VÀ   
 
    
   
  
    
-                                                             
Lê Văn  Ẩn  
 
  
  
    
- Trích từ http://vkhuc.tripod.com
  
  
  
    
- Bạn và tôi là người Việt, chúng ta là con dân nước Việt. Cái tên "Việt"  
    đã có từ lâu đời , ấy thế mà khi hỏi đến nguồn gốc và ý nghĩa của nó, ít có 
    ai hiểu nó là gì ! Tại sao là Việt ? Nó mang ý nghĩa gì ? Thỉnh thoảng trên 
    báo chí chúng ta thấy có nhiều học giả tìm cách giải thích , nhưng rất tiếc 
    sự giải thích đó đều mang một ý nghĩa không mấy tốt đẹp . Hôm nay bạn và tôi 
    thử tìm hiểu, phân tích để hiểu xem vì lý do gì tiền nhân của chúng ta lại 
    lấy cái tên "Việt" đặt cho dân tộc mình .
 
  
  
    
- Đầu tiên cái tên Việt đó được viết bằng một loại chữ mà ngày nay ít ai 
    nhắc tới, đó là chữ Nho.  Chúng ta có chữ viết ; các cụ ngày xưa viết chữ 
    Nho, sau đó là chữ Nôm ; đến khi người Pháp đến đô hộ đất nước chúng ta, họ 
    đưa vào một lối chữ viết với mẫu tự La-tinh và gọi đó là chữ Quốc Ngữ. Chữ 
    Quốc Ngữ dần dần thay thế chữ Nho và Nôm . Sau đó tất cả các sách vỡ , văn 
    kiện đều được in bằng chữ Quốc Ngữ .Ngày nay ít ai buồn nghĩ đến chữ Nho và 
    Nôm của ngày trước; nếu có ai tình cờ nhắc lại thì bị coi là cổ hủ , lỗi 
    thời. Từ đó với thời gian hai loại chữ trên đều bị rơi vào quên lãng. Sự mất 
    mát của chữ Nho và chữ Nôm mang một ảnh hưởng rất tai hại mà ít ai nghĩ tới.
 
  
  
    
- Thông thường bạn và tôi không thấy sự tai hại đó , mãi cho đến một ngày 
    có người hỏi chúng ta  , anh là người Việt , vậy chữ "Việt" đó mang ý nghĩa 
    gì? Cái gốc của chữ "Việt" đó từ đâu mà ra ?  Bây giờ bạn và tôi đem chữ 
    Quốc ngữ ra cắt nghĩa cái nguồn gốc chữ "Việt" ư ? Chữ Quốc ngữ không thể 
    giải thích nguồn gốc của chữ "Việt" ! Quay lại chữ Nho và chữ Nôm ư ?  Còn 
    mấy người biết được chữ Nho và Nôm , và có chắc họ còn nhớ cái nguồn gốc của 
    chữ đó không !
 
  
  
    
- Một hôm , ông Bùi Tuấn Dũng , một người bạn thân của tôi , mang đến cho 
    tôi một số bài báo giải thích về nguồn gốc của chữ "Việt" . Tôi rất mừng và 
    vội đăng lên đây để bạn và tôi cùng tìm hiểu nguồn gốc dân tộc mình qua danh 
    xưng là Việt . Dưới đây là những đoạn trích từ các bài báo vừa kể :
 
  
  
    
- 1.  Ông Phạm Cao Dương  có viết bài "Việt Nam hay Đại Nam" ( Một vấn đề 
    liên hệ tới quốc hiệu nước ta ) đăng trong tờ Chiêu Dương . Ông viết như sau 
    : "... Chữ Việt trong danh xưng Việt Nam đã không được viết là Việt chỉ hai 
    tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây mà là Việt có nghĩa là 
    vượt, một chữ mà các bậc lão thành cho là có nghĩa xấu vì nó hợp 
    với chữ Tẩu có nghĩa là chạy và chữ Tuất chỉ một 
    chi trong 12 chi tượng trưng cho chó". Cuối cùng nếu mê tín, dị 
    đoan mà nói, một quốc gia mà mang tên những vượt và 
    chạy do người ngoài đặt cho như vậy thì khó mà sống trong hòa 
    bình, ổn định và đoàn kết xây dựng được.
 
