| 
                  
                  Hồn 
                  dân tộc qua những đồng tiền Việt xưa 
                  Với kỹ thuật luyện kim 
                  tinh vi, người Việt xưa, từ Phù Nam đến Đại Việt, không những 
                  đă đúc được các loại tiền cổ vào loại đẹp nhất thời đó, mà c̣n 
                  thể hiện được tinh thần dân tộc, ư chí tự quyền.  
                  Nước Việt Nam ngày nay 
                  h́nh chữ S, Bắc giáp Trung Quốc, Tây giáp Lào, Campuchia, Đông 
                  và Nam giáp biển Việt Nam.  
                    
                      | 
                      Sự 
                      phân tích bằng phương pháp vật lư mới cho những kết quả kỳ 
                      diệu về những loại tiền đồng Việt xưa, chứng minh rằng đă 
                      20 thế kỷ trước cha ông ta đă đúc được những loại tiền 
                      không những có chất lượng cao mà c̣n thể hiện sự tự hào 
                      độc lập dân tộc.  |  
                  Trên lănh thổ ấy từ 
                  hai mươi ba thế kỷ, người Việt cổ đă biết dùng tiền và đúc 
                  tiền. Điều sau này không có ǵ lạ v́ từ thuở xa xưa ông cha ta 
                  đă có một kỹ thuật luyện kim ở tŕnh độ cao, đă thực hiện 
                  những trống đồng có hoa văn tinh vi như trống đồng Ngọc Lũ 
                  trước Công nguyên hay những tượng đồng Phật Đồng dương mang áo 
                  có những lằn xếp rủ mềm mại, cuối thế kỷ thứ ba.  
                  Những phát hiện kỳ 
                  diệu từ tiền cổ Đại Việt
                   
                  Nhờ chế ngự được kỹ 
                  thuật luyện kim tinh vi, người Việt cổ không những đă đúc tiền 
                  cho dân tộc mà c̣n đúc những đồng tiền mang niên hiệu các nước 
                  láng giềng, nhất là Trung Quốc. Một chứng cớ là những đồng 
                  tiền kẽm trên lănh thổ Việt Nam mang những niên hiệu Trung 
                  Quốc, từ Đường, Tống đến Minh, Thanh mà lịch sử không bao giờ 
                  nói Trung Quốc có đúc những tiền kẽm này.  
                  Xem những đồng tiền 
                  h́nh tṛn, thường có lỗ vuông, đôi khi có lỗ tṛn, đôi khi 
                  không có lỗ, người ta hay nói là tiền làm bằng đồng. Sự thực, 
                  trong lịch sử, không mấy khi có tiền đúc bằng đồng ṛng, 
                  nguyên chất.  
                    
                      | 
                        |  
                      | 
                      Tiền thời 
                      Đại Việt |  
                  Sự phân tích bằng 
                  những phương pháp vật lư mới đă đưa lại những kết quả kỳ diệu: 
                  Từ hai mươi thế kỷ, ông cha ta khi làm những đồng tiền đă dùng 
                  những hợp kim từ những kim loại nguyên chất chứ không phải từ 
                  những kim loại quặng. Từ xưa cho đến đầu thế kỷ thứ mười sáu, 
                  hợp kim đúc tiền chỉ chứa ba nguyên tố: đồng, ch́, thiếc, đôi 
                  khi có sắt. Những nguyên tố khác, khi t́m thấy, tỉ lệ của 
                  chúng thường xa dưới một phần trăm.  
                    
