|
Trò chơi trò diễn dân gian vùng Hà Nội
Giang Quân
Nhà xuất bản Hà Nội - 2001
|
|
|
|
1
Lời đầu sách
Trò chơi, trò diễn dân gian là một bộ
phận quan
trọng không thể thiếu trong lễ hội truyền thống, một mảng của kho tàng
văn hóa dân tộc cần được bảo tồn.
Vùng Hà Nội giữ vai
trò trung tâm đất nước, với Thăng Long đang vào tuổi nghìn năm, là nơi
hội tụ tinh hoa của mọi miền tổ quốc, của các dân tộc anh em sống trong
cộng đồng Việt Nam. Cho nên, trong các hội làng, ngoài phần vui chơi,
trình diễn những trò đặc thù, riêng biệt, gắn liền với tục thờ thành
hoàng của làng, còn có những trò chung tiếp thụ từ bốn phương.
Cái làm nổi đình
đám của hội làng chính là các trò chơi, trò diễn. Vui chơi, múa hát, thi
tài là những sinh hoạt văn hóa đại chúng có sức hút mạnh mẽ đông đảo mọi
người cả ở hai phía: tham gia và tham dự, nhập cuộc và hưởng thụ.
Bởi nội dung và
hình thức phong phú của các trò chơi, trò diễn dân gian đã khơi gợi hứng
thú không
chỉ giải trí, mà
còn đáp ứng nhu cầu về rèn luyện tinh thần và thể lực của con người.
Những trò chơi,
trò diễn “trai thi mạnh, gái thi mềm” đã góp phần vào việc hoàn thiện
tính cách “chân, thiện, mỹ” và xã hội hóa cá nhân, gắn bó họ mật thiết
với nhau trong tình đoàn kết, sự kỷ luật và ý chí chiến đấu chung.
Trò chơi, trò diễn
dân gian nào cũng mang dấu ấn sâu sắc của lịch sử, của thời đại và xuất
phát từ thực tiễn lao động sản xuất và bảo vệ giang sơn.
Lễ hội chính là
miếng đất để con người bộc lộ tài năng và giao lưu tình cảm. Sự được
thua trong các cuộc thi đấu không đem lại lòng ghen tị, đố kỵ và hận thù;
chỉ có ganh đua lành mạnh, vì giải thưởng rất nhỏ, mang ý nghĩa tượng
trưng hơn là vật chất.
Nói đến trò chơi,
trò diễn dân gian vùng Hà Nội cũng là nói đến nhiều trò chơi, trò diễn
chung của cả nước. Tuy nhiên, tìm hiểu kỹ ta vẫn thấy có những chỗ cải
biên, ứng dụng sáng tạo cả trong nội dung và hình thức cho phù hợp với
chất thanh lịch của người Thăng Long - Hà Nội.
ở trò chơi “bắt
chạch trong chum” mang ý nghĩa tín ngưỡng phồn thực, người kinh kỳ đã
thay vì động tác bóp ngực, xoa lưng bằng cách bạn nam nắm cổ tay bạn nữ
không để cho giằng ra, nhưng lại phải nắm nhẹ nhàng, mềm mại không được
làm hằn đỏ cổ tay nhau.
Ném còn đâu chỉ là
trò chơi của các dân tộc miền núi. Thăng Long bảy, tám thế kỷ trước đã
có hội tung còn. Họ đứng thành vòng tròn hoặc hai hàng nam nữ cách nhau
một dải nước. Quả còn là vật giao duyên giữa đôi lứa có tình ý với nhau.
Họ tìm cách ném cho nhau và bắt còn của nhau. Không cần có cột còn với
chiếc vòng âm dương treo trên đỉnh cao.
Đánh phết cũng là
trò chơi đã ghi vào sử sách từ thời Lý. Vương hầu đánh phết bằng ngựa,
còn dân gian chạy bộ đưa quả phết vào hố hoặc lùa phết trên đoạn đường
dài của làng, từ đình ra cổng rồi lại quay về.
Cũng là thi thổi
cơm mà có nhiều kiểu, thổi trên cạn, thổi dưới thuyền, vừa đi vừa thổi...
với những điều kiện khe khắt khác nhau.
Hội đua thuyền, bơi
chải có nhiều ở các làng ven hai bờ sông Hồng, sông Nhuệ... Cuộc thi mỗi
làng một quy cách khác, nhưng nổi lên hơn cả vẫn là hội bơi Đăm.
Nói chung, các trò
vui chơi đều để thi thố tài năng và rèn luyện tinh thần thượng võ. Có
trò chơi chỉ dành cho lễ hội, lại có trò chơi chơi lúc nào cũng được.
Cũng không thể thiếu các trò chơi trẻ em gắn liền với đồng dao vô cùng
quen thuộc từ xa xưa, đang mất dần trước các thú chơi trò điện tử hiện
đại.
Hà Nội là đất quê
hương của một số trò diễn độc đáo như các miếng trò múa cờ, chém tướng,
hát ải lao, múa bắt hổ trong hội Gióng; trò diễn múa rối nước Đào Thục
với anh Bá Khí làm giáo trò; diễn hát Cửa Đình của Lỗ Khê sau thành nghệ
thuật ca trù...
Múa hát dân gian,
hát giao duyên cũng là thể loại của trò diễn, vừa phục vụ cho nghi lễ
của làng, vừa là món ăn tinh thần cho ngày hội của cộng đồng. Hát trống
quân, hát đúm, hát ví... cũng như múa sênh tiền - mõ lộn, múa đánh bồng,
múa sư tử, múa rồng... đã thành các trò diễn quá quen thuộc với người
Thăng Long - Hà Nội, cũng như khắp đất nước.
Nhiều trò diễn sau
đã định hình và trở thành môn nghệ thuật chính thức.
Sưu tầm, khai thác,
bảo tồn... để từ đó nghiên cứu cải biên, nâng cao cho phù hợp với ngày
nay, hoặc giữ nguyên bản cũ mang tính lịch sử của nó không làm sai lệch
đi, các trò chơi, trò diễn, trò thi trên đất Thăng Long - Hà Nội, có
nghĩa là giữ gìn cho đời sau một trong những vốn quý của nền văn hóa
Việt Nam truyền thống.
Việc biên soạn này
chắc chắn chưa đầy đủ và còn nhiều thiếu sót do tính chất đa dạng của
các địa phương và sự nhớ lại chưa chính xác của người tường thuật, người
sưu tầm, kể cả việc tiếp thu từ các sách biên soạn trước đây.
Rất mong được bạn
đọc, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian chỉ cho những sai sót.
Xin chân thành cảm
tạ.
Hoàn thành bản thảo
trong trại viết của Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội chào mừng 990 năm Thăng
Long - Hà Nội, tại nhà sáng tác Văn học - nghệ thuật
Đà Lạt, tháng 8 -
2000
Giang Quân
I - Trò chơi dân gian
Hất phết
Tương truyền có từ
thời Hai Bà Trưng, đây là môn rèn luyện thể lực cho nữ quân.
Quả phết to bằng
quả bưởi, bằng gỗ đẽo tròn,
có nơi
sơn son để thờ ở đình, vào hội mới đưa ra chơi. Gậy đánh phết bằng gộc
tre đào cả củ, dài khoảng 1m, gọt nhẵn hết rễ nhưng để nguyên củ tre
phình ra dưới gốc.
Số người chơi chia
làm hai phe bằng nhau. Sân phết vạch chia đôi, giữa sân vẽ một vòng tròn,
là nơi đặt quả phết khi vào cuộc.
Cuối hai bên sân
đều đào một hố to lọt quả phết.
Lối chơi gần giống
môn khúc côn cầu.
Mỗi bên dùng gậy
phết hất quả phết về phía sân đối phương sao cho lọt xuống hố là thắng.
Như vậy phải vừa dẫn phết, vừa lừa đối thủ, vừa tránh họ phang vào phết,
không để họ cướp được quả phết.
ở làng Phù Đổng,
sân phết chỉ có một hố, người chơi chia làm hai phe; một phe bảo vệ hố
không cho bên kia đưa phết vào hố; một phe tìm cách lừa đối phương đưa
phết từ xa bật đến sát hố để đẩy vào.
Hễ thắng là hết ván,
đổi phiên giữa hai phe đánh tiếp.
Trong lễ hội làng
Đông Đồ (nay thuộc xã Nam Hồng - Đông Anh) có hất phết thành lệ từ xa
xưa. Trai làng dùng gậy hất phết đưa từ sân đình ra đến Cổng Cầu rồi lại
hất đưa phết quay trở về. Người đưa, người dẫn, người chặn hai bên để
phết không rơi xuống ruộng.
Hội đền Linh Lang (Voi Phục) xưa cũng có trò chơi hất
phết.
Triều Lý - Trần,
vua, quan cũng tổ chức hất phết trong dịp đầu xuân, mỗi đội 12 người,
mặc sắc phục khác nhau, cưỡi ngựa cầm gậy hất phết lăn vào hố bên nào là
bên ấy thua. Cạnh hố có để một giá cờ. Cứ mỗi bàn thắng, bên đội thắng
được cắm một lá cờ.
Trọng tài dùng
trống cái làm hiệu lệnh.
Lúc đầu, phết chỉ
dành cho phái nữ. Nam muốn chơi phải mặc giả nữ. Sau ai chơi cũng được.
Vật cầu
Tương truyền đây là
môn thể thao dân gian do tướng quân Phạm Ngũ Lão bày ra để rèn luyện thể
lực cho quân sĩ, thời nhà Trần chống quân Nguyên - Mông.
Vật cầu còn gọi vật
cù. Quả cầu (cù) làm bằng
gỗ sơn đen hoặc đỏ,
có nơi làm bằng quả bưởi to hoặc gọt bằng gốc chuối.
Sân chơi có vạch
ngang ở giữa, hai đầu đào hai hố sâu lọt quả cầu.
Số người chơi không
hạn chế. Chia làm hai đội bằng nhau, mỗi bên thắt lưng một màu khác (bên
đỏ, bên xanh).
Cầu đặt ở chính
giữa vạch. Hai bên dàn quân. Nghe xong lệnh xướng, xô vào cướp cầu bằng
tay, tung chuyền cho đồng đội đưa về bên sân đối phương, ném xuống hố là
thắng.
Trống thúc ngũ liên
cổ vũ.
Có thể dùng mọi
cách để tranh cướp cầu về phe mình, còn đối phương thì ra sức bảo vệ
đồng đội đã ôm được cầu di chuyển về hố đối lập hoặc tung ra ngoài vòng
vây để người khác dẫn tiếp.
Hội làng Xuân Dục (huyện
Sóc Sơn), Thúy Lĩnh (Thanh Trì) có trò vật cầu.
Còn ở Hội Chi Nam -
thôn Sen Hồ, xã Lệ Chi, (Gia Lâm) có trò chơi cũng giống như vật cầu.
Người chơi chia hai phe, mình trần; một bên khố đỏ, bao vàng; một bên
khố xanh, bao trắng.
Hai bên “đánh quân”
bằng vật và đấu gậy cho đến lúc quân địch (khố xanh, bao trắng) bị thua.
Ông đám đội từ đình ra chiếc mâm son trên bày quả dừa. Ông trịnh trọng
đặt quả dừa lên ngọn cây tre trồng giữa sân. Ngọn tre đã chẻ sẵn làm tư
để cặp chặt lấy quả dừa. Nghe trống lệnh, trai bao vàng xô lại rung cây
tre cho quả dừa rơi xuống, rồi chèn nhau để cướp lấy quả dừa. Ai cướp
được, tôn là “tông” được ngồi ăn cỗ với già làng ở chiếu nhất. Còn quả
dừa đập nát chia cho các trai dự trò chơi mỗi người một mảnh con lấy lộc
may.