  
  
    
- 2.  Ông Phan Hưng Nhơn có viết bài " Nhận thức về một số suy luận mới về 
    sử liệu Việt Nam" đăng trong tờ Viên Giác số 135 tháng 6 năm 2003 ( xuất bản 
    ở Đức ). Ở trang 135  ông viết như sau : "... Đối với những bộ lạc sống vùng 
    Nam man mà họ không mấy biết và cho rằng những bộ lạc nầy có lối sống hỗn 
    độn. Nên người nhà Chu dùng từ Việt, có nghĩa là 
    Vượt để gọi những dân tộc người ở vùng Nam man này mà họ cho "có lối sống 
    Vượt ra ngoài vòng lễ giáo của nhà Chu". Như thế danh xưng Việt  
    người thời nhà Chu dùng đầu tiên và chỉ có nghĩa đơn giản như vậy. Sau đó ở 
    trang 137 ông lại viết tiếp  : "... Vì vậy từ thời thượng cổ cho đến cận đại, 
    dân tộc mà ngày nay bị gọi là Việt Nam 
    này không bao giờ chịu nhận mình là người Việt và 
    từ xưa cho đến nay luôn luôn tự xưng mình là dân Nam, nước mình là nước Nam 
    ( cho đến năm 1945 ). 
 
  
  
    
- 3.  Ông Hoàng Văn Chí có viết bài "Nguồn gốc dân tộc" ( đây là bài Tham 
    Luận ) đăng trong tờ Chiêu Dương . Ông viết như sau : "...
    Chữ Việt có nghĩa là vượt qua , như việt 
    quyền là vượt quá quyền hạn, việt ngục là vượt ngục. 
    Người Hán dùng chữ Việt để chỉ những sắc tộc ở phía Nam sông Dương Tử, mà 
    họ coi là thấp kém ví chẳng khác người Thượng hiện nay, họ không 
    định cư ở một nơi để canh tác nông nghiệp. Cứ ở mỗi nơi vài năm, phá rừng 
    làm rẫy, rồi hễ đất hết màu mỡ, lại vượt sông, vượt núi, di chuyển tới một 
    khu rừng khác .
 
  
  
    
- Vì có nhiều sắc tộc Việt quá nên người Hán gọi hằm-bà-lằng tất cả là 
    Bách Việt. Sau đó ông lại viết tiếp như sau : "... Rồi người Việt-nam được 
    gọi tắt là Người Việt, làm cho nhiều người ngộ  nhận chúng ta là một trong 
    các sắc tộc Bách Việt bên Tàu. Đáng lẽ nên gọi là Người Nam . Chữ Nam đối 
    chọi với chữ Bắc. Ta là Nam, Tàu là Bắc.
 
  
  
    - 4.  Ông Trần Hữu Lễ có viết trong tờ Viên Giác số 122 , tháng 4 năm 2001 
    ( xuất bản ở Đức ) dưới đề mục "một bọc trăm con". Ông có nhận xét như sau : 
    ... Họ ( Cao Biền ) viết  chữ Việt
    
 
    gồm hai bộ Tuất và Tẩu . Tuất là chó. Tẩu là chạy , với nghĩa xách mé, như 
    một lời chửi rủa ... Có một chữ Việt
    
  khác gồm các bộ Phiệt ( gần giống âm 
    Việt ), Quynh (miền đất ở xa ngoài cõi ), Mễ ( lúa gạo ), Khảo ( khéo léo ). 
    Rồi ông giải thích như sau: một miền đất ở xa ngoài nước Tàu chuyên nghề 
    trồng lúa một cách tinh xảo . Phải chăng đấy là ý người xưa. Chữ Việt  này 
    nhìn giống như một trái cây, có cuống , có quả , có nhiều hạt. Có quả có 
    nhân, có nhân có quả... Ngoài phần phân tích chữ Việt , bài viết "Một bọc 
    trăm con" của ông viết  rất đầy đủ ý nghĩa. 
   
  
    
- 5.  Ông Huy Việt Trần Văn Hợi có viết bài "Chữ Việt"  đăng trong tờ Tư 
    Tưởng như sau : "... Nếu ta tách chữ Việt bộ Tẩu ra 
    thì ta có một bên là chữ Tẩu là chạy, và một bên chữ Tuất là chó. 
    Đó là họ muốn ghi chiến thắng của họ là đánh đuổi dân ta chạy về Phương Nam 
    như đuổi chó vậy".
 
  
  
    
- Trong năm học giả ở trên thì có ba người cho chữ "Việt" gồm bộ Tẩu và 
    chữ Tuất ,rồi chú thích là chó chạy ; còn hai người gọi Việt là vượt và cho 
    đó là một cái tên thấp kém , sống vượt ngoài vòng lễ giáo, rồi đề nghị đừng 
    gọi là người Việt mà nên gọi là người Nam !
 