                      | 
                        |  
                      | 
                      
                      Tiền thời Phù Nam |  
                  Thành phần hóa học của 
                  hợp kim, không phải là một sự ngẫu nhiên v́ nếu dùng đồng ṛng 
                  th́ khó đúc hoa văn tinh vi và kết quả vật đúc sẽ mềm, khó 
                  dùng. Thêm ch́ th́ dễ đúc nhưng thành vật vẫn mềm. Nghệ nhân 
                  thời cổ biết thêm thiếc vào, hợp kim trở nên cứng, thích nghi 
                  cho đồng tiền tiêu dụng.  
                  Ở miền Nam lănh thổ 
                  Việt Nam thời Phù Nam xưa có những đồng tiền nội sinh t́m thấy 
                  ở Ốc Eo, trước và sau thế kỷ thứ sáu. Những đồng tiền này 
                  không có lỗ, thường mang hoa văn h́nh người hay h́nh thú, 
                  tương tự như những đồng tiền Yuezhi Việt Chi, một triều đại 
                  gốc Bách Việt đă định cư ở Sogdia, Bactria vùng Tây Bắc Ấn Độ, 
                  Pakistan, sau khi dân tộc Hán bành trướng ở đầu thế kỷ thứ hai 
                  trước Công nguyên. Tôi đă bốn lần đi thăm vùng Sogdia và đă 
                  thu lượm được một ít đồng tiền tộc Việt Yuezhi. Những đồng 
                  tiền Ốc Eo Phù Nam hay Ốc eo Khmer cũng như những đồng tiền 
                  Yuezhi, thường đúc theo xu hướng kim loại ṛng.  
                  Sự liên hệ địa lư này 
                  khá dĩ nhiên như chúng ta đă biết, từ thế kỷ thứ nhất và thế 
                  kỷ thứ hai có bốn gia đ́nh tộc Việt Yuezhi đă rời Sogdia theo 
                  đường biển lần đến cội nguồn và tái định cư ở Luy Lâu và đă 
                  lập nên chùa Dâu thuộc Bắc Ninh ngày nay. Cái chùa đầu tiên 
                  này có tháp vuông độc đáo của kiến trúc Việt Nam xưa. Tôi có 
                  đến chùa Dâu, ngoài cái bia bốn mặt đă được trùng tu bằng cách 
                  quét phủ một lớp xi-măng (!) che mất chữ khắc trên bia, tôi 
                  không t́m ra được những đồng tiền mong muốn.  
                  Ư chí độc lập qua tiền 
                  cổ
                   
                    
                      | 
                        |  
                      | 
                      
                      Tiền thời nhà Đinh |  
                  Trong lịch sử có nói 
                  có những đồng tiền từ Lư Nam Đế, năm 544, hay Triệu Việt 
                  Vương, năm 548, nhưng hiện giờ người ta chỉ đào thấy những 
                  đồng tiền thời Đinh là cổ nhất ở miền này.  
                  Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi 
                  khi thống nhất sơn hà, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, 970, không 
                  chỉ dùng Hán ngữ mà có dùng Việt ngữ: Cồ là to (như ta gọi con 
                  gà trống là con gà cồ).  
                  Ư chí muốn cách biệt 
                  nước láng giềng lại c̣n trên đồng tiền, lấy tên là Thái B́nh 
                  Hưng Bảo. Trái với lệ Trung Quốc hay dùng hai chữ “Nguyên Bảo” 
                  hay “Thông Bảo”, Đinh Tiên Hoàng dùng chữ “Hưng Bảo”. Chữ hưng 
                  có nhiều ư nghĩa, nhưng ư đẹp nhất làm đượm sự tự hào tự chủ. 
                  Trên lưng tiền lại ghi thêm tên triều đại “Đinh”. Lệ này không 
                  hề thấy ở những nước láng giềng, thường hay ghi niên hiệu mà 
                  thôi.  
                  Ư chí độc lập này c̣n 
                  kế tiếp trên lưng tiền đời Lê: Đại Hành/Thiên Phúc, 980 và đời 
                  Trần: Minh Tông/Khai Thái 1324.  
                  Vua Lê Đại Hành, tuy 
                  không dùng chữ “Hưng Bảo” nhưng sáng tạo nên chữ “Trấn Bảo” và 
                  vua Trần dùng từ “Đại Bảo”.  
                  Sau đó nước láng giềng 
                  Trung Quốc, thấy Việt Nam đặt chữ mới cho tiền đồng, cũng bắt 
                  chước theo và dùng chữ “Đại Bảo”, có triều lại thêm “Trọng 
                  Bảo” hay “Chi Bảo”.  
                  Trí tưởng tượng của 
                  những nhà thiết kế các loại tiền đồng Đại Việt không ngừng ở 
                  đó. Lê Hiển Tông (1740 – 1786) đưa ra tiền Cảnh Hưng, không 
                  những mang từ “Thông Bảo”, “Đại Bảo”, mà c̣n tạo ra “Cự Bảo”, 
                  “Dụng Bảo, “Nội Bảo”, “Chính Bảo”, “Tuyền Bảo”, “Vĩnh Bảo”, 
                  “Trọng Bảo”, “Thái Bảo”, “Thuận Bảo” v.v... Trí tưởng tượng và 
                  ư chí thực hiện đều hơn người và đi trước người như thế rất 
                  đáng kính, từ đó trên những đồng tiền nước bạn không thấy từ 
                  nào mới, dường như họ đă chịu thua hay từ bỏ cuộc chạy đua. 
                  Hóa ra trên mặt những tiền đồng có hiện ra hồn dân tộc. 
                   
