|
Chương tŕnh Lễ Kỳ Yên
Lễ Kỳ Yên mang ư nghĩa là ngày giỗ hội của làng
Chương tŕnh lễ kỳ yên thường kéo dài hai ngày một
đêm, gồm có các nghi lễ chính là: lễ thỉnh sắc thần; lễ tế Thần Nông,
cúng miễu, liệt sĩ; lễ Túc yết; lễ Chánh tế; lễ cúng Tiền hiền, Hậu
hiền, Hội viên quá văng; lễ đưa sắc thần. Mục đích của lễ kỳ yên là
tế thần thành hoàng để cầu quốc thái dân an, xóm làng thịnh vượng,
no ấm.
Các đ́nh đều thờ Tiền hiền, Hậu hiền là những người
có công quy dân lập làng hoặc bỏ tiền của xây dựng các công tŕnh phúc
lợi công cộng đầu tiên để lại gương soi cho đời sau. Cho nên nói chung,
lễ kỳ yên mang ư nghĩa là ngày giỗ hội của làng.
Các nghi lễ thường giống nhau, gồm một tiết mục dâng hương, ba lần
dâng rượu, một lần dâng trà. Cuối một nghi lễ đều có một bài văn tế
thay cho lời khấn, nội dung gồm những lời tán dương thần thánh và
lời cầu nguyện của dân làng. Khi tế lễ phải có dàn nhạc cụ gơ nhịp
gồm: mơ, chiêng, trống, chuông.
Trong thực tế, ở lễ kỳ yên th́ phần “lễ” chiếm phần quan trọng
hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông
đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng bổn cảnh.
Lễ kỳ yên là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện gia đ́nh yên ấm,
vui chơi. Xưa kia, ở các đ́nh c̣n có tục cứ ba năm đáo lệ tổ chức
hát bội, cúng thần giúp vui bá gia, bá tánh. Những tục lệ này nhằm
thắt chặt t́nh cộng đồng. C̣n hát xướng trong ngày lễ kỳ yên không
phải là văn nghệ b́nh thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương tŕnh
văn nghệ phải có nội dung đạo lư, kết thúc có hậu.
Lễ kỳ yên c̣n là dịp để các nghệ nhân thể hiện sự khéo léo như
chưng hoa, kết quả. Buổi lễ cũng là dịp cho người làm vườn giới
thiệu các loại cây trái mới,
người làm ruộng giới thiệu các giống nếp ngon qua tài nữ công của
chị em phụ nữ. Tuy nhiên, tiệc tùng trong ngày lễ kỳ yên chỉ mang
tính liên hoan, chiêu đăi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu
dưới” nhậu nhẹt say sưa.
Lễ Hội Kỳ Yên Ở Vĩnh B́nh (Tiền Giang)
Ngày nay, lễ hội Kỳ Yên của đ́nh Vĩnh B́nh
(thị trấn Vĩnh B́nh, huyện g̣ Công Tây) là lễ hội Kỳ Yên lớn nhất của
tỉnh Tiền Giang.
Đ́nh nằm trong nội ô thị trấn Vĩnh B́nh, cách thành phố Mỹ Tho khoảng
27km về phía đông.
Vùng đất này, thế kỷ XVII đă có người Việt từ các tỉnh miền ngoài đến
sống rải rác trên giồng cát, xen lẫn với người Khơ me bản địa. Đây là
một trong ba nơi của xứ G̣ Công có người Việt đến sớm (ngoài giồng Sơn
Quy thuộc thị xă G̣ Công và vùng Đồng Sơn ngày nay).
Người Việt đến khai hoang vùng này ngày một đông. Đáng kể nhất là khoảng
nửa sau thế kỷ XVIII, có ông Trần Văn Huê cùng hơn 40 nam nũ đến lập
nghiệp. Họ tích cựa khai hoang những vùng đất cao. Ông Huê là người giỏi
giang, biết hốt thuốc, sống đức độ, được dân trong vùng quư mến. Năm Mậu
Th́n 1808 lập làng Vĩnh Lợi, lúc đó thuộc tổng Ḥa B́nh, huyện Kiến Ḥa,
trấn Định Tường, ông Huê đứng chân trong chính quyền làng, sửa sang ngôi
miễu có từ trước thành đ́nh làng Vĩnh Lợi, to lớn, bằng tre lá để thờ
Trần Hoàng như bao ngôi đ́nh khác.
Bảy năm sau, vào năm Aát Hợi 1815, ông Huê lập chợ Vĩnh Lợi, dân trong
vùng quen gọi là chợ Giồng, chợ cũng bằng tre lá, mỗi năm mỗi tu sửa, mở
rộng thêm, là một trong 7 chợ của xứ G̣ Công thế kỷ XIX.