  
  
    
- Nếu bạn và tôi không biết chữ Nho và chữ Nôm , thì chúng ta nên tin ai 
    và bỏ ai đây ? Họ đúng hay sai, thật khó mà biết được vì tất cả đều phân 
    tích giống nhau ! Vậy tổ tiên chúng ta không biết cái tên đó xấu hay sao mà 
    lại chọn cái tên như vậy ? Chúng tôi tin tưởng rằng tổ tiên của chúng ta 
    phải có lý do chính đáng để chọn cái tên "Việt", tuy nhiên đám con cháu 
    không chịu tìm hiểu cặn kẽ rõ ràng rồi quay lại hiểu lầm tiền nhân ! 
 
  
  
    
- Với khả năng hạn hẹp và thô thiển , tôi cố gắng tìm lại nguồn gốc qua sự 
    phân tích , dẫn chứng về chữ Việt . Biển học thì  mênh mông mà sự hiểu biết 
    của mình thì quá hạn hẹp , nếu  tôi có gì sơ xuất hay sai sót thì xin các 
    bậc cao minh chỉ bảo để tôi có dịp học hỏi thêm.
 
  
  
    
- Đầu tiên , chữ Việt được viết bằng chữ Nho. Chữ đó viết bằng hai cách :
 
  
  
    
    - Việt
    
   và  Việt 
    
 
    
   
  -  
 
  - Trước tiên để hiểu chữ Việt trên mang ý nghĩa gì, chúng ta thử tìm qua tự 
  điển.
 
  - 1.  TÌM CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN
 
  
    - Việt 
 đây là chữ Việt đi với bộ Mễ
    
 .  Muốn tìm chữ 
    Việt này bạn lấy cuốn tự điển chữ Nho, hay cuốn tự điển Hán-Việt hoặc tự 
    điển của Trung Hoa , lật tới bộ Mễ   ( là bộ thứ 119 trong số 214 bộ ). Bộ 
    Mễ theo cách viết gồm có sáu (6 ) nét hợp thành , hãy tra ở phần các bộ có 
    sáu nét thì tìm ra bộ Mễ, sau đó tìm trong bộ Mễ ở phần 6 nét thì thấy chữ 
    Việt nầy . Vì nó nằm ở bộ Mễ  cho nên người ta nói chữ Việt bộ Mể là mang ý 
    nghĩa như vậy. 
   
  
    - Việt 
    
  đây là Chữ Việt bộ Tẩu
    
    
  ( là bộ thứ 156 trong 214 bộ ), 
    bạn cũng làm giống như trên , tìm đến bộ Tẩu 
    
    
  ( bộ 7 nét ) , rồi tìm đến phần 
    năm nét của bộ tẩu thì thấy chữ Việt nầy . 
   
  
    
- Sau khi tra tự điển tìm ra chữ Việt rồi , nay bạn và tôi thử tìm coi 
    trong tự điển chữ Nho và tự điển Hán-Việt người ta giải thích thế nào về chữ 
    Việt đó . Ở đây chúng tôi lấy tự điển Thiều Chửu để làm ví dụ .
 
  
  
    
- 2.  GIẢI THÍCH CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN
 
  
  
    - A.  Việt 
    
  , chữ Việt bộ Tẩu 
    
 được giải thích như sau ( Tự điển Thiều 
    Chửu trang 655 )  : 
   
  
    
- 1.  Qua , vượt qua
 
  
  
    
- 2.  Rơi đổ
 
  
  
    
- 3.  Nước Việt, đất Việt
 
  
  
    
- 4.  Giống Việt : ngày xưa các giống Việt như Ư-Việt thì ở Triết Giang ; 
    Mân-Việt thì ở Phúc Kiến ; Dương-Việt thì ở Giang Tây; Nam-Việt thì ở Quảng 
    Đông ; Lạc-Việt thì ở nước ta, đều là Bách Việt cả.
 
  
  
    
- 5.  Một âm là Hoạt : cái lỗ dưới đàn sắt.
 
  
  
    - B.  Việt 
, chữ Việt bộ Mễ  
 
    được giải thích như sau ( tự điển Thiều Chửu trang 474 ) : 
   
  
    - - Nước Việt, đất Việt, cùng nghĩa như chữ Việt
    
. Tĩnh Quảng Đông, Quảng Tây nguyên trước 
    là đất của Bách Việt nên người Tàu gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt . 
   
  
    
- - Bèn , tiếng mở đầu ( phát ngữ ), như Việt hữu là bèn có.
 