Ném còn
Thường chơi trong
Hội Lồng tồng của đồng bảo Tày, Nùng, Thái, Mèo... vùng Tây Bắc, nhưng
do giao lưu văn hóa mà người Khơme ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có ném
còn.
Người Việt vùng
Châu thổ sông Hồng thời Lý, vua quan cũng có tục chơi ném còn vào lễ hội
xuân.
Dân gian chơi ở xã
Bồ Đề, Gia Lâm; “ném còn ao chạ” ở hội làng Kiêu Kỵ, Gia Lâm.
Bao nhiêu người
chơi cũng được, chia làm hai phe nam - nữ đứng hai bên. ở giữa bãi rộng
trồng một cây trẻ thẳng, cao, có ngọn, gần đỉnh treo một vòng tròn uốn
bằng nan tre, phất giấy hai mặt, một mặt màu vàng tượng trưng cho mặt
trăng, một mặt màu đỏ tượng trưng cho mặt trời. Chiếc vòng tròn này được
gọi là “phông còn”, nó còn có ý nghĩa vật linh của người con gái (màng
trinh), khi bị quả còn ném thủng là biểu lộ mở đầu sự sinh sản bảo tồn
nòi giống. Đường kính “phông còn” từ một gang rưỡi đến hai, ba gang tay,
tùy cây tre cao thấp. “Quả còn” làm bằng vải, kết nhiều mảnh màu lại
thành những múi, bọc chặt lấy những hạt thóc giống, hạt bông, hai sản
phẩm chính để tự túc của nhà nông. Có nơi nhồi cả ít đất, cát. Cuối múi
là túm tua dài kết bằng chỉ ngũ sắc, dài ba gang tay, đủ để cầm vung vẩy
tạo đà định hướng, nhằm ném tung quả còn vào phông còn. Mỗi nhà được làm
hai quả còn, ai cũng muốn quả còn nhà mình rực rỡ nhất, đẹp nhất.
Mở đầu hội chơi,
người chủ trì gọi là “ông từ” đặt hai quả còn to nhất lên mâm, làm lễ
cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, trai gái đủ đôi, ngay tại bãi
còn. Cúng xong, ông từ tung hai quả còn lộc cho mọi người xô nhau cướp.
Ai giành được, năm ấy may mắn. Hội còn đã mở. Trai gái bắt đầu tung còn
của mình ném lên phông còn. Ngoài ra, còn lấy quả còn ném giao duyên vào
cô gái hoặc chàng trai nào mình đang để ý, như một lời ướm hỏi. Nếu đối
tượng đón bắt lấy còn; rồi dùng quả còn của họ ném trả lại là trả lời đã
đồng ý giao đãi làm quen với nhau sau hội tung còn.
Khi phông còn bị
ném thủng, là cầu nguyện đã được viên mãn, ông từ lấy quả còn vừa lọt
qua đích, rạch túi, ban hạt giống cho mọi nhà lấy may. Người ném rách
phông còn tin tưởng một năm mới tốt lành, hạnh phúc. Cuộc chơi kết thúc
bằng lời hẹn hò nửa kín, nửa hở của những cặp trai gái đã bắt còn của
nhau.
Ném còn là trò chơi
mang ý nghĩa phồn thực lâu đời của dân tộc ta.
Ném còn vùng đồng
bằng sông Hồng có nơi không làm cột phông còn, chỉ chia hai phe nam nữ
tung còn cho nhau. Họ tự chọn thành từng đôi. Quả còn tua ngắn, ném một
tay và bắt đỡ cũng một tay. Có lúc cả hai cùng ném chéo sang nhau để
cùng bắt. Còn như vật giao duyên. Mang hơi ấm bàn tay âm sang giao hòa
với hơi dương và ngược lại. Ai bắt được nhiều lần là thắng cuộc, người
thua phải đưa bạn đi chiêu đãi nhẹ nhàng: một miếng trầu, một thanh kẹo,
chiếc bánh nếp... có thể mang đi từ nhà, hoặc món quà lưu niệm: chiếc
túi đựng trầu, hộp thuốc lào...
Có nơi lại đứng
vòng tròn quanh bờ ao, ném còn qua ao sang cho nhau. Phải ném đủ mạnh để
còn không rơi xuống ao, lại đến chỗ bạn chơi có thể bắt được. Có lần
nhảy lên bắt còn ngã xuống ao ướt hết quần áo. Thế mới vui!
Thời Lý - Trần, các
công chúa lại có tục gieo còn (hoặc cầu tròn) để cầu duyên khi các quan
tân khoa vào dự yến vua ban.
Ném giỏ
Giỏ tre đan mắt cáo,
đường kính hai - ba gang tay, buộc vào đầu cây tre cao cỡ 3m, chôn chặt
ở sân đình làm cột. Trồng một hoặc hai cột cùng chơi.
Quả ném bằng bưởi.
Người chơi đứng xếp
hàng dọc trước cột. Từng người ném tung quả bưởi vào giỏ. Mỗi người được
ném ba đến năm lần theo quy định. Rơi xuống đất được nhặt ném tiếp cho
đến hết số lượt. Khi quả bưởi lọt vào giỏ là thắng. Không vào giỏ, hết
lượt ra cho người đứng sau lên chơi.
Nếu chơi hai cột,
lập hai đội số người ngang nhau. Đội nào ném bưởi vào giỏ trước là được
cuộc.
Trò chơi ném giỏ
xưa tổ chức ở hội làng Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp) huyện Gia Lâm.
Đấu gậy bảy
Gọi gậy bảy vì độ
dài của cây gậy trong trò chơi bằng tre hoặc bằng gỗ bào tròn sơn son,
đều có độ dài bảy thước ta, tương đương 2,8m.
Cứ hai người đương
sức nhau thành một cặp chơi. Một người dùng gậy đánh, một người tay
không đỡ. Cả hai mặc áo võ sĩ, thắt lưng gọn ghẽ, đầu chít khăn buộc múi
phía sau.
Vạch vôi một vòng
tròn đường kính 5 - 6m làm sàn đấu.
Vào cuộc, võ sĩ cầm
gậy bằng hai tay, nhúng 2 đầu gậy vào vôi bột, để nếu đánh trúng đối
phương còn dấu tích trên áo họ, rồi múa gậy vài lượt giống như xe đài
khi đấu vật.
Trống ngũ liên nổi
lên. Võ sĩ cầm gậy lúc đánh dứ, lúc tạt ngang gậy, tìm cách đưa đầu gậy
chạm vào mình võ sĩ đỡ.
Người đỡ có thể túm
lấy gậy, đẩy lùi đối phương ra ngoài vòng. Người đánh tìm cách không để
bị túm gậy, lừa đánh trúng hoặc tạt gậy làm đối phương phải nhảy tránh
bắn ra ngoài vòng.
Ai bị gậy đánh
trúng người để lại vết vôi hoặc ra ngoài vòng là thua. Trọng tài gõ một
tiếng cắc vào tang trống báo hết hiệp.
Cuộc chơi có thể
nhiêuù hiệp do từng nơi quy định. Hiệp sau đổi lại vị trí người chơi.
Đấu gậy có ở nhiều
hội làng như Đại Lan (Thanh Trì), Lệ Chi (Gia Lâm).
Trung bình tiên
Cũng là đấu gậy,
nhưng cậy gậy dài hơn và cả hai đấu thủ cùng cầm gậy đánh vào mình nhau.
Cây gậy đầu buộc
giẻ nhúng vôi. Người đấu đứng dạng hai chân, hơi khuỵu đầu gối, theo thế
trung bình tấn của môn võ.
Họ lừa nhau, tìm
cách đưa đầu gậy đánh vào chỗ hiểm hoặc để lại trên mình đối phương
nhiều dấu vôi trên áo võ sĩ là thắng.
Đánh roi múa mộc
Roi bằng tre vót
nhẵn, đầu vuốt nhỏ để có độ dẻo lúc ra roi, đầu roi bịt vải đỏ để dễ
nhận thấy.
Mộc đan bằng tre,
sơn đỏ có thể hình tròn hoặc hình chữ nhật góc vạt tròn.
Hai đấu thủ tay cầm
roi, tay cầm mộc vừa đánh, vừa đỡ.
Phải đánh vào vai
và vào sườn mới được tính điểm. Không được đánh vào đầu, vào mặt nhau.
Con gái làng Mễ Trì (Từ Liêm) có tiếng giỏi võ. Ca dao Hà Nội cổ còn có
câu:
"Ai về Kẻ Mễ mà coi
Con gái cũng giỏi
múa roi, đánh quyền"
Trong hội làng Đông
Dư (Gia Lâm) có trò đấu võ, đánh roi múa khiên (mộc) cũng là một mục của
cuộc đấu.
Thi nâng
Nâng cây phan ở hội
làng Ninh Giàng (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm).
Cây phan được bó
bằng 50 đến 100 cây tre đực nguyên cây, trong đó có một cây cao nhất để
buộc cờ hiệu.
Các giáp cử một số
thanh niên bằng nhau, đều là trai chưa vợ khỏe mạnh, mỗi người trang bị
một gậy tre đực dài 1m.
Khi hiệu lệnh nổi
lên, tất cả dùng gậy tre nâng cây phan đặt lên phản đá rồi cùng tác động
xoay cây phan quay nhiều vòng, quay càng nhanh, cờ hiệu bay phất phới là
năm ấy làm ăn tốt, dân làng thịnh vượng, các trai dự chơi đều được
thưởng.
Nếu cây phan không
quay tít, cứ xoay ì ạch, cờ hiệu không bay là điềm năm ấy làm ăn khó
khăn, đội chơi bị phạt không có thưởng.
Nâng đá để tuyển
trai đô ở hội làng Thủ Lệ
(Voi Phục).
Người thi phải
xuống tấn, dùng hai tay bốc hòn đá to nặng 50 - 60kg lên khỏi mặt đất.
Thi chạy
Một trong những trò
chơi rèn thể lực ở hội ba làng Thạch Cầu, Cự Linh, Ngô thôn nay đều
thuộc xã Thạch Bàn (Gia Lâm) theo tục lệ có ba trò là:
Làng Cầu đuổi lợn
Làng Cự kéo co
Làng Ngò chạy ngựa.
“Chạy ngựa” của
làng Ngò (Ngô thôn) chính là cuộc thi chạy.
Trò thi chạy tổ
chức vào hai buổi sáng trong hội làng mùa xuân đầu tháng hai. Thời gian
kéo dài suốt hai giờ ta, từ giờ Tỵ đến hết giờ Ngọ (theo giờ tây là từ 9
đến 13 giờ).
Đường chạy do làng
quy định, phải từ làng Ngò qua làng Cự, làng Cầu cho đến sát cánh đồng
làng Vo (xã Hội Xá) mới quay trở lại, chạy về đích là sân đình làng.
Phải chọn những
quãng đường mấp mô, khúc khuỷu, nhiều khúc ngoặt, có khi lội qua ao, qua
hào, vượt rào để thử thách ý chí người dự thi chạy. Đường chạy có người
giám sát để không được chạy tắt, tránh qua chỗ khó khăn.
Ai về đích trước
sân đình đầu tiên được giải của làng, năm ấy có nhiều may mắn.
Đánh quân - chạy cờ
Nhiều nơi có tục
này như một trò chơi trong hội làng, mỗi nơi có những chi tiết khác nhau
ở hình thức hoặc tính chất, nhưng tựu trung đều là một cách luyện quân,
đánh trận giả.