Khi ông Huê qua đời (chưa rơ năm), giồng đất này được gọi là Giồng Ông
Huê, và chợ Vĩnh Lợi cũng được gọi là Chợ Giồng Ông Huê.
Năm Đinh Sửu 1877, nhân dịp vua Tự Đức xa giá về Sơn Quy (vùng thị xă G̣
Công nay) để viếng mộ ngoại, làng Vĩnh Lợi tấu tŕnh xin xây dựng một
ngôi đ́nh mới. Thế là, ngôi đ́nh mới được xây dựng tại một địa điểm khác,
cột gỗ, lớp ngói, nằm phía sau công sở, gần chợ Giồng (nay là khách sạn
trong khu vực chợ).
Người Việt lần lượt di cư ngày một nhiều, có một số người tiếp nhận văn
hóa Chàm, thờ chúa Ngọc hay gọi là thờ thánh Mẫu, v́ cho rằng thánh Mẫu
rất thiêng liêng. Năm 1885, họ xây dựng một ngôi miễu thờ Thánh Mẫu
Thiên Y A NA khá lớn, nay c̣n tốt, nằm phía sau trường Mẫu giáo. Cũng
năm Aát Dậu 1885, trong làng xây dựng một trường học, được gọi là trường
tổng, là một trong 6 trường của xứ G̣ Công. Có chợ, trường, đ́nh, miễu,
khu vực này nhanh chóng trở nên sầm uất, đ́nh đám, hội hè cũng rôm ră
hơn nơi khác.
Hàng năm, từ 14 đến 16 tháng chạp, dân làng hoan hỷ vào lễ hội Kỳ Yên (tức
lễ hội Cầu An). Do quan niệm Thánh Mẫu rất thiêng, nên mỗi lần cúng đ́nh
phải làm lễ viếng Bà tại miễu, đưa linh vị thần đến miếu Bà, cúng tế Bà
rất long trọng, rồi mới đưa linh vị thần trở về đ́nh an vị. Dân làng đưa
lễ vật: xôi, thịt, trà, rượu, bánh, trái, thậm chí cả heo quay đến cúng
đ́nh. Các tṛ chơi dân gian kéo dài suốt 3 ngày, như đẩy cây, bịt mắt
đập nồi, bắt vịt trên sông, ngâm thơ, múa lân, ra câu ḥ, câu đối v.v…
Tại đ́nh, đội múa lân liên tục trổ tài, hết sức vui nhộn. Các đêm có
diễn tuồng. Suốt mấy ngày đêm dân làng hồ hởi kéo nhau ra đ́nh, trai tài,
sái sắc đua tranh, trẻ em quên không về, người già lo đi lễ, chu tất lạ
thường.
Năm Giáp Th́n 1904, vùng G̣ Công tan tác bởi cơn băo lớn, và sau là trận
đại dịch. Người chết quá nhiều, không chôn hết. Nỗi kinh hoàng c̣n ám
ảnh đến nhiều năm sau. Dân làng lập “Đàn tràng” để cầu an. Thầy pháp
dựng bài vị Đức Thánh Trần Hưng Đạo để xua đuổi âm binh, cô hồn quấy phá.
Nay tượng Đức Thánh Trần vẫn dựng trong sân đ́nh. Do thờ vua nên hàng
năm vào lễ Kỳ Yên, đ́nh phải tổ chức múa rồng cho hợp với tước vị của
vua. Đây là nét đặc biệt của đ́nh Vĩnh B́nh mà nhiều đ́nh khác không có.
Năm 1947, lực lượng Việt Minh đánh vào nhà Việc của Ban hội tề. Nhà Việc
bị cháy, lửa lan sang đ́nh Vĩnh B́nh, làm đ́nh bị hư hỏng nặng. Các sắc
thần không rơ bị thất lạc hay bị cháy, nay không c̣n.
Năm 1950, đ́nh được xây mới, do ông Tổng Ngữ đứng ra quyên góp tiền và
huy động nhân lực trong làng.
Năm 1979, do nhu cầu mở rộng quy mô chợ và để có chỗ xây dựng khách sạn,
toàn bộ khối kiến trúc gồm: nhà việc cũ, đ́nh và rạp hát đều bị giải tỏa.
Đ́nh tạm dời về miễu Bà (miễu thờ Thánh Mẫu Thiên Y A NA).
Năm 1995, bà Sáu Biếu, một người giàu có trong vùng, bỏ tiền của và huy
động vốn đứng ra xây dựng một ngôi đ́nh mới, lấy mẫu đền thờ Trương Định,
bổ sung một số chi tiết cho thêm phần cổ kính, trên phần đất do Nhà nước
cấp sau khi giải tỏa đ́nh.