  
  
    
- Nếu bạn và tôi không biết chữ Nho, có cố gắng  mà tìm hiểu nguồn gốc, 
    thì cùng lắm chỉ tìm được lối giải thích như trên . Trong  tự điển chữ Nho , 
    hay tự điển Hán-Việt  hoặc tự điển thông dụng của Trung Hoa , người ta chỉ 
    giải thích như vậy , chứ không có cuốn tự điển nào phân tích cái gốc của chữ 
    Việt cả !  Vì không có sự phân tích chữ gốc từ tự điển , cho nên mọi người 
    phân tích mỗi kiểu khác nhau, từ đó chúng ta không biết tin ai bỏ ai !
 
  
  
    
- Bây giờ bạn và tôi thử phân tích coi chữ Việt đó như thế nào. 
 
  
  
    
-  
 
  
  
    
- 3.PHẦN PHÂN TÍCH CHỮ VIỆT.
 
  
  
    
- A. CHỮ VIỆT ĐI VỚI BỘ TẨU
 
  
  
    - Trong các bài báo đăng trích ở trên thì phần lớn giải thích chữ "Việt" 
    đi với bộ Tẩu và chữ Tuất ; tuy nhiên có một vị cho rằng đi với bộ Tuất và 
    bộ Tẩu, ông không gọi chữ Tuất mà lại gọi là bộ Tuất . Để tránh hiểu lầm , 
    chúng tôi xin thưa rằng không có bộ Tuất  mà chỉ có chữ Tuất
    
 . Trong 214 bộ , không có bộ Tuất . Muốn 
    tìm chữ Tuất , ta phải tìm bộ Qua
 ( là bộ 
    thứ 62 của 214 bộ ) , chữ Tuất
    
    
   là thuộc 2 nét của bộ Qua 
    
    
  ( tự điển Thiều Chửu trang 219 
    ). Ở đây có sự nhận định không rõ ràng  giữa chữ và bộ . Cuốn tự điển Khang 
    Hi lập thành vào năm 1716  sau Tây Lịch , gồm có khoảng bốn chục ngàn chữ , 
    nhưng chỉ có 214 bộ .Vì số chữ quá nhiều , nên người xưa dùng bộ để xấp các 
    chữ vào từng loại cho có thứ tự và để dể tìm, ví dụ tôi muốn viết chữ đó có 
    liên quan với nước, thì tôi viết nó đi kèm với bộ Thủy
    
    
; tôi muốn viết chữ đó liên quan đến 
    cây thì tôi viết kèm với bô Mộc 
    
, hay nói một 
    cách khác là nếu tôi muốn tìm một chữ trong tự điển chữ Nho hay tự điển 
    Hán-Việt thì việc trước tiên là phải biết chữ đó nằm ở bộ nào. Ở phần sau 
    trong phần cấu tạo chữ Nho, chúng tôi sẽ giải thích vai trò của chữ và bộ 
    khi họp lại với nhau. 
   
  
    
- Các học giả ở trên nói rằng Chữ Việt gồm bộ Tẩu và chữ Tuất. Bạn và tôi 
    thữ tìm hiểu chữ Tuất coi nó ra sao .
 
  
  
    -  Chữ Tuất 
 , ( xin xem tự điển Thiều 
    Chửu trang 219 ) ,nếu chúng ta nhìn kỹ chữ Tuất 
    
  chúng ta thấy bên trái có cái gạch 
    ngang .  
   
  
    - Vậy ngày xưa người ta viết chữ Tuất như thế nào và giải thích ra sao ? 
    Chữ Tuất ngày xưa viết là  
    
 có nghĩa là 
    một cái qua 
 có một nét khuyết xuống và 
    một đường gạch ngang
    
    
bên trái ; đường gạch ngang
    
    
  tượng trưng cho vết chém , hay 
    vết thương mà người chiến sĩ gây cho kẻ thù của mình , từ đó nghĩa xưa của 
    chữ Tuất là tấn công, gây thương tích , sát hại. Tôi xin nhắc lại cái qua là 
    một loại binh khí ngày xưa . Sau nầy người ta mới đặt chữ Tuất là chi Tuất, 
    là một  chi trong mười hai chi. Như vậy chữ Tuất với ý nghĩa ban đầu không 
    dính dấp gì với chó cả !  
   