ở làng Triều Khúc
gọi là “chạy cờ”. Tráng binh chia làm hai đội, mỗi đội 20 người, trang
phục binh sĩ thời trước, thắt lưng khác màu. Người cầm cờ hiệu, người
cầm đao, gậy, vũ khí khác. Nghe hiệu lệnh trống, từ sân đình, họ tỏa ra
hai ngả theo đường vòng cung và gặp nhau giao chiến, đánh trận giả ở
giữa cánh đồng cho tới khi có trống chiêng thu quân, lại quay về đình.
Hội làng Vĩnh Ninh
(nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì), làng Chi Nam (xã Lệ Chi, Gia Lâm)
đều có trò giao chiến hai bên “địch, ta” đánh lẫn nhau bằng tay chân, võ
vật, có lúc cả bằng gậy gộc, ném đất vào nhau. Xong trận, lại vui vẻ
chung mâm hưởng lộc thánh. ở làng Đại Lan (Thanh Trì) chỉ đấu gậy. Vùng
Kẻ (Từ Liêm) có hội tập trận đánh quân của bốn làng Đống Ba (xã Thượng
Cát), Hạ Trì (xã Liên Mạc), làng Tây Đam (xã Tây Tựu) và làng Thượng Cát.
Trò luyện quân rất náo động có chiêng, trống, mõ, tù và truyền hiệu lệnh
và đốc quân. Ngạn ngữ vùng này còn có câu: "Chiêng thôn Đống, trống Hạ
Trì, mõ Tây Đam, tù và Thượng Cát".
Đấu vật
Hà Nội là một vùng
đất võ, có nhiều đô vật, lò vật nổi tiếng từ xa xưa. Thời Hai Bà Trưng
có đô Chinh làng Mai Động, sau thành tướng giỏi luyện quân theo Hai Bà
đánh giặc. Ông được coi như thủy tổ của môn võ này. Đô Tu người Thanh
Liệt sau làm tướng cho vua Lý Nam Đế xuất thân từ lò vật Quỳnh Đô (Thanh
Trì). Huyện Đông Anh cũng có nhiều đất vật nổi tiếng như Cổ Loa, Dục Tú,
Nam Hồng... huyện Từ Liêm có lò Mễ Trì, Gia Lâm có Văn Đức, Đông Dư. Hội
đấu vật lớn nhất trong các hội làng là ở Mai Động vào ngày 4 đến mùng 6
Tết. Thanh Trì còn lò Yên Sở cũng khá nổi danh.
Sới vật thường ở
trước sân đình. Hai bên trải chiếu hoa để các đô vật lễ thần trước khi
đấu. Quanh sân cắm cờ ngũ hành. Hai trống cái cho già làng cầm trịch,
đánh ba tiếng một, điều khiển trận đấu. Lại cử ba người tuần, một người
đánh trống bưng thúc lúc đang vật, cổ vũ đua tài, hai người cầm cờ đuôi
nheo nhỏ phất hiệu vật. Các đô vật đều cởi trần, đóng khố.
Vật có nhiều giải.
Giải thờ hoặc giải hàng là để mở đầu cuộc đấu, khảo sức nhau, thăm dò,
biểu diễn để phô trương thanh thế là chính. Keo vật lấy vui, lấy đẹp,
vờn nhau, không gay go, quyết liệt như khi đấu giải chính.
Lệ vật, muốn thắng
phải nhấc bổng đối phương lên khỏi mặt đất, gọi là “bốc”, hoặc vật ngã
ngửa "lấm lưng, trắng bụng". Nếu chỉ mới ngã sấp thì chưa thua. Bên gặp
tình thế này thường nằm bò áp đất, lừa địch thủ từng miếng không để họ
bốc lên, chân rời đất hoặc lật ngửa ra.
Đấu giải thường từ
giải ba lên dần đến giải nhất. Mỗi giải đều có người đứng ra giữ. Người
giữ phải thắng hơn người phá giải một keo theo quy ước chung là: giải ba
trong bốn, ngoài ba; giải nhì trong năm ngoài bốn; giải nhất trong sáu
ngoài năm. Người giữ giải phải thắng sáu keo mới đoạt giải nhất, còn
người phá giải chỉ cần thắng liền năm keo là được.
Vào sới vật, hai đô
bao giờ cũng mở đầu bằng “xe đài”, múa tay, di chuyển chân uyển chuyển
rồi mới lựa thời cơ ra miếng hạ đối thủ. Có nhiều miếng nghề như: ngáng,
đệm, cuốn chỉ, ra ràng, bắt bò, nhoài, xốc, bốc, đội...
Nhưng trong cuộc
đấu cấm đánh hiểm như móc hàm, móc nách, móc xương quai sanh hoặc nắm
tóc nhau.
Đấu vật luôn tạo ra
không khí hào hứng, sôi nổi, tiếng cổ vũ reo hò âm vang cùng tiếng trống
thúc giòn giã. Các đô vật mồ hôi nhễ nhại, nổi cuồn cuộn những bắp thịt
săn chắc. Đấu vật vừa đọ sức, vừa đọ trí, không thể chỉ ỷ lại vào thế
mạnh, có khi bị đối thủ nhẹ cân hơn lừa miếng đánh phơi trắng bụng.
Kéo co
Trò chơi luyện sức
và thể hiện ý chí hiệp đồng tập thể. Dễ chơi, thường được tổ chức trong
các hội làng với nhiều hình thức.
Tiêu biểu hơn cả
trong vùng Hà Nội là hội kéo co làng Cự (tức Cự Linh, nay là thôn Ngọc
Trì, xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm).
Dây kéo có thể dùng
dây song, dây chão to bằng tre hoặc đay, thậm chí dùng cả cây tre để kéo.
Cũng có lúc không có dụng cụ thì hai người đầu dây nắm chặt cổ tay nhau
để cả dây ôm lưng nhau cùng kéo.
Người chơi chia làm
hai phe đều nhau, đối mặt theo một hàng dọc, theo lệnh hiệu cờ cùng kéo
về bên mình.
Chính giữa dây kéo
được buộc đánh dấu bằng túm vải đỏ, đặt trên vạch vôi phân ranh giới
giữa hai phe. Nếu bên nào lôi được túm vải đỏ dịch sang địa phận của
mình là thắng. Lúc đã chuyển nhích được một ly là có cơ dồn lực lôi tuột
dây về phía mình làm đối phương mất đà ngã chồng lên nhau. Phe nào có
người tuột tay ngã ngửa cũng bị thua.
Mỗi hiệp khoảng 10
- 15 phút, không phân thắng bại, trọng tài phất cờ cho nghỉ lấy lại sức
rồi đấu tiếp.
Cuộc thi kéo co ở
làng Cự do 48 tráng đinh có phẩm hạnh được các giáp cử ra làm giai kéo,
chia thành hai phe gọi là “Man đường” và “Man chợ” đấu với nhau. Giai
kéo đều cởi trần đóng khố điều. Dây kéo là một sợi song to bằng cổ tay,
nhẵn nhụi dài khoảng bốn chục sải tay. Dây luồn qua lỗ một cây cột trụ
to, chôn rất chắc xuống sân đình. Trước khi đấu dây song được nêm chặt ở
lỗ cột. Sau khi làm lễ thánh, hai phe dàn đội hình. Các giai kéo ngồi
một chân co, một chân duỗi, xen kẽ người quay mặt bên này, người quay
mặt bên kia dây, một tay nắm dây duỗi thẳng cánh, một tay nắm dây co
trước ngực lại còn cặp dây vào dưới nách. Mỗi phe có một tổng cờ, mặc áo
dài đỏ, khăn đỏ, quần trắng, cầm cờ lệnh màu đỏ. Già làng cầm trịch phát
lệnh bằng trống khẩu. Nêm được tháo. Tổng cờ phất hiệu cờ, miệng hô “í
a, kéo!” rồi chạy lên, chạy xuống đốc thúc giai kéo của phe mình.
Các cô, các bà
người thân của bên nào thì dùng quạt quạt, lấy khăn lau mồ hôi, cắt cam
chanh đưa vào miệng cho người phe mình. Có người còn lấy dầm chèo khoét
đất ở dưới chân cho giai kéo có chỗ tì đạp.
Người kéo đầu dây
phải vừa mạnh, vừa khôn ngoan, biết ghìm dây, lúc cương, lúc nhu để đối
phó với từng phút cao điểm dồn lực của bên kia.
Đua thuyền - bơi chải
Sống ở vùng sông
nước, đua thuyền đã trở thành truyền thống trong lễ hội từ lâu đời ở
nước ta. Sử cũ từng ghi vua Lê Đại Hành là người đầu tiên tổ chức đua
thuyền để rèn luyện thủy quân, đồng thời gắn liền với tín ngưỡng cầu
nước cho mùa màng tốt tươi.
Thời Lý đã cho xây
dựng cung điện ở bờ sông Hồng như Hàm Quang (1011), Linh Quang (1058) để
vua, quan ngồi xem hội đua thuyền. Các triều đại về sau vẫn giữ nếp, dần
dần đưa vào hội làng, trở thành sinh hoạt văn hóa cổ truyền của cư dân
hai bên bờ sông Hồng, sông Đuống, sông Nhuệ... và ở cả các làng bên hồ
Tây.
Đua thuyền còn gọi
là bơi chải - chải cũng là tên gọi các thuyền đua.
Hà Nội có hàng chục
làng có tục bơi chải như Yên Duyên, Vĩnh Tuy (Thanh Trì), Bồ Đề, Thổ
Khối (Gia Lâm), Vĩnh Thanh, Võng La, Tầm Xá (Đông Anh), Yên Phụ, Nghi
Tàm (Tây Hồ), Thượng Cát, Thụy Phương, Tây Tựu, Phú Diễn (Từ Liêm). Nổi
bật hơn cả về quy mô hoành tráng là hội bơi chải làng Đăm (Tây Tựu).
Đua thuyền - bơi
chải ở mỗi làng có quy cách và thể lệ khác nhau. Kích thước thuyền có
dài, có ngắn, nên số tay bơi (người chèo) cũng nhiều ít thay đổi.
Thông thường thuyền
thoi đóng bằng gỗ, đầu chạm hình rồng, hình hạc, đuôi tôm. Làng chài
Võng La lại đua thuyền độc mộc, làm bằng cây gỗ khoét rỗng lòng. Nghi
Tàm đua thuyền nan. Tùy thuyền to nhỏ mà số tay bơi được quy định: Tây
Tựu 24 người, Thụy Phương 8, Bồ Đề 12, Thượng Cát 16, Yên Duyên 18, Nghi
Tàm thuyền nan chỉ có 2 đến 4 tay bơi. Trên mỗi thuyền to lại còn có
người lái, người tát nước, ông bay, ông lệnh, ông mõ, ông cờ... để phối
hợp phục vụ và chỉ huy thuyền đua.
Số đội bơi tương
ứng với số thuyền, thường mỗi giáp cử ra một đội. Có hội chỉ bơi một lần,
một ngày, lại có hội hai, ba ngày.
Hội bơi chải Yên
Duyên ngày đầu bơi thờ, ngày thứ hai bơi bò - còn gọi bơi dạo, đến ngày
thứ ba mới là bơi giải. Mỗi ngày bơi ba lèo, mỗi lèo ba vòng trên đoạn
sông dài khoảng 1 cây số. Hết một lèo lại phát giải. Già làng cầm trịch
ngồi trên chòi trống, kết hoa lá, tám mái dựng trên bờ đê áp sông.