                  Từ đời Lê, nước Đại 
                  Việt đă có những đồng tiền đẹp nhất thế giới.- Hơn thế nữa, 
                  tôi xin nhắc lại, dưới thời Đại Việt từ Lê Thái Tông, 1434, 
                  đến Lê Tương Dực, 1510, những đồng tiền Đại Bảo, Đại Ḥa, Diên 
                  Ninh, Thiên Hưng, Quang Thuận, Hồng Đức, Cảnh Thống, Đoan 
                  Khánh, Hồng Thuận như vừa t́m thấy ở Hoàng thành Thăng Long, 
                  đă được các chuyên gia thế giới cho là những đồng tiền đẹp 
                  nhất thời đó, đẹp hơn cả đồng tiền Trung Quốc “Đại Định” do 
                  chính vua Kim Thế Tông tự viết năm 1161. Những đồng tiền này 
                  lại được thiết kế theo kiểu tôi đă xin cho tên là “Thiết kế 
                  tiền đồng Đại Việt”, với hoa văn đúc thấp hơn ṿng biên mặt 
                  đồng tiền, trong khi ở Trung Quốc và Nhật Bản, hoa văn và ṿng 
                  biên nằm trên cùng một mặt phẳng, và ở Âu châu phần hoa văn 
                  cao hơn ṿng ngoài. Lối thiết kế này có công dụng bảo tŕ khi 
                  ma sát, hoa văn khỏi chóng hư hao.  
                  Khi phân tích vật lư, 
                  lại thấy ông cha ta thời Đại Việt đă dùng những thành phần kim 
                  loại thích ứng cho việc đúc tiền có hoa văn tinh vi, tương tự 
                  như lối đúc trống đồng Ngọc Lũ.  
                  Những đồng tiền 2003, 
                  khi phân tích th́ thấy ngoài đồng 5.000 đồng là hợp kim đồng, 
                  nickel, một ít bạc, c̣n những đồng khác đều bằng sắt mạ 
                  nickel, hay mạ đồng. Kỹ thuật này đưa đến sự chóng đổi màu bề 
                  mặt và chóng gỉ bề sâu.  
                  Chúng ta không nên 
                  quên đồng tiền là máu huyết trong kinh tế và cũng là ḷng tin 
                  trong xă hội.  
                  Thường thường, ngân 
                  khố các nước trên thế giới hay thông đồng với nhau mặc dầu bề 
                  ngoài có khi xung khắc. Như đă thấy trên, trước thế kỷ thứ 
                  mười sáu, tiền có lỗ vuông ở Á châu thường chứa 3 kim loại. 
                  Mạc Đăng Dung, năm 1527 đưa thêm kẽm vào hợp kim, cùng thời 
                  với Gia Tĩnh đời Minh. Việc đưa kẽm vào hợp kim đồng - ch́ - 
                  thiếc, không là v́ lư do kinh tế mà chỉ v́ lư do kỹ thuật, làm 
                  cho hợp kim được cứng hơn. Sự khó khăn khi bỏ dần thiếc trong 
                  hợp kim, tuy kết quả cứng hơn, nhưng khó đúc. Điều này dĩ 
                  nhiên đưa đến sự bỏ dần kỹ thuật đúc tiền và dùng kỹ thuật 
                  “rập nện”, như đă được dùng nhiều dưới triều Nguyễn (tiền 
                  Nguyễn) Tây Sơn và cuối đời hậu Nguyễn (bắt đầu từ Phúc Ánh).
                   
                  GS-TS Phạm Văn Hường (ĐH 
                  Bardeaux 1 - Pháp) Nguồn: www.nld.com.vn   |