  
    
- Bây giờ xin bạn hãy coi lại cách viết của chữ Việt đi với bộ Tẩu 
 
  
  -                                      
 
  
    
    - Việt  

 
    
   
  - Chữ Việt bao gồm  bộ Tẩu 
  
  
   và chữ 
  
 
  -  
 
  - Bây giờ bạn hãy nhìn chữ Tuất 
 
  
    
    - Tuất  
    
    
    
   
  
    - Bạn hãy coi chữ Tuất 
    
   và chữ  
    
có giống nhau không ? 
   
  
    - Chắc chắn là không giống nhau rồi. Chữ Tuất 
    
 có một nét gạch 
    ngang bên trái, còn chữ 
    
 có một nét móc 
    lên ở bên trái . Bạn sẽ hỏi tôi chữ 
    
 đọc làm sao ? Chữ   
    nầy đọc là Việt . Các học giả ở trên nhìn lộn chữ Tuất 
    
    
   với chữ 
    Việt 
 ! Cái chữ 
    trong chữ Việt 
 bộ tẩu không phải là chữ 
    Tuất mà là chữ Việt !  
   
  
    - Vậy bạn sẽ hỏi rằng  chữ Việt
    
nầy ngày xưa chữ 
    gốc của nó như thế nào và giải thích làm sao ?  Chữ Việt
    
 ., ngày xưa viết 
    là  
và được giải thích như sau : Hình một 
    cái qua 
có cái móc
    
    
 ở phía sau.  
   
  
    - Như vậy trong chữ Việt 
    
có bộ Tẩu đi 
    với chữ Việt chứ không phải bộ Tẩu đi với chữ Tuất ! 
   
  
    
- Bây giờ bạn và tôi lại thắc mắc là tại sao  đọc là Việt ? Trước khi bàn 
    đến cách đọc , tôi xin nói phớt qua về cách cấu tạo của chữ Nho .
 
  
  
    
- CÁCH CẤU TẠO CHỮ NHO
 
  
  
    
- Chữ Nho được chia ra làm hai đại loại :
 
  
  
    - -  Loại Văn  
    
   là những hình thể đơn giản. 
   
  
    - -  Loại Tự  
 là những chữ hợp lại hay còn 
    gọi là hợp tự. 
   
  
    
- Các cụ nhà Nho chúng ta thường hay gọi là Văn Tự.
 
  
  
    - Loại Văn  
  được chia làm hai loại : 
   
  
    - -  Tượng hình  

 
   
  
    - -  Chỉ sự   

 
   
  
    - Loại Tự  
  cũng được chia làm hai loại : 
   
  
    - -  Hội ý  

 
   
  
    - -  Hình 
    thanh   
    
  
   
  
    
- Ngoài 
    bốn loại 
    : Tượng hình, 
    chỉ sự, 
    hội ý 
    và hình 
    thanh, thuộc về 
    Văn Tự, 
    chúng ta còn 
    có thêm 
    hai loại nữa 
    , đó là 
    : 
 
  
  
    - -  Giả 
    tá  
    

 
   
  
    - -  Chuyển 
    chú  
    
  
   
  
    
- Tóm 
    lại  :         
 
  
  
    
- -  Văn 
    Tự gồm 
    4 loại : Tượng 
    hình, chỉ 
    sự,hội
    ý và 
    hình thanh
 
  
  
    
- -   Lục 
    thư gồm 
    6 loại:  Tương 
    hình , chỉ 
    sụ, hội
    ý, hình 
    thanh, giả tá 
    và chuyển 
    Chú. 
 
  
  
    
- A.        GIẢI 
    THÍCH TỪNG 
    LOẠI 
 
  
  
    
- 1a. TƯỢNG 
    HÌNH   
 
  
  
    
- Ðây là 
    những hình 
    vẽ thô 
    sơ để 
    chỉ một 
    vật gì 
    hay một giống 
    loại gì.
 
  
  
    
-  Ví 
    dụ :
 
  
  
    
-             Ngày 
    xưa vẽ                            
    Ngày nay viết
 
  
  
    -            
    
  môn  
    :cái cửa     
    à     
            
 
   
  
    -              
    
Thủy 
    : nước          
    à    
             
     
   
  
    -               
Nhật 
    : mặt trời    
    à    
           
   
   
  
    
-  
 
  
  
    
- 2a.  CHỈ 
    SỰ 
 
  
  
    
- Ðây là 
    những hình 
    thể để 
    nói lên 
    một ý 
    nghĩa nào
    đó. Tuy còn 
    là hình 
    vẽ những 
    chữ đã 
    bất đầu 
    mang một ý 
    nghĩa trừu 
    tượng.
 