Bơi chải của làng
chài Võng La bằng thuyền độc mộc với 6 tay bơi và một lái.
Hội làng Bồ Đề có 8
chải, đua từ đền Ghềnh đến thôn Lâm Du, cờ ngũ sắc cắm dọc bờ sông Hồng.
Các tay bơi vừa chèo vừa hò cho ăn nhịp lúc thì “ớ khoan khoan cho đều,
ớ khoan!” lúc thì ông lệnh hô: “Thẳng cánh ra!”, tất cả hò “dô huầy!”, -
“Thấp vai xuống!” - “Dô huầy!”, “Ngẩng cổ lên! - Dô huầy!”. Họ còn ghìm
cản thuyền nhau. Chải nào bị đắm, họ hò nhau lật lại thuyền, tát nước,
bơi tiếp.
Làng Vĩnh Tuy xây
một nghè bơi ở ngoài đê, có ngòi nước lượn quanh; năm nước đầy thuyền
đua từ nghè ra sông vòng lại nghè khoảng 4 cây số; năm nước cạn, đua
thuyền vượt sang sông Hồng rồi quay về nghè bơi làm đích. Trước khi bơi
còn làm lễ tế vua Hà và thủy quan tại nghè.
Nghi Tàm, Yên Phụ
đua thuyền ở Hồ Tây. Nghi Tàm với 4 thuyền nan của hai giáp Thượng, Hạ.
Mỗi thuyền hai trai đô đóng khố đỏ, bơi ba vòng hồ, cuối đường đua cắm
ba lá cờ màu tương ứng với giải nhất, nhì, ba, thuyền nào cướp được cờ
gì quay vào bờ nhận giải ấy. Yên Phụ thuyền 12 tay bơi, đường đua từ sau
đình ra chùa Trấn Quốc. Cũng có năm lại bơi sang chỗ mỏ Phượng (nay ở
trong khu trường Chu Văn An).
Bơi chải Thượng Cát
có 6 đội bơi, 3 đội nam và 3 đội nữ, mỗi đội 16 người. Đua theo giới,
lần lượt cứ một đội nam lại đến một đội nữ, bơi vòng trong đầm ba lượt.
Làng Vĩnh Thanh -
còn có tên nôm là làng Ruộng - đua ở hồ làng. 4 giáp, 4 thuyền: hai chạm
đầu rồng, hai thuyền đầu hạc. 12 tay bơi là nữ cả, nhưng lại có 5 ông gõ
mõ, phất cờ, hô lệnh, lái, tát nước... cho các cô. Gái bơi đều chưa
chồng, áo cánh màu chàm, quần đen buộc túm, chít khăn mỏ quạ, yếm đào,
thắt lưng hoa hiên.
Làng Đăm (Tây Tựu)
có hội bơi chải từ thế kỷ XV. Nhà thủy đình xây gạch lợp ngói soi bóng
xuống khúc sông Nhuệ làm đường bơi. Ban chấm thi ngồi quan sát tại đây.
Trai bơi ngồi hai
bên mạn chải, tay cầm chèo. Người chấp lệnh và chèo lái mặc áo thụng
xanh, quấn khăn và thắt lưng bằng lụa màu. Sáu thuyền đua dàn hàng chữ
nhất trước điểm xuất phát. Lệnh pháo vừa nổ, các mái chèo đồng loạt bổ
xuống nước đưa chải vun vút trên sông theo tiếng hô, nhịp phách gõ của
ông lệnh. Trên sông, cắm những cờ tiêu đuôi nheo màu đỏ để các thuyền
tới đó vòng lại.
Từ xưa đã có câu ca
"Làng Đăm có hội bơi thuyền
Có lò đánh vật có miền trồng rau"
Bơi Đăm là hội đua
thuyền sôi nổi, hào hứng thu hút hàng vạn du khách về xem vào ngày lễ
hội hằng năm - mồng 10 tháng Ba âm.
Ngoài trò đua chải,
trong hội Chèm còn có tục rước nước bằng thuyền, đoàn thuyền từ đình bơi
ngược lên Liên Mạc, lúc quay xoay tròn trên sông ba vòng, miêu tả lại
cuộc giao tranh thời xưa với thủy quái.
ở hội Thượng Cát,
diễn tích hai nữ tướng Đinh Bạch Nương và Đinh Tĩnh Nương mặc áo gấm
vàng, đi hài, cắp gươm, đứng uy nghi trên thuyền với các tay chèo đều là
nữ, sắc phục lộng lẫy như thời dấy quân theo Hai Bà Trưng chống giặc Hán.
Đi cầu tre
Một cây tre bương
to, dài 5m, phạt hết cành, đánh sạch mấu, chôn gốc sâu vào bờ, lèn chặt,
để thân cây tre nhô ra ao, nằm trên mặt nước một hai gang tay. Gần đầu
ngọn tre cắm một cây cọc, trên buộc một quả pháo.
Người dự thi nam nữ
đều được, ăn mặc gọn gàng, thắt lưng buông múi, tay cầm một nén hương
cháy.
Nghe trống hiệu,
người dự thi từ bờ bước xuống cầu tre đi dần ra phía ngọn ở giữa ao. Cây
tre tròn, bập bềnh, càng đi ra xa càng bị chìm xuống dưới mặt nước, thân
tre tròn, trơn nước dễ ngã. Có ngã cũng phải cố giơ cao nén hương để
không bị tắt mới có thể lội vào bờ đi lại.
Ra đến múp đầu cây
tre, người đã ngập nước đến đầu gối, phải dang tay giữ thăng bằng, một
tay níu lấy chiếc cọc, một tay châm ngòi pháo. Có khi đi được đến đích
không sao, khi châm pháo nổ, lại giật mình ngã tòm xuống nước. Tuy bị
ướt hết, nhưng vẫn đoạt giải, có điều nếu ai châm pháo xong, người vẫn
khô được giải cao hơn.
Đó là trò “đi cầu
tre đốt pháo” ở hội làng Bồ Đề (Gia Lâm).
Còn ở vùng Bưởi,
nhiều làng giấy cũng có trò đi cầu tre gọi là “Đi cầu mai”.
Cách làm cầu có
khác. Đóng ba cọc tre ở giữa ao đầy nước, một cọc ở bên bờ. Cột một cây
tre bương to nối hai điểm cọc. Ngọn tre cột chặt vào ba cọc giữa ao. Gốc
tre trong bờ buộc lỏng lẻo để cây tre có thể xoay đảo được. Đầu ba chiếc
cọc giữa ao có treo các gói giải thưởng phong kín.
Cây tre đặt cách
mặt nước khoảng 1m để khi người thi ra đến giữa, cây tre võng xuống cũng
không chặm mặt nước.
Chân người dự thi
đi đất, tre tươi dính bùn, trơn, lại lúc lắc một đầu rất khó đi. Mất
thăng bằng là ngã tòm xuống ao, ướt như chuột lột. Người xem reo hò cổ
vũ rất vui. Người ngã được lội vào bờ đi lại. Ngã nhiều quá, nản thì
thôi.
Khi có ba người ra
đến đầu ngọn tre giật được ba gói giải thì mãn cuộc.
Đuổi lợn
Làng Cầu (xã Thạch
Bàn, Gia Lâm) có tục mổ lợn tế thần và chia cho dân làng khi vào đám.
Hàng giáp phân công mỗi xóm nuôi một lợn cúng thần. Chúng được nuôi vỗ
béo, lại là lợn đực giống chạy rất nhanh, khỏe. Đến ngày làm lễ, lợn
được tắm rửa sạch sẽ, rồi đem bốn con thả vào sân đình có rào tre xung
quanh.
Trai làng dự trò
chơi đuổi lợn, luân phiên nhau từng người một, sau khi làm lễ thần, mở
rào vào trong sân đuổi bắt lợn trong tiếng trống cái thúc ngũ liên và
người xem reo hò quanh rào. Lợn nghe trống và tiếng reo hoảng sợ chạy
nháo nhào trong sân rộng, đuổi theo nó đã khó lại phải làm sao tóm được
thật nhanh hai chân sau để vật ngửa lợn ra mà trói lại. Cho nên phải có
mưu mẹo, lừa miếng, cho đỡ tốn sức.
Ai đuổi mãi không
bắt được lợn, mệt đứt hơi đành phải nhường phiên cho người khác.
Cuộc thi cứ thế kéo
dài cho đến lúc có bốn trai làng bắt được đủ bốn con lợn mới thôi. Cho
nên, đã có năm, đến tận đêm mới bắt hết lợn.
Bốn trai làng bắt
được lợn vừa đoạt giải thưởng, vừa được vinh dự ngồi ăn cỗ làng ở chiếu
nhất.
Bắt chạch trong chum
Trò chơi này thường
diễn ra ở các hội làng Kinh Bắc, Phú Thọ, Vĩnh Yên... ở Hà Nội có làng
Hồ Khẩu, vùng Bưởi.
Đặt một hàng chum
trước sân đình, đủ cho số cặp đăng ký dự chơi. Mỗi cặp là một đôi nam nữ
chưa chồng, chưa vợ. Gái áo cánh trắng hoặc hoa đào, khăn hồng, yếm đỏ,
áo tứ thân, bao xanh, cài dây sà tích bằng bạc. Trai áo cánh lụa, quần
ống sớ, thắt lưng màu bỏ đọt cạnh sườn.
Trống phát lệnh ba
hồi. Từng cặp làm lễ thần hoàng trước ban án, lễ xong; trai đưa cánh tay
trái ôm ngang lưng, bàn tay xòe bóp nhẹ vào ngực bạn gái, còn cô gái đưa
cánh tay phải ôm ngang lưng trai. Họ vừa đi về phía chum chạch vừa hát
những câu ca giao duyên.
Đến cạnh chum, họ
vẫn đứng trong tư thế ôm nhau, một tay xoa lưng, sờ ngực nhau, còn một
tay cùng cho vào chum khoắng tìm bắt chạch. Hai mặt phải đối diện, bốn
mắt nhìn nhau.
Các bô lão cầm
trịch bắt bẻ từng động tác. Tất cả đều phải cùng làm: bắt trạch, xoa
ngực, nhìn nhau, mải việc này, lơ đãng việc kia là đều bị lỗi. Cùng với
tiếng reo hò, trêu ghẹo của dân làng, tiếng chiêng trống lúc dồn dập cổ
vũ, lúc gõ từng tiếng báo phạt. Cặp nào làm đầy đủ các động tác quy định
ít phạm lỗi, bắt được chạch trước là đoạt giải.
ở làng Hồ Khẩu,
cũng bắt trạch như thế, chỉ khác là thay động tác sờ ngực, xoa lưng bằng
chàng trai đưa tay trái cầm lấy cổ tay phải của cô gái. Trong lúc bắt
chạch, cô gái tìm cách rút tay ra, chàng trai phải cố nắm giữ lấy, nhưng
nhẹ nhàng, không làm đỏ cổ tay cô gái thì mới đạt yêu cầu.
Cặp nào bắt được
chạch trước mà cổ tay cô gái đỏ hằn vết tay nắm cũng không được.
Thổi cơm thi
Có nhiều hình thức
thổi cơm thi khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng phải đạt được là nồi
cơm chín nục, chín đều, không rắn, không nát, không sống, không khê.
