạc giấy. Sau năm 1930, thay bản vị từ bạc ra vàng (Đông Dương Ngân hàng) nhưng trong thực tế, chưa thấy ai đem "giấy một đồng vàng" đến ngân hàng đổi lấy vàng được. Giới trung nông, phú nông thậm chí lớp nghèo thành thị hồi trước 1940 vẫn chưa hiểu rằng đồng bạc nếu chôn lâu ngày sẽ giảm giá. Thuở ấy, một người dân lao động, mà mang theo tấm giấy 20 (gọi giấy hoản, vingt) hoặc giấy xăn (cent: trăm đồng với h́nh cái bộ lư) th́ bị bắt. Chỉ có kẻ trộm cướp mới có số tiền lớn như thế!

Đồng tiền làm hư hỏng luân lư và phong tục cổ truyền, làm hư hỏng luật lệ "Ba trăm lạng bạc" đă là bước khởi đầu đau xót của Thúy Kiều. Lúc thực dân Pháp đến, sự diễn biến về thế lực vạn năng của đồng tiền được phản ánh trong câu hát đối đáp:

Gái:

- Thân như đồng bạc đầu h́nh,
Lăng xăng dường buổi chợ, biết gởi ḿnh vào đâu?

Trai:

- Thân anh như tủ sắt khóa chặt mà lại để hờ,
Tóm thâu tiền bạc giấy tờ, đồng tiền nào phải nghĩa, được nhờ th́ anh cất vô!

 

Thư Mục 

Thơ

Đổi Thay  
Những Đoản Khúc
Tơ Ṿ
Hương Phai 
Thi Đàm /Thi Họa

Kịch Thơ 

Cô Hàng Nước  
Ngồi Đợi B́nh Minh

Truyện Dài

Cơ Trời Vận Nước
Trầm Bay

Truyện Ngắn

Bước Hổng Chân Không
Ba Con Yến Nhỏ

Sưu Tập

NQ Thương Hận Tập I
NQ Thương Hận Tập II
Ca Dao

Huy Chương VNCH

Huy hiệu QL/VNCH

Huy Hiệu QĐ Pháp/Đ-Dương

Tiền Tệ

Điếu Tế 

Văn Tế
Điếu Văn
 
Miếng Ngọt Quê Hương Về Trang Chủ

Friendly Links

Thực Vô Cầu Băo 25 Năm Xây Dựng CĐ Ha Huyen Chi
Cá Kho 25 years of the Community building Gia Đ́nh Vơ Bị
Món Xào Gia Phả Họ Nguyễn Diên Trường All Links
Send mail to haphuonghoai@gmail.com with questions or comments about this web site.
Copyright © 2003 Haphuonghoai
Last modified: 07/01/16