  
  
    
-             Ví 
    dụ :
 
  
  
    
-             Ngày 
    xưa vẽ                                        
    Ngày nay viết
 
  
  
    -              
thượng 
    : ở trên        à                   
    
 
   
  
    
-  
 
  
  
    
- 3a.  HỘI
    Ý 
 
  
  
    
- Mỗi  
    chữ đều 
    mang ý nghĩa 
    của nó. 
    Hội ý 
    là do hai chữ 
    hoặc nhiều 
    chữ hợp 
    lại để 
    ra một ý 
    nghĩa khác.
 
  
  
    -             Ví 
    dụ :  
   Chữ 
    Chiêm . Chữ 
    nầy gồm 
    hai bộ hợp 
    lại thành 
    một chữ.
    Ở trên 
    là bộ 
    Bốc
và
    ở dưới 
    là bộ 
    Khẩu
    
  . Bốc 
    có nghĩa 
    là bói, 
    và Khẩu 
    là cái 
    miệng, hai bộ 
    nầy nhập 
    lại thành 
    chữ Chiêm 
    có nghĩa 
    là xem coi điều 
    gì để 
    biết xấu 
    tốt. 
   
  
    
-  
 
  
  
    
- 4a.  HÌNH 
    THANH 
 
  
  
    
- Chữ 
    Hình Thanh là 
    do sự họp 
    lại của 
    một hoặc 
    nhiều chữ 
    .
 
  
  
    
- Chữ 
    Hình Thanh gồm 
    hai phần :
 
  
  
    
- -  Một 
    phần là 
    bộ để 
    chỉ ý 
    (nghĩa của 
    chữ )
 
  
  
    
- -  Một 
    phần là
    âm để 
    nói lên 
    cách đọc 
    của chữ.
 
  
  
    
- Ví 
    dụ :
 
  
  
  
    
- Bộ                  
    âm
 
  
  
    
- Chỉ
    ý           Chỉ
    âm            Thảo 
    (  cách đọc 
    của 
 
  
  
    
- 
                                                      
    chữ 
    lấy từ
    âm tảo 
    mà ra)
 
  
  
    
- Bộ 
    thảo      chữ 
    tảo
 
  
  
    
-             
 
  
  
    
- 5a.   CHUYỂN 
    CHÚ 
 
  
  
    
- Là 
    một loại 
    chữ được 
    dùng rộng 
    hơn ý 
    nghĩa ban đầu 
    của nó. 
    Chữ đó 
    mang nghĩa chính, 
    ngoài ra nó
    đẻ thêm 
    một nghĩa 
    phụ nữa.
 
  
  
    -    Ví 
    dụ :   
nhạc 
    à  
    là một 
    nhạc khí
    để tạo 
    ra sự vui tươi 
   
  
    -                 
nhạc 
    à 
    chuyển âm
    đọc là 
    Lạc
    
   là 
    vui,thích 
   
  
    -                
    
         
    à 
    chuyển thêm 
    một âm 
    nữa đọc 
    là nhạo 
     
  là 
    yêu, thích. 
   
  
    
-                         ( xin coi tự
    điển 
    Thiều Chửu 
    trang 310 )
 
  
  
    
-  
 
  
  
    
- 6a.   GIẢ 
    TÁ 
 
  
  
    
- Ðây là 
    một sự 
    vay mượn do lầm 
    lẫn hoặc 
    thiếu sót 
    mà ra, bất 
    nguồn từ  
    :
 
  
  
    
- -  Do sự 
    chép sai lấy 
    từ chữ 
    gốc
 
  
  
    
- -  Mượn 
    chữ trùng
    âm hoặc 
    chữ đồng
    âm để 
    thay thế phần 
    chữ không 
    có trong chữ 
    viết, mà 
    chỉ có 
    trong lời nói 
    mà thôi.
 
  
  
    - Ví 
    dụ :   
    
    
  đậu 
    là một 
    cái thố
    để đựng 
    thịt cúng 
    thần, cùng
    âm với 
    chữ hạt 
    Ðậu , nên 
    cũng được 
    dùng để 
    chỉ hạt
    đậu. 
   
  
    
-  
 
  
  
    - D. CHỮ 
    VIỆT  
    
    
 
    THUỘC LOẠI 
    NÀO  ? 
   