Thường lệ mỗi giáp
của làng cử ra một đội thi. Mỗi đội 5 hoặc 10 người tùy theo các môn thi
nhiều hay ít. Mỗi đội ăn mặc áo quần, dây lưng, yếm cùng màu. ở hội làng
Huỳnh Cung (xã Tam Hiệp, Thanh Trì) mỗi đội 5 người: 2 trai kéo lửa, 1
trai múc nước và 2 gái thổi cơm. Còn ở làng Thị Cấm (xã Xuân Phương, Từ
Liêm là 10 người: 4 người xay thóc giã gạo, 1 người dần sàng gạo, hai
người kéo lửa, 1 người lấy nước, 2 người nấu cơm. Đội có cả nam nữ, tùy
công việc mà đặt người. Số người gấp đôi vì có thêm phần thi xay, giã,
dần sàng gạo.
Phần thổi cơm thi
chia làm 3 mục:
Mục 1 - Thi chạy
lấy nước. Mỗi giáp 1 người cầm bình đồng chạy xa khoảng 500m lấy nước
vào bình rồi chạy về chỗ nấu cơm. Ai về trước, còn đủ nước vo gạo thổi
cơm là thắng.
Mục 2 - Thi kéo lửa,
hai nam dùng hai thanh dang già, gác bếp lâu ngày, cọ vào nhau cho đến
khi bật lửa bén vào bùi nhùi.
Mục 3 - Thổi cơm
thi, hai cô gái tiếp lửa, nhóm bếp thổi cơm. Thổi niêu đồng hoặc niêu
đất. Chất đốt bằng củi nứa, nùi rơm hoặc bã mía còn tươi. Có nơi chia
cho mỗi đội mấy cây mía, vừa ăn vừa lấy bã đun bếp như ở Nghĩa Đô.
Nồi cơm nào chín
trước, cơm trắng, dẻo thơm là đoạt giải. Bát cơm nhất, nhì được dâng
cúng thành hoàng.
Các hội làng Yên Mỹ
(Thanh Trì), Đại Mỗ (Từ Liêm) cuộc thi cũng tương tự.
Có nơi bày thêm
những khó khăn cho người thổi cơm. Thí dụ: Cô gái thổi cơm phải bế một
đứa bé dăm bảy tháng tuổi (con người khác) dỗ sao không khóc, lại phải
chăn một con cóc không cho nhảy ra ngoài vòng vôi.
Có nơi như Tây Mỗ (Từ
Liêm) phải vừa đi vừa thổi. Người thi cột phía sau lưng một chiếc cần
tre uốn cong sà xuống trước mặt, nồi đất thổi cơm đánh đai quang treo
bằng dây kim loại, buộc vào đầu cần tre.
Vừa đi theo nhịp
trống không được dừng, vừa đưa bó nứa cháy lửa vào đít nồi để cơm mau
chín, chín đều. Gió tạt lửa vào mặt, vào ngực nóng ran, các cô gái đều
đỏ hồng đôi má càng thêm xinh.
Đến đích, trống báo
kết thúc, kiểm tra nồi cơm nào chín nục là đoạt giải.
Làng Đồng Lầm (nay
là phường Phương Liên) có lệ thổi cơm thi trên thuyền ở ao làng. Ao rộng,
bốn bề quẩn gió, rất khó chụm lửa, lại lo thuyền lật.
Làng Tây Tựu (Từ
Liêm) hội thi thổi cơm trên thuyền chỉ khác nhau vài chi tiết nhỏ.
Làng Hạ Mỗ (huyện
Đan Phượng) giáp ranh Hà Nội cũng thổi cơm thi trên thuyền. Mỗi cô dự
thi tự chọn cho mình một trai làm chân sào. Nồi cơm cũng treo trên cần
thả trước ngực. Ban giám khảo phát cho mỗi cô nồi, đuốc, đũa cả, diêm,
gạo như nhau. Nước do các cô liệu cho. Thuyền nan dàn ngang dưới ao.
Nghe 3 hồi trống lệnh, các đấu thủ mới ào xuống thuyền. Các tay sào
chống cho thuyền đi theo đường đã cắm tiêu, đi chậm bị trống chỉ huy
thúc. Vào khúc lượn phải vượt nhanh để tránh bị chèn. Thuyền hai người
bập bênh, đu đưa rất khó đưa lửa tập trung đáy nồi. Vòng nào cũng có
người ngã xuống nước, có khi lật thuyền. Phải cố giữ cho đuốc không tắt,
nồi không đổ, để còn cứu thuyền, tát nước, nhảy lên tiếp tục cuộc thi.
Ai thổi chín cơm,
đưa thuyền về nơi xuất phát, cắm thuyền hàng ngang, đợi Ban giám khảo đi
nếm cơm từng thuyền, xếp giải nhất, nhì, ba, rồi mới được lên bờ dự lễ
trao giải.
Thả chim câu
Thi thả chim câu là
thú chơi tao nhã, lành mạnh, tương truyền có từ thời các vua Lý, thịnh
hành nhất là vùng đất Kinh Bắc xưa. Các làng Dục Tú, Cổ Loa (Đông Anh)
Chèm (Từ Liêm) thường mở hội thả chim câu trong lễ hội. Những năm sau
hòa bình, thành phố có lệ hội thả chim câu ở đền Ngọc Sơn trên Hồ Gươm
vào dịp kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ.
Đàn chim dự thi
phải đủ 10 con, giống nội thuần chủng, phần lớn là chim nâu và chim đen,
vì chim bồ câu trắng yếu hơn. Mỗi đàn nhốt trong một lồng tre, đáy lồng
rời, buộc lại vào lồng bằng dây lèo. Khi thả chim, đặt lồng lên bàn, chủ
đàn tay cởi dây lèo, tay quạt quạt giấy cho đàn chim khởi động, vón cục
lại, đến độ chín, mở cả lồng ra lấy quạt gạt cho cả đàn bay lên trong
tiếng trống đổ hồi. Nơi thả chim phải là bãi rộng, thoáng, thường là
trước cửa đình làng. Ban chấm thi chia làm hai trịch: “trịch ngoại” ở
ngay nơi thả chim, thường do một lão nông quắc thước, quần áo lễ hội,
chít khăn nhiễu, thắt đai lưng đen, cầm dùi trống cái, ra hiệu lệnh cho
từng người dự thi vào lần lượt thả chim; “trịch nội” tập trung ở sân
rộng một ngôi nhà gần đó, có một thau to đựng đầy nước soi rõ bóng từng
đàn chim bay trên bầu trời.
Khi đàn chim dự thi
theo con đầu đàn lượn một vòng quanh điểm thả rồi thu đội hình xoắn ốc
bay lên thì “trịch nội” đánh ba tiếng trống khẩu, báo hiệu đã nhận đàn
vào vòng chung khảo.
Đàn chim phải bay
qua ba tầng hạ, trung, thượng mà không được phạm lỗi. Càng lên cao cả
đàn càng bó chụm lại, vòng lượn nhỏ dần, bốc nhanh, dóng thẳng giữa
trịch, trước còn to sau nhỏ dần, đến tầng thượng cả đàn chỉ bằng miệng
chén, không trông thấy cánh vỗ là được, gọi là “thượng ly trung chính”.
Những lỗi thường mắc là bay hơi chếch gọi là “tiểu biên”, bay kéo dài là
“đại tràng”, bay con nhanh, con chậm là “tiểu tùy” hoặc “đại tùy”, không
bó đàn là “đại sớ”, một con vọt lên trước đàn là “tiên nhàn nhất chích”
đều bị phạt điểm, phạm quy. Lại không được vỡ hội hoặc nhập đàn. Chim bồ
câu là “nghĩa điểu”, sống theo đàn, có tính đồng đội cao và khả năng
định hướng tốt. Qua rèn luyện, cần nhất là vỗ con chim đầu đàn, thả từ
gần nhà đến xa dần, đến khi thả cách xa vài chục cây số chim vẫn về nhà
là đưa đi thi được. Nuôi chim dự thi rất công phu, vất vả, tốn kém. Phải
chọm lựa trong 30 - 40 con mới được một đàn đồng đều. Phần lớn người
nuôi chim dự thi đều ở các làng ngoại thành, ven sông Hồng, sông Đuống.
Chọi gà
Chọi gà không chỉ
chơi trong ngày hội mà có mặt bất thường ở sân bãi có hẹn với nhau. Trò
chơi này có từ lâu và đã từng làm lắm người đam mê, nên thành ngữ có câu:
"Đông như đám chọi gà". Cũng vì vậy, trong “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo
Vương từng khuyên răn, nhắc nhở đừng mê gà chọi mà lãng quên luyện rèn
quân sự vì "cựa gà sắc không đâm thủng áo giáp giặc"...
ở Hà Nội có nhiều
vùng nuôi gà chọi nổi tiếng như Yên Phụ, Quảng Bá, Nghi Tàm, An Phú,
Nghĩa Đô, Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến)... Tây Tựu có giống gà
“Tông còi”, nhỏ, nhẹ nhưng nhanh nhẹn gan dạ, đánh thắng cả loại gà lớn
hơn, nặng hơn. Các hội làng có chọi gà như Đông Dư, Linh Quang.
Gà chọi phải chọn
giống gà nòi, có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt, vỗ hàng năm, rồi
mới vần cho gà ghép tập đá, rèn luyện sức dẻo dai. Mỗi con thường có
miếng hiểm, đòn mé riêng của mình. Đánh, đỡ, tiến, lui đều có tên gọi.
Chọi phải từng đôi
tương đương với nhau về chiều cao và cân nặng. Nếu chênh lệch quá, con
mạnh hơn phải dùng vải bọc cựa để giảm sức đánh.
Cho gà chọi ở sân
đất hoặc trên bãi cỏ phẳng, có đất chung quanh rộng cho người xem quây
vòng tròn. Mỗi trận đấu, nếu đấu giải từ 7 đến 10 “hồ” (hiệp đấu từ 15
đến 20 phút), giữa hai hiệp có “khuya hồ” (là nghỉ từ 3 đến 5 phút). Còn
đấu giao hữu, gọi là “lèo” chỉ cần 5 hồ. Lại có thể giao ước đấu đến “kỳ
tẩu, kỳ tử” nghĩa là tới khi một con bỏ chạy hoặc chết ngay tại trận.
Nếu chủ gà thấy gà
mình núng thế, muốn gà đỡ bị hại có thể xin dừng cuộc đấu, tức là chấp
nhận mình thua.
Chọi chim
Thường là chim họa
mi, loại hùng điểu, vương điểu, có ý chí chiến đấu cao. Chim nuôi từng
cặp trống mái. Cũng phải nuôi dạy, vỗ béo, vỗ nóng tập luyện như nuôi gà
chọi.
Trận đấu có bốn
lồng nhốt hai cặp chim, đặt đối diện, cửa lồng hai chim trông áp sát
nhau, ngăn bằng mảnh gỗ mỏng che cho chim không thấy đối thủ. Phát lệnh
đấu, trọng tài rút miếng gỗ ra, mở đầu cuộc chiến. Con nào nhảy xuống
cầu trước 3 lần mà đối thủ không xuống là thắng. Con thua bị loại ngay.
đưa cặp khác vào đấu tiếp. Chỉ hai con trống chọi nhau, còn hai con mái
làm nhiệm vụ “xùy” cho bạn tình xông lên, cổ vũ cả bằng giọng hót, lại
có lúc cầm trịch cho con trống tạm lùi, nghỉ ngơi. Con mái góp phần
quyết định vào mỗi trận đấu. Hội làng Đồng Lầm (Kim Liên) thường có chọi
chim.
Chọi gà, chọi chim
giải thưởng không to, nhưng vinh dự của người chủ nuôi chiến thắng là
niềm tự hào rất lớn.