Cho đến nay, lễ hội Kỳ Yên của đ́nh Vĩnh B́nh vẫn là lễ hội Kỳ Yên lớn
nhất tỉnh.
Từ trưa ngày 14 tháng chạp (âm lịch), đội Lân Rồng của đ́nh đón “Bàn các
ấp” của thị trấn – một nghi thức có từ lâu của đ́nh để cung thỉnh những
vị đang được thờ tại các miễu và thỉnh vong linh các bậc tiền bối có
công với địa phương. Trên bàn là các phẩm vật về nông nghiệp của nông
dân như bông lúa, trái cây v.v… để tạ ơn thần linh. Sau đó là lễ đưa
linh vị thần đến miếu Bà, cúng tế rồi lại đưa linh vị thần trở về đ́nh.
Ngày 15 tháng chạp diễn ra các lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, vong linh
liệt sĩ, Cho đến nửa đêm th́ cúng tế thần. Nhiều năm trở lại đây, tế
thần là một con ḅ sống với nhạc tế lễ.
Suốt ngày 16 tháng chạp, dâng làng đến dâng lễ vật (thịt, xôi, bánh,
trái…) cùng khách đ́nh các nơi đến cúng tế. Đội rồng không ngớt mua vui.
Khi mặt trời sắp lặn, đội rồng đi quanh chợ, chúc sự phát đạt, thịnh
vượng cho mọi người. Nửa đêm, lễ tống gió được tiến hành. Những con tàu
bằng giấy kiếng, trang trí cầu kỳ, thắp những cây đèn cầy, thả trôi sông
cùng các nghi lễ tống gió độc, xui xẻo ra biển, kết thúc 3 ngày đêm sống
trong những linh cảm của nhiều nghi lễ, và náo nhiệt tưng bừng của hội
hè.
Để tạo thêm không khí vui tươi của những ngày chuẩn bị đón tết Nguyên
đán, huyện G̣ Công Tây tổ chức hội xuân tại thị trấn này, thường là từ
ngày 10 đến ngày 16 tháng chạp (âm lịch). Tại đây các tṛ chơi dân gian
xen lẫn với tṛ chơi hiện đại, các cuộc thi thể thao, giới thiệu sản
phẩm hàng hóa, triển lăm thành tựu, các đêm đều có biểu diễn nghệ thuật:
xiếc hoặc mô tô bay, ca nhạc … với một số danh ca, danh hài thu hút rất
nhiều người ở vùng khác đến xem.
Cứ mỗi lễ hội Kỳ Yên đi qua, người dân thị trấn Vĩnh B́nh lại có niềm
vui chờ đón một lễ hội Kỳ Yên khác sẽ tới.
Lễ hội Kỳ Yên ở đ́nh làng Lạc Tánh (B́nh
Thuận)
Nguồn: Báo B́nh Thuận
Như đă
thành thông lệ, hàng năm cứ vào dịp rằm tháng hai âm lịch đ́nh làng Lạc
Tánh lại tổ chức lễ hội Kỳ Yên. Lễ diễn ra trong tiết xuân nên cũng được
gọi là lễ tế xuân. Năm nay đ́nh làng tổ chức lễ vào hai ngày 30 và
31/3/2010 nhằm ngày rằm và 16 tháng hai âm lịch, ngoài lễ hội truyền
thống nhân dân Lạc Tánh c̣n có thêm niềm vui mới đó là đón nhận danh
hiệu di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Ngôi
đ́nh tọa lạc giữa khu đất rộng ngay giữa trung tâm thị trấn Lạc Tánh
trên trục lộ ĐT 720 quay về hướng Đông Nam. Đ́nh làng Lạc Tánh có từ năm
1940 được làm bằng gỗ quư theo lối tứ trụ gồm 2 tầng mái chồng lên nhau,
tầng trên thờ 2 sắc tứ vua ban, tầng dưới thờ Thành hoàng Bổn cảnh và
các bậc tiền hiền đồng thời là nơi làm việc của Ban Ngũ hương làng. Đến
năm 1950 đ́nh bị cháy rụi hoàn toàn và măi đến năm 1967 mới được xây
dựng lại. Trong 17 năm (từ 1950 đến 1967) tuy không c̣n mái đ́nh thực
thụ nhưng những nghi thức tế lễ vào dịp rằm tháng hai hàng năm vẫn diễn
ra đều đặn. Đây cũng là lư do mà đ́nh làng Lạc Tánh được xem xét công
nhận di tích lịch sử văn hóa bởi những giá trị văn hóa phi vật thể của
nó. Đ́nh làng Lạc Tánh không có những nét kiến trúc độc đáo như những
đ́nh làng cổ của Việt Nam, nhưng giá trị về mặt tâm linh rất lớn. Người
dân quanh vùng luôn hướng về ngôi đ́nh như một điểm tựa về tinh thần,
theo tín ngưỡng dân gian lưu truyền th́ Thành hoàng Bổn cảnh luôn phù hộ
cho cư dân nơi đây được yên ổn làm ăn, tránh được thú dữ. Tên gọi Tánh
Linh bắt nguồn từ chữ Play T’nao Linh có nghĩa là “bàu nước thiêng”, cả
vùng nằm trong ḷng chảo, xung quanh có núi non bao bọc nên được ví như
thế.