  
    
-  
 
  
  
    
- Trong 6 loại 
    của cách 
    cấu tạo 
    chữ Nho kể 
    trên , thì 
    chữ Việt 
    nằm trong loại 
    Hình Thanh tức 
    là một 
    bên  chỉ
    ý và 
    một bên 
    chỉ âm.
    Ðể dẫn 
    chứng bạn 
    lấy quyển 
    CHỮ NHO TỰ 
    HỌC của
    Ðào Mộng 
    Nam , Giảng Sư 
    Viện Ðại 
    Học Huế 
    , ở trang 110 có 
    viết như 
    sau : cách cấu 
    tạo chữ 
    Nho, phần 3 : Chỉ
    âm - Chỉ
    ý : Lấy 
    hai chữ vẽ 
    hình hay gom ý 
    có sẵn 
    ghép lại 
    rồi dùng 
    một chữ
    để chỉ
    âm, một 
    chữ để 
    chỉ ý 
    :
 
  
  
    -  Ví 
    dụ : 
    
        
cửu 
    : chỉ âm
    ửu - ừu, 
      
   
  
    -                           
    
người: 
    chỉ ý. 
    Con người khác 
    con vật ở
    điểm 
    biết thù 
    hằn nhau .  
   
  
    -                           
    
đọc 
    là cừu 
    ( lấy từ
    âm ửu 
    của chữ 
    cửu ) có 
    nghĩa là 
    thù hằn    
      
   
  
    - Bây 
    giờ áp 
    dụng chữ
    “Việt
    “
   
    vào :   
   
  
    - Các 
    học giả
    ở các 
    bài báo
    ở trên 
    cho rằng chữ 
    Việt 
    
  gồm 
    bộ Tẩu 
     
 đi 
    với chữ 
    Tuất   
; 
    chúng tôi 
    cho rằng  bộ 
    Tẩu  
  đi 
    với chữ 
    Việt  
 . 
    Bây giờ 
    chúng ta hãy 
    xem cách đọc 
    :  
   
  
    
- Chữ 
    Việt gồm 
    bộ Tẩu 
    và chữ 
    Tuất 
 
  
  
    -  Việt 
    
              
Tuất 
    : chỉ âm 
    : âm ở
    đây là 
    T, âm tờ,
      
   
  
    -                              
    
 tẩu 
    : chỉ ý 
   
  
    
- Trong tự
    điển 
    không có 
    bộ Tẩu
    đi với 
    chữ Tuất 
    , nên không
    đọc được! 
 
  
  
    
- Chữ 
    Việt gồm 
    bộ Tẩu 
    và chữ 
    Việt
 
  
  
    -                         Việt
    
         
    
 Việt 
    : chỉ âm
     
   
  
    - 
                                                  
    
tẩu 
    : chỉ ý 
   
  
    - 
                     
     
    
 
    đọc là 
    Việt 
   
  
    
- Bạn 
    thử so sánh 
    coi , nếu lấy
    âm T, Tờ 
    của chữ 
    Tuất thì 
    làm sao mà
    đọc ra Việt
    được ! Nó 
    phải âm 
    Việt thì 
    mới đọc 
    ra Việt được 
    . Ðể rõ 
    ràng hơn 
    tôi xin đưa 
    ra hai ví dụ 
    trong đó có 
    chữ Tuất
    đi với 
    một bộ 
    khác và 
    chữ Việt
    đi với 
    một bộ 
    khác như 
    sau :
 
  
  
    -  1 . Chữ  
     
        
     
Tuất 
    : chỉ âm 
    : âm ở
    đây là 
    T, âm tờ 
   
  
    - 
                                   
    
 bộ 
    bối : chỉ
    ý  
   
  
    - Vậy 
    thì đọc 
    như thế 
    nào ? Thưa
    đọc là 
    Tặc 
    
  ( xin xem tự
    điển 
    Thiều Chửu 
    trang 648 ).  
   
  
    -  2. Chữ  
     
              
Việt:chỉ 
    âm 
   
  
    - 
            
                             
    
bộ 
    Kim : chỉ ý 
   
  
    - Vậy 
    thì đọc 
    làm sao? Thưa
    đọc là 
    Việt
    
    ( xin xem tự
    điển 
    Thiều Chửu 
    trang 711 ) có nghĩa 
    là cái 
    búa lớn 
    mà ta thường 
    gọi là 
    Phủ Việt.  
   
  
    
- Vậy 
    có hai điểm 
    chính ở
    đây . Các 
    học giả
    ở trên
    đã chẳng 
    những nhìn 
    lộn chữ 
    Việt ra chữ 
    Tuất , và 
    cũng chẳng 
    soát lại 
    coi cái âm
    đọc như 
    thế nào
    để coi mình 
    nói đúng 
    hay sai . Ðể rõ 
    ràng dể 
    hiểu hơn 
    chúng ta hãy 
    coi cách cấu 
    tạo chữ 
    mới như 
    thế nào 
    trong chữ Nho. 
 