Chọi dế
Tháng năm, lúa
chiêm chín vàng, châu chấu ra nhiều là đến mùa chơi chọi dế. Thường được
đám trai choai choai ưa thích.
Dế chọi chọn loại
mình thuôn, cánh hoa, tiếng gáy to, tính hung hăng, gặp nhau là húc đầu
chọi, có tên gọi “dế mèn”. Phải lùa sợi lạt giang khua khoắng hoặc đổ
nước vào hang cho dế ra là chộp lấy. Nuôi dế trong hộp cho ăn sương đêm,
cỏ non, miếng khoai lang, thỉnh thoảng cho nếm chút rượu để gây máu hiếu
chiến. Chỉ lấy con dế đực để chọi. Phải cho nó đấu thử để làm quen vài
ba trận.
Chiếc mâm cát đặt
trên bàn. đưa hai con dế vào sân đấu. Nó nhìn nhau giữ miếng, khe khẽ
gáy rồi tiến lại gần nhau. Bất ngờ chống càng, ghé miệng cắn, ghì chặt
nhau, lừa miếng tung càng đá hậu. Lúc đã mệt, lùi ra nhưng vẫn gáy khiêu
khích. Con nào thấy yếu hơn, có vẻ mệt mỏi, chủ dế lấy tóc buộc vào càng
nó xoay tít làm nó say. Thả xuống là nó hung hăng xông vào chọi cho đến
được thua ngã ngũ mới thôi.
Con dễ đã bị thua
một lần được gọi là “dế vỡ” để khỏi lẫn với các con chưa thi đấu lần nào.
Thả diều
Chơi diều chủ yếu ở
các làng bên sông, có vùng bãi rộng, có triền đê cao lộng gió, thả sức
nới dây cho diều lên cao không vướng mắc. Diều làm say mê mọi lứa tuổi,
thú chơi trang nhã của đồng quê.
Tùy lứa tuổi mà làm
các loại diều khác nhau. Có loại lớn bồi bằng vải, hoặc hai lượt giấy
bản phất cậy, dài tới vài mét, hình cánh cung vút cong như một vầng
trăng khuyết. Có thể đặt một hay nhiều sáo. Sáo có bốn loại thể:
- “Sáo cồng” bằng
cả ống tre dài hai gang, khoét lỗ sao cho lọt gió, thổi nên tiếng âm
vang giống tiếng cồng.
- “Sáo đẩu” có
tiếng kêu rền rĩ như than thở.
- “Sáo còi” tiếng
phát ra the thé.
- “Sáo chim” nghe
giống như chim hót.
Khung diều phải làm
bằng tre cật vót nhẵn, kết cấu bằng các khung nan ngang dọc, các chạc
giằng bằng mây, tạo được thế cân bằng.
Diều phải có dây
lèo như một thứ bánh lái điều chỉnh thăng bằng, đỡ cho hai cánh diều
không bị gió bẻ gẫy.
Dây thả nối vào dây
lèo làm bằng tre cật già không có đốt kiến, sâu mọt, vót đều, nối chắc
lại với nhau cho dài dăm trăm sải tay. Cũng có nơi làm dây mây. Lại phải
đem luộc cho thêm độ dẻo.
Làm diều là một
nghệ thuật, thả diều đòi hỏi kỹ thuật cao.
Diều lớn phải năm
sáu người nâng cho cân hai cánh, lựa chiều gió đâm thẳng vút lên, người
kéo dây chạy đưa đà cho diều cứ thế bốc dần lên, không chao đảo, không
sậm sựt. Càng lên cao, nong gió, tiếng sáo mới âm vang, tỏa rộng, ngân
đều.
Trẻ em làm diều
cánh cung loại nhỏ, loại nhỡ, có sáo con hoặc không.
Đơn giản nữa làm
diều cánh phản, khung tre hình vuông, có chùm đuôi dài bằng giấy bay lất
phất, cũng vui lắm.
Từ thả diều chơi,
người ta đi tới thi diều sáo, thả vào lúc hoàng hôn, rồi để diều cứ bay
qua đêm, qua vài ngày, nghe tiếng sáo, tính độ cao, nhìn dáng bay đẹp
không chao lắc, dây diều không võng mà định giải.
Lại còn thi chọi
diều, điều khiển dây cho hai diều đấu đầu nhau, đánh nhanh, đánh mạnh,
đánh trúng làm hỏng diều đối phương càng nhanh càng tốt.
Nhưng có lẽ thi
diều hay hơn là chọi diều, phá hoại công trình của nhau thì có được giải
cũng chẳng mấy thích thú.
Đánh đu
Từ lâu đời, các
làng hai bên bờ sông Đuống đều có chơi đánh đu trong ngày hội làng, ngày
Tết như Dương Xá, Kim Sơn, Ninh Hiệp, Yên Thường, Đông Dư...
ở huyện Đông Anh có
Cổ Loa, Dục Tú, Liên Hà, Nam Hồng... Thanh Trì có Thanh Liệt, Tứ Hiệp,
Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh... Từ Liêm có Tây Tựu, Dịch Vọng, Mễ Trì...
"Khen ai khéo dựng
đu này
Để cho trai gái
chơi ngày chơi đêm"
Ca dao cổ đã ca
ngợi trò đánh đu như vậy. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương từng miêu tả:
"Trai đu gối hạc,
khom khom cật
Gái uốn lưng ong,
ngửa ngửa lòng"...
là nói về thứ đánh
đu bay này!
Đánh đu phải từng
cặp nam nữ, người dún kẻ dừng, thay nhau đưa dần cho cần đu dần lên bổng,
tới lúc ngang cần, hai người như đè lên nhau, áo khăn quấn quít vào nhau,
mới chịu ôm cần đu để cho đu hạ dần, tới lúc chậm lại đã có người bắt đu
dừng hẳn cho đôi khác lên thay.
Cây đu trồng bằng 6
hoặc 8 cây tre theo thế chân kiềng, chụm đầu vào nhau, câu kết bằng xà
đu. Từ xà đu có hai cái gông nối với tay đu hoặc cần đu để tạo khớp cần
thiết cho đu chỉ lên tới mức độ nào đó, không cao quá nguy hiểm. Tay đu
phải chọn tre đực, bánh tẻ, vừa tầm tay nắm, không có đốt kiến, đảm bảo
an toàn cho người lên đu. Trồng cây đu xong, phải được già làng có kinh
nghiệm kiểm tra cẩn thận, làm lễ, rồi lên khai đu, nổi trống gọi người
xem hội tụ.
Nơi trồng cây đu
phải thoáng đãng, rộng, không gần cây cối, có chỗ đứng xa cho nhiều
người xem.
Giải thưởng thi đu
được gói buộc vào đầu cành tre nhỏ như cần câu dài, đặt ngang tầm với
đỉnh cột đu. Khi người dún đu đưa cần ngang với đỉnh cột thì đưa một tay
giật giải. Nếu để giải rơi xuống đất là mất.
Đu là môn thể thao
không chỉ đòi hỏi sức khỏe dẻo dai, mà còn phải có thần kinh vững vàng,
không chóng mặt, hoa mắt, nôn mửa lúc đu đã lên cao.
Cây đu đã thành nơi
hò hẹn của lứa đôi khi vào hội xuân, để được cùng bạn tình
"Dún mình như thể
dún đu
Càng dún càng dẻo,
càng đu càng mềm".
Đánh cờ tướng
Thú chơi cờ tướng
khá phổ biến trong dân gian, từ bình dân đến các giới, quan lại, được
coi là cuộc đấu tài, đấu trí, tao nhã, thanh cao. Đến sứ giả phương Bắc
sang ta cũng thách đấu cờ thi tài. Có nhiều cách chơi: từng ván cờ, chơi
cờ tàn, cờ thế mỗi bên chỉ còn vài quân trên bàn cờ, ở gia đình.
Trong lễ hội thường
chơi dưới hình thức cờ người hoặc cờ bỏi.
Cờ người
Tổ chức ở nhiều hội
làng vùng Hà Nội như Kim Lũ, Thanh Liệt, Xuân Phương, Đông Ngạc, Thụy
Phương, Vĩnh Quỳnh, Thượng Cát, Minh Khai, Hải Bối, Quảng Bá, Tàm Xá...
nhưng lớn nhất, vui nhất là ở hội Chùa Vua (làng Thịnh Yên), nơi thờ
thần cờ Đế Thích. Hội Chùa Vua gần như là điểm hội tụ các bậc kỳ thủ đủ
các miền.
Cờ người đánh như
cờ tướng, chỉ có hình thức khác: bàn cờ là cả chiếc sân rộng, quân cờ là
người đóng, nam đứng quân đỏ, nữ đứng quân đen. Mỗi bên 16 quân, tên
quân viết chữ nho ở ngực áo hoặc lưng áo. Riêng tướng chọn người đẹp
người đẹp nết, có lọng che, có ghế ngồi. Người đánh xướng nước đi (theo
nguyên tắc mã lệch, tượng điều, xe liền, pháo lệch...) người đóng quân
chuyển vị trí theo. Ăn quân nào là bị loại ra khỏi sân. Cho đến khi
tướng bị chiếu, hết nước đi là thua. Có nơi quân cờ là người cầm biển đề
tên.
Cờ Bỏi
Cũng đánh ở sân
rộng, kẻ ô làm bàn cờ, chỉ không có người mà quân cờ là các biển sơn son
hoặc sơn đen, chạm khắc đẹp, đề tên quân. Tại các giao điểm trên bàn cờ
có chôn ống tre để làm lỗ cắm biển khi chuyển quân cờ.
Đánh cờ người hay
cờ bỏi đều có ông hiệu cầm cờ phất chỉ nước đi. Trọng tài dùng trống cái
để điều khiển, thúc đi nhanh không để nghĩ lâu, gây không khí hào hứng
cho người xem.
Đánh cờ phải tính
từng nước chặt chẽ, dự đoán được thế đi nước sau và cách đánh đỡ của đối
phương thì mới mong thắng.
Ca dao từng có câu:
"Quân cờ
Đồng Cổ ra đi
Làm nên chiến thắng
bất kỳ nơi đâu”.
Đồng Cổ là thần
hoàng làng Nguyên Xá (xã Minh Khai, Từ Liêm) nơi giỏi cờ có tiếng. Còn
những cao thủ làng cờ chơi với người thường, thường chấp một vài nước:
"Cờ cao Đế Thích
chấp đôi xe"...
là thế.
Tổ tôm điếm
Tổ tôm chơi năm
người với bộ bài 120 quân, cũng là một thú chơi đấu trí như đánh cờ, rất
phổ biến ở đất kinh thành. Trong ngày hội, thay thế bằng tổ tôm điếm cho
đông đảo khách xem hội cùng dự.
Trên sân rộng, hoặc
bãi đất, cất lên năm cái điếm, 4 cái bốn phương và một cái ở giữa gọi là
điếm trung. Mỗi điếm có thang để đấu thủ lên xuống tầng sàn, nom như cái
chòi tre lá.
Bài là những miếng
gỗ mỏng đề tên quân, có mảnh nắp đậy lại để tránh nhòm ngó, gian lận.
Người chạy bài phải rao những con bài do các điếm đánh ra để các điếm
khác muốn phỗng hay ăn. Rao bằng cách ví von có vần điệu:
Vác đèn đi
dưới trăng thu
Đầu bài cửu sách,
ai ù được chăng?
Trống lệnh điều
khiển cuộc đấu cho thêm vui nhộn. ù chi chi nảy, xưa được thưởng bánh
pháo, đốt ngay tại chỗ, khói mịt mù, trống và pháo chen nhau, hội tổ tôm
điếm càng nào nức.