Tương
truyền, ngày xưa khi đất Tánh Linh c̣n hoang vu, rừng rậm vây lấy xóm
làng mà dân cư th́ thưa thớt, cọp beo lai văng quanh vùng và thi thoảng
lại vào bắt heo. Cọp từ trong tiềm thức dân gian luôn là linh vật và
được mệnh danh là chúa tể sơn lâm, do vậy dân làng chỉ kiêng kỵ né tránh
mà không t́m cách bắt giết. Từ đó cọp tỏ ra thân thiện với người và sau
khi có đ́nh làng th́ “ông cọp” này lại về ngự ở đ́nh làng vào những lúc
vắng vẻ. Ngày nay người dân cố cựu ở Lạc Tánh vẫn c̣n truyền tụng
nhiều giai thoại về cọp Tánh Linh, có lẽ nghi thức tế lễ thỉnh sinh của
đ́nh làng vào giữa khuya cũng bắt nguồn từ đó. Đối với đ́nh Lạc Tánh tục
giết heo cúng thần là nghi thức đặc trưng nhất và cũng lạ nhất so với
nghi thức tế lễ của các đ́nh làng khác, dân làng đến dự cũng trông chờ
thời khắc quan trọng đó.
Năm nay,
trong dịp lễ hội Kỳ Yên - đ́nh làng Lạc Tánh c̣n vinh dự được đón nhận
bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa, niềm vui được nhân lên gấp bội.
Giá trị
văn hóa phi vật thể của đ́nh làng Lạc Tánh được thể hiện rơ qua việc duy
tŕ và tổ chức các lễ hội văn hóa dân gian truyền thống theo đúng tập
tục và các nghi thức xưa. Đă có thời gian dài khi đ́nh làng không c̣n
hiện diện nữa th́ các tập tục vẫn được duy tŕ, điều đó cho thấy tầm
quan trọng của việc tế lễ đối với đời sống tinh thần của người dân địa
phương. Lễ hội của đ́nh làng Lạc Tánh không chỉ là lễ hội của người Kinh
nơi đây mà c̣n là lễ hội chung của các dân tộc anh em Chăm, K’ho, Raglai
bản địa hay từ các vùng lân cận. Đây là nét đặc sắc riêng hiếm thấy ở
những đ́nh làng khác, việc tham gia lễ hội chung của các dân tộc thể
hiện sự đoàn kết gắn bó cũng như sự tiếp biến, giao lưu văn hóa giữa các
dân tộc anh em.
Kỳ Yên
có nghĩa là cầu an, là lễ hội lớn được tổ chức long trọng qui mô nhất
trong năm của đ́nh làng. Từ chiều ngày rằm tháng hai lễ hội chính thức
diễn ra với nghi thức lễ nghinh thần, sau đó đến lễ thỉnh sinh, lễ tế
thần và các nghi thức tế âm linh cứ vài giờ lại một lượt nối tiếp nhau
từ nửa đêm tới sáng. Ngày hôm sau (tức ngày 16 âm lịch) lễ cầu quốc thái
dân an diễn ra – đây là chánh lễ tế xuân - Kỳ Yên. Nghi lễ gồm dâng
hương, dâng rượu, dâng trà và đọc bài văn tế…
Nghi
thức cầu quốc thái dân an kết thúc cũng là lúc kết thúc lễ hội Kỳ Yên
của đ́nh làng Lạc Tánh. Sau các nghi lễ, vật tế được mang xuống cùng với
sự đóng góp tự nguyện của dân làng, một bữa tiệc diễn ra ngay tại khuôn
viên của đ́nh. Mọi người dự lễ hội chẳng phân biệt đâu là khách đâu là
chủ, cùng quây quần bên nhau vừa ăn uống vừa tṛ chuyện vui vẻ, cùng
nâng ly rượu lễ chúc mừng lễ hội thành công, chúc sức khỏe lẫn nhau và
trong tâm trí họ luôn tin tưởng Thành hoàng Bổn xứ sẽ bảo bọc độ tŕ cho
quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt, người người khỏe mạnh yên vui.
|