Một số nơi thay “tổ
tôm điếm” bằng “tam cúc điếm”, chơi đơn giản hơn, phổ thông hơn. Chỉ có
bốn điếm, cũng phải người rao bài, gọi quân, lấy trống làm hiệu lệnh.
Chơi đèn cù
Sách Đại Việt sử
lược chép: Rằm tháng Giêng năm Hội Tường đại khách nguyên niên (1110)
đời Lý Nhân Tông, lần đầu nhà vua cho tổ chức ở Thăng Long hội đèn Quảng
Chiếu. Sự kiện này được tạc vào văn bia chùa Long Đọi năm 1121.
Đèn Quảng Chiếu là
thứ đèn cù - còn gọi đèn kéo quân - loại thật lớn. Sau được thu nhỏ lại
thành trò vui chơi trong dân gian vào dịp trung thu.
Khung đèn bẻ bằng
tre nối vào các cột nứa tạo thành hình vuông, lục lăng hoặc bát giác,
dán kín các mặt bằng giấy bản mỏng thật trắng lại dai. Chung quanh trang
trí như một tòa lâu đài, có các họa tiết trổ hoa lá bằng giấy màu, giấy
trang kim tô điểm.
Bên trong là một
trục có cầu, đeo ba hoặc bốn vòng nan tre cách nhau 10 phân, có các sợi
dây cố định khoảng cách. Vòng tre được dán các hình cắt những đoàn quân,
ngựa, xe... hoặc các tích cổ Đinh Tiên Hoàng cờ lau tập trận, Thạch Sanh
đánh chằn tinh cứu công chúa, Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Lê Lợi trả gươm
thần, Lã Vọng câu cá... Các vòng quân treo trên cần trục được đặt chính
giữa đèn, cân đối, các sợi dây khi đèn quay không rối, trục để lên đĩa
dầu cho trơn. Thắp bằng đèn bấc hoặc đốt nến, sức nóng tỏa ra đẩy các
vòng quân chạy theo một chiều, in bóng các hình cắt to lên trên mặt các
ô đèn, di động chung quanh. ở vùng làm giấy Bưởi có tục thi đèn kéo quân.
Có chiếc to bằng cái nia phải quạt lò than hoa mới chạy nổi quân.
Đáo cọc
Hình thức 1:
Chôn hai chiếc cọc
tre to bằng cổ tay, thò lên mặt đất khoảng hai - ba gang.
Chọn lấy 12 hòn đá
cuội có dáng bẹt, hai người chơi một lần, mỗi người nhận 6 hòn cuội.
Vạch đứng ném cách
xa cọc năm bảy bước. Từng người ném vào cọc của mình, ai ném lia hòn đá
đúng cọc nhiều hơn, là thắng. Người thua bị loại cho người khác vào thay.
Hết lượt, người nào
có số lần ném trúng cọc nhiều là đoạt giải nhất, nhì, ba.
Hình thức 2:
Một cách chơi khác
chỉ trồng một cọc tre cao ngang ngực, người chơi đứng xa khoảng 10m, cứ
một tốp chơi hai ba người, mỗi người có một hòn cái bằng đá bẹt tung vào
chân cọc, ai ở sát chân cọc nhất là được vào chung khảo, đấu lần sau với
người nhất của các nhóm khác. Cái khó là thả khéo, để cái không va vào
cọc văng ra xa.
Hình thức 3:
Đáo cọc còn gọi là
đáo chặt ở vùng Cổ Loa lại khác. Cọc được quấn chặt bằng vải hoặc nhồi
chặt bông, cắm vào chiếc bình gốm loe miệng, để thò đầu cọc lên chừng
gang tay. Trên đầu cọc vải đặt một đồng tiền đồng hoặc kẽm.
Người chơi dùng
thanh tre dài hai gang vót bẹt như chiếc đũa cả chặt vào đầu cọc, làm
sao cho đồng tiền rơi vào trong bình là được.
Cọc vải khác cọc
tre, độ rung mỗi lần chặt một khác. Chặt nhẹ thì đồng tiền không rơi,
chặt mạnh lại văng ra ngoài miệng bình.
Đáo mẹt - Đáo đĩa
Đặt vài ba chiếc
mẹt tre đan, cạp tròn, đường kính khoảng hai gang, thẳng hàng nhau. Mỗi
mẹt giữa để một đĩa gốm to 1 gang. Vạch gốc cho người chơi đứng thả cái
vào đĩa, xa hay gần tùy theo tuổi và độ cao của người chơi mà quyết định.
Hòn cái thả làm
bằng tiền xu đồng, mảnh gốm, mảnh chum vại hoặc mảnh ngói ta vỡ, ghè mài
có hình tròn bằng miệng chén.
Người chơi đồng
loạt theo trống mõ làm lệnh, tung, ném, thả lia hòn cái làm sao nằm
trong đĩa càng nhiều là thắng. Mỗi keo chơi định lệ 5 hay 10 hòn cái.
Nếu hòn cái văng ra
mẹt là thua. Còn nếu bắn ra ngoài mẹt thì phải phạt.
Đáo mẹt, có người
gọi đáo đĩa, được tổ chức trong lễ hội Cổ Loa (Đông Anh).
Nặn con giống
Cuộc thi dành cho
cả làng, mỗi nhà là một đơn vị thi do người cao tuổi nhất đứng đầu, bàn
định xem tạo hình con giống gì, cây cảnh hay loài vật. Vùng Bưởi có trò
chơi nặn con giống bằng sáp.
Sáp ong nấu chảy
nhuộm với các màu thiên nhiên như lá diễn, lá sấu, nghệ, hoa hiên...
Đổ sáp màu ra khuôn
để nguội. Lúc nặn hơ sáp lên than hoa lấy vừa độ dẻo.
Tác phẩm là trí tuệ
và tài hoa của tập thể gia đình. Phải giữ bí mật con giống dự thi cho
đến khi đưa ra bày chấm giải.
Sân đình được kê
các dãy bàn dài. Nghe trống dóng lên, các nhà đưa sản vật ra thi. Nào
chậu quất trĩu quả vàng ươm, nào cây mai cổ thụ gốc sù sì hoa nở trắng
muốt, nào sư tử vờn cầu, đại bàng độc lập, công múa xòe đuôi đủ màu sắc,
lợn đàn, ... gà mẹ gà con... Lại có cả Tề thiên đại thánh, Thạch Sanh...
Nặn con giống là cuộc thi mỹ thuật quần chúng.
Hát ống
Cũng là hát giao
duyên nhưng không trình diễn hát trước công chúng mà hát cho nhau nghe
thông qua hai chiếc ống tre bịt mặt bằng bong bóng lợn, nối với nhau
bằng sợi chỉ tơ để truyền âm sang cho người nghe ngồi ở gian đình bên
cạnh. Nam nữ chia làm hai phe.
Bên hát, bên nghe
rồi đối đáp lại nhau. Gặp những câu hát vui họ lại rộ lên tiếng cười.
Hội làng Hải Bối (Đông
Anh) có trò hát ống vào mồng 4 Tết.
Nu na nu nống
Trò chơi của các em thiếu niên.
Tùy số người chơi,
ít người ngồi thành hàng ngang, nhiều người ngồi quanh vòng tròn, duỗi
dài hai chân. Tất cả cùng đọc bài đồng dao, một người ngồi giữa cầm
chịch lấy tay đập vào mỗi chân ứng với một từ, đến câu cuối cùng của bài
có từ “rụt” người có chân ấy phải co nhanh chân vào, nếu để đập tay vào
là bị phạt, phải ra nhảy lò cò một vòng quanh đám chơi. Người cuối cùng
còn cả hai chân là thắng cuộc.
- Bài hát như sau:
- Nu na nu nống
- Cái cống nằm trong
- Cái ong nằm ngoài
- Củ khoai chấm mật
- Phật ngồi Phật khóc
- Con cóc nhảy ra
- Con gà ú ụ
- Nhà mụ thổi xôi
- Nhà tôi nấu chè
- Cá bống cá mè
- Tè he cống rụt!
-
- Bài khác:
- Nu na nu nống
- Thằng cống, cái cạc
- Chân vàng, chân bạc
- Đá xỉa, đá xoi
- Đá đầu con voi
- Đá lên đá xuống
- Đá ruộng bồ câu
- Đá râu ông già
- Đá ra đường cái
- Gặp gái đi đường
- Có phường trống quân
- Có chân thì rụt!
-
- Bài nữa:
- Chồng muống, chồng cà
- Mày xòa hoa khế
- Khế ngâm, khế chua
- Cột đình, cột chùa
- Nhà vua mới làm
- Cây cam, cây quít
- Cây mít, cây hồng
- Cành thông, lá nhãn
- Ai có chân thì rụt!
- Thả đỉa ba ba
Đứng hoặc ngồi,
quây thành vòng tròn, số người không hạn chế. Một người làm cái ở giữa
đọc đồng dao, cả tốp đọc cùng, mỗi từ ứng với một đầu người. Đến cuối
bài, ai trúng từ chịu, phải rời chỗ, chạy một vòng trở về làm cái, thay
cho người làm cái trước để người ấy ngồi vào chỗ của mình.
- Bài hát:
- Thả đỉa ba ba
- Chớ bắt đàn bà
- Phải tội đàn ông
- Cơm trắng như bông
- Gạo bồng như nước
- Đổ mắm, đổ muối
- Đổ chuối hạt tiêu
- Đổ niêu cứt gà
- Đổ phải nhà nào
- Nhà ấy phải chịu
- Bài khác:
- Nam mô bồ tát
- Chẻ lạt đứt tay
- Đi cày trâu húc
- Đi xúc phải cọc
- Đi học thày đánh
- Đi gánh đau vai
- Nằm dài nhịn đói.
Nếu đọc bài dưới,
trò chơi thêm một nắm ngô rang hoặc ít lạc luộc, quả táo. Ai trúng từ
đói thì không được chia quà, ngồi nhìn các bạn ăn.
Rồng rắn
Khoảng mươi em ôm
lưng nhau, lớn đứng trước, bé đứng sau, kết chặt thành chuỗi rồng rắn,
một người đứng ngoài làm thày thuốc.
Hai bên đối đáp
nhau bằng bài đồng dao xin thuốc, đến lúc ngã giá đòi khúc đầu thì thày
cố lôi một em ra, rồng rắn ghì nhau lượn luồn để tránh, “xin khúc giữa”
rồi đến “xin khúc đuôi” cũng vậy. Ai bị thày lôi ra khỏi chuỗi người là
thua, phải ra làm thày thuốc cho người thày vào thay chỗ. Trò chơi cứ
thế tiếp tục.
- Bài đối đáp:
- Thày thuốc: - Rồng rắn đi đâu?
- Rồng rắn (đồng thanh) - Rồng rắn
đi lấy thuốc cho con.
- Thày thuốc - Con lên mấy?
- Rồng rắn - Con lên một.
- Thày thuốc - Thuốc chẳng ngon.
- Rồng rắn - Con lên hai.
- Thày thuốc - Thuốc chẳng ngon.
- Rồng rắn - Con lên ba.
- Thày thuốc - Thuốc chẳng ngon.
- Rồng rắn - Con lên bốn.
- Tháy thuốc - Thuốc chẳng ngon.
- (Đối đáp tiếp: Con lên năm, lên
sáu, lên bảy, lên tám, lên chín, thày đều đáp: Thuốc chẳng ngon, cho
đến)
- Rồng rắn - Con lên mười.
- Thày thuốc - Thuốc thày ngon vậy!
- (Rồng rắn uốn lượn quanh thày)
- Thày thuốc - Xin khúc đầu? (lôi)
- Rồng rắn - Toàn xương với xẩu.
- Thày thuốc - Xin khúc giữa?
- Rồng rắn - Những máu cùng me.
- Thày thuốc - Xin khúc đuôi?
- Rồng rắn - Tha hồ mà đuổi...
(Thày cố kéo kỳ
được em bé nhất cuối hàng)
ú
tim
Trò chơi trốn tìm,
không quy định số người. Một người xòe tay cho các người khác đặt ngón
tay trỏ vào giữa bàn tay, rồi đọc:
- Chi chi chành chành
- Cái đanh thổi lửa
- Con ngựa chết chương
- Ba vương ngũ đế
- Cấp kế đi tìm
- ú tim ù ập!
Dứt câu gập nhanh
bàn tay lại, ai không rút kịp bị nắm lấy ngón, phải đứng úp mặt vào
tường, nhắm mắt. Mọi người chạy tìm chỗ nấp, vừa chạy vừa đọc:
- Đứa nào ti hí
Chuột chí cắn mày!
Khi thấy không ai
nói nữa, mới được mở mắt ra đi tìm, không tìm được người nào là thua.
Xỉa cá mè đi buôn men
Một nhóm các em
ngồi quây tròn, mỗi người duỗi một chân ra để “xỉa cá mè”, mỗi chân ứng
vào một từ theo câu hát:
- Xỉa cá mè
- Đè cá chép
- Chân nào đẹp
- Thì đi buôn men
- Chân nào đen
- ở nhà làm mèo, làm chó
Chân ai trúng vào
từ “men” phải ra đóng làm người buôn men, ai trúng “mèo”, “chó” phải kêu
“meo meo” và sủa “gâu gâu” khi người buôn men đến gần.
- Trừ “người buôn men”, các em
đứng lên cầm tay nhau quây thành hàng rào.
- Người buôn men dạo quanh bên
ngoài rao:
- - Ai mua men ra mua!
- Các em hỏi: - Men gì?
- Người buôn men: - Men tằm!
- Các em: - Đâm ngõ khác.
- Người buôn men lại đi, lại rao:
- Ai mua men đây!
- Các em: - Men gì?
- Người buôn men: - Men bạc.
Các em - Gác ngõ
này! Hai em giương cao tay như mở cửa cho vào, nhưng khi người buôn men
đến lại hạ tay xuống ngăn cản, chó cắn, mèo kêu, người buôn men phải
rình chỗ nào sơ hở chạy vọt vào là được cuộc.
Xúc xắc xúc xẻ
Đêm giao thừa, một
tốp trẻ mặc quần áo đẹp, tay cầm ống bương trong dựng mấy đồng tiền kim
loại vừa xóc vừa hát, vào chúc tết từng nhà, lấy tiền mừng tuổi:
- - Súc sắc súc sẻ
- Nhà nào còn đèn còn lửa?
- Mở cửa cho anh em chúng tôi vào!
- Bước lên giường cao
- Thấy đôi rồng ấp.
- Bước xuống giường thấp
- Thấy đôi rồng chầu.
- Bước ra đằng sau
- Thấy nhà ngói lợp.
- Trâu ông còn buộc
- Ngựa ông còn cầm
- Ông sống một trăm
- Thêm năm tuổi lẻ.
- Vợ ông sinh đẻ
- Những con tốt lành
- Những con như tranh
- Những con như rối
- Súc sắc súc sẻ!...
-
-
Giung giăng giung giẻ
-
- Một tốp nắm tay nhau dàn hàng
ngang vừa đi vừa hát, hết bài cùng ngồi cả xuống rồi lại đứng lên đi
vào hát tiếp. Chơi vào đêm trăng.
-
- Bài hát 1:
- Giung giăng giung giẻ
- Dắt trẻ đi chơi
- Đến cửa nhà trời
- Lạy cậu lạy mợ
- Cho cháu về quê
- Cho dê đi học
- Cho cóc ở nhà
- Cho gà bới bếp
- Ngồi xệp xuống đây!
-
- Bài hát 2:
- Ông giẳng ông giăng
- Ông giằng búi tóc
- Ông khóc, ông cười
- Mười ông một cỗ
- Đánh nhau vỡ đầu
- Đi tâu ông huyện
- Đi kiện quan phủ
- Một lũ ông già
- Mười ba ông điếc
- Có biết hay không
- Thì thà thì thụp!
-
- Bài hát 3:
- Ông giẳng ông giăng
- Xuống chơi với tôi
- Có bầu có bạn
- Có ván cơm xôi
- Có nồi cơm nếp
- Có nệp bánh chưng
- Có lưng hũ rượu
- Con khướu
đánh đu
- Bồ cu tát nước
- Cái lược chải đầu
- Con trâu cày ruộng
- Cái muống thả ao
- Ông sao trên trời
- Xì xà xì xụp!
-
- Bài hát 4:
- Ông tiển ông tiên
- Ông có đồng tiền
- Ông giắt mái tai
- Ông cài lưng khố
- Ông ra đầu phố
- Ông mua miếng trầu
- Ông nhai tóp tép
- Ông mua con tép
- Về ông ăn cơm
- Ông mua mớ rơm
- Về ông để thổi
- Ông mua cái chổi
- Về ông quét nhà
- Ông mua con gà
- Về cho ăn thóc
- Ông mua con cóc
- Về thả gầm giường
- Ông mua thẻ hương
- Về ông cúng cụ!
- Chơi trăng
-
- Ngồi quây tròn giữa sân cùng
ngắm trăng cùng hát đồng dao, tất cả vỗ tay làm nhịp.
-
- Có thể mỗi người theo thứ tự đọc
một câu, hoặc đồng thanh đọc. Hết bài cùng vỗ tay một tràng dài,
chơi lại.
-
- Mồng một lưỡi trai
- Mồng hai lá lúa
- Mồng ba câu liêm
- Mồng bốn lưỡi liềm
- Mồng năm liềm giật
- Mồng sáu thật trăng
- Mười rằm trăng náu
- Mười sáu trăng treo
- Mười bảy sảy giường chiếu
- Mười tám trăng lẹm
- Mười chín dụn dịn
- Hai mươi giấc tốt
- Hăm mốt nửa đêm
- Hăm hai bằng tai
- Hăm ba bằng đầu
- Hăm bốn bằng râu
- Hăm lăm bằng cằm
- Hăm sáu đã vậy
- Hăm bảy làm sao?
- Hăm tám thế nào
- Hăm chín thế ấy
- Ba mươi không trăng.
- Hát đi hát lại
-
- Hai tốp các em hát đấu, bên nào
tìm được nhiều bài hát láy lại liên tục không có chấm hết là thắng
cuộc. Giao ước với nhau hát điệp 3 hay 5 lần một bài, rồi đến lượt
tốp khác. Mỗi bài là một điểm.
- Dưới đây là một số bài:
-
- Bài 1
- Con kiến mà leo cành đa
- Leo phải cành cộc leo ra leo vào
- Con kiến mà leo cành đào
- Leo phải cành cộc leo vào leo ra...
- (Hát lại) Con kiến mà leo cành
đa...
-
- Bài 2
- Con vỏi con voi
- Cái vòi đi trước
- Hai chân trước đi trước
- Hai chân sau đi sau
- Còn cái đuôi đi sau rốt
- Tôi ngồi tôi kể nốt
- Cái chuyện con voi.
- (Hát lại) Con vỏi con voi...
-
- Bài ba
- Con chim chích chòe
- Nó đậu cành chanh
- Tôi ném mảnh sành
- Nó quay lông lốc
- Tôi làm một chốc
- Được mâm cỗ đầy
- Ông thày ăn một
- Bà cốt ăn hai
- Còn cái thủ, cái tai
- Tôi đem biếu chúa
- Chúa hỏi chim gì?
- Thịt chim chích chòe
- (Hát tiếp) Nó đậu cành chanh...
-
- Bài 4
- Con công hay múa
- Nó múa làm sao
- Nó rụt cổ vào
- Nó xòe cánh ra
- Nó đỗ cành đa
- Nó kêu ríu rít
- Nó đỗ cành mít
- Nó kêu vịt chè
- Nó đỗ cành tre
- Nó kêu bè muống
- Nó đỗ dưới ruộng
- Nó kêu tầm vông
- (Hát lại) Con công hay múa...
-
- Bài 5
- Lúa ngô là cô đậu nành
- Đậu nành là anh dưa chuột
- Dưa chuột là ruột dưa gang
- Dưa gang là nàng dưa hấu
- Dưa hấu là cậu lúa ngô.
- (Hát lại) Lúa ngô là cô đậu nành...
-
- Bài 6
- Xuy xoa xuy xuýt
- Bán quít chợ Đông
- Bán hồng chợ Tây
- Bán mây chợ huyện
- Bán quyến chợ Đài
- Ai vào thì mua.
- (Hát tiếp) Xuy xoa xuy xuýt...
-
- Bài 7
- Người đẹp như tiên
- Tắm nước đồng Triền
- Cũng xấu như ma
- Người xấu như ma
- Tắm nước ao Quà
- Lại đẹp như tiên.
- (Hát lại) Người đẹp như tiên...
-
- Bài 8
- Gió đập cành đa
- Gió đánh cành đa
- Thày ngỡ là ma
- Thày vùng thày chạy
- Ba thằng ba gậy
- Đi đón thày về
- Rượu uống tì tì
- Thày say hoa mắt.
- (Hát lại) Gió đập cành đa...
-
- Bài 9
- Chè la, chè lít
- Bà cho ăn quít
- Bà đánh đau tay
- Chắp tay lạy bà.
- (Hát lại) Chè la, chè lít...
- Hát mày hát tao
-
- Một tốp cùng hát đồng dao. Đoạn
đầu tất cả cùng hát chung, đến đoạn “mày, tao” chia làm hai nửa hát
mày, nửa hát tao theo cách đối đáp.
-
- Cái cáo mặc áo em tao
- Làm tổ cây cà
- Làm nhà cây chanh
- Đọc canh bờ giếng
- Mỏi miệng thổi kèn
- ới cô trồng sen
- Cho anh hái lá
- ới cô trồng bưởi
- Cho chàng hái hoa
- Một cụm cà là ba cụm lý
- Con nhà ông lý mặc áo tía tô
- Con nhà thằng ngô mặc áo lang
khách
- Hai con chim khách đánh nhau
trên cây
- Hai cái bánh dày đánh nhau mâm
cỗ
- Hai hạt đỗ đánh đổ nồi rang
- Hai con kiến càng đánh nhau lọ
mật
- Hai hòn đất đánh vật bờ ao
-
A |
|
B |
- Mày tát chuôm tao
- Mày đầy rổ cá
- Mày đi chợ Hôm
- Mày bán cửa đền
- Mày làm mắm chua
- Mày con ông chính
- Mày là cái
ả
- Mày đội bồ đài
- Mày cầm cái kéo
- Mày làm sao
- Mày đi buôn cậy
- Mày đi lấy chồng
- Mày lên kẻ chợ
|
|
- Tao tát chuôm mày
- Tao đầy rổ tôm
- Tao đi chợ Cầu Dền
- Tao bán cửa vua
- Tao làm mắm thính
- Tao con ông xã
- Tao là cái hai
- Tao đội nón méo
- Tao cầm con dao
- Tao làm vậy
- Tao đi buôn hồng
- Tao đi lấy vợ
- Tao về nhà quê
|
- Trò Chơi Dân Gian
Hà Nội
2
|