  
  
    
- A.  CÁCH 
    CẤU TẠO 
    CHỮ MỚI 
    TRONG CHỮ NHO 
 
  
  
    
- Ở 
    đây tôi 
    xin đượcnói 
    phớt qua một 
    chút để 
    thấy ngày 
    xưa người 
    ta làm thế 
    nào để 
    cấu tạo 
    một chữ 
    mới trong chữ 
    Nho, tuy nhiên những
    điều 
    viết sau đây 
    không phải 
    là một
    điều 
    cố định 
    vì nó 
    còn có 
    những trường 
    hợp ngoại 
    lệ. Ðể 
    dể hiểu 
    tôi xin lấy 
    chữ Nghệ   
    làm ví 
    dụ :
 
  
  
    -  
    
nghệ       
    à  
      
hung    
    à
    
  hung    
    à 
     
 hung 
   
  
    -        Ví 
    dụ người 
    xưa bắt
    đầu bằng 
    chữ Nghệ
    
  ( tự
    điển 
    Thiều Chửu 
    trang 7 ). Bây giờ  
    muốn tạo 
    một chữ 
    mới lấy 
    gốc từ 
    chữ Nghệ 
    này thì 
    họ làm 
    sao ? Họ lấy 
    chữ Nghệ 
    nầy viết  
    kèm với 
    một bộ 
    khác ,ví 
    dụ bộ 
    Khảm  
   thì 
    ra chữ Hung  
 ( 
    tự điển 
    Thiều Chửu 
    tr.48 ). Từ chữ 
    Hung nầy muốn 
    tạo thêm 
    một chữ 
    mới khác 
    thì họ 
    làm sao ? Họ 
    lại viết  
    kèm nó 
    với một 
    bộ khác 
    , ví dụ 
    bộ  bộ 
    Bao 
   thì 
    nó ra chữ 
    Hung  
 . Rồi 
    họ lại 
    cứ tiếp 
    tục lấy 
    chữ Hung có 
    bộ bao đó 
    viết kèm 
    với một 
    bộ mới, 
    ví dụ 
    bộ Tâm 
    thì ra chữ 
    Hung  
 ( xem tự
    điển 
    Thiều Chửu 
    tr. 204 ). Rồi cứ 
    như thế 
    mà tạo 
    ra một chữ 
    mới 
   
  
    - Ðối với 
    chữ Việt  
      
 cũng 
    thế ; đầu 
    tiên nó 
    là chữ 
    Việt
    
, xong để 
    tạo ra một 
    chữ mới 
    người ta mới 
    nhập nó 
    với bộ 
    Tẩu
    
  và
    đọc với
    âm Việt. 
   
  
    
-  
 
  
  
    - D.  BỘ 
    TẨU  
    

 
   
  
    - Mặc 
    dầu đã 
    giải thích 
    chữ Tuất 
     
 và 
    chữ Việt
    
   rồi 
    , nhưng bạn 
    vẫn còn 
    thắc mắc 
    rằng nếu 
    chữ Việt 
     
  này
    đủ để
    đọc là 
    Việt thì 
    thêm bộ 
    Tẩu vào 
    làm gì 
    ?  
   
  
    - Tôi 
    xin nhắc lại 
    trong chữ “ 
    Việt “
    
gồm 
    bộ Tẩu 
     
và 
    chữ Việt
    
 . Chữ 
    Việt
    
   đây 
    chỉ là 
    cái âm 
    có nghĩa 
    là cách
    đọc, cách 
    phát cái
    âm ra như 
    thế nào 
    mà thôi. 
    Còn tất 
    cả ý 
    nghĩa gói 
    ghém lại 
    nằm ở 
    bộ Tẩu   
    là cái 
    phần chỉ
    ý và
    đó là 
    phần chính. 
    Vậy tổ 
    tiên chúng 
    ta muốn nói 
    cái gì 
    khi viết bộ 
    Tẩu  
 vào 
    với âm 
    Việt  . Ðó 
    là đều 
    mà bạn 
    và tôi 
    phải tìm 
    hiểu đến. 
   
  
    -  Ở 
    trên tôi 
    có giải 
    thích chữ 
    Việt  
 , 
    chữ xưa 
    viết là 
     
 là 
    hình một 
    cái qua  
 có 
    cái móc 
      
phía 
    sau ; mà cái 
    qua là một 
    loại binh khí 
    ngày xưa 
    vậy nó 
    phải có 
    liên quan gì 
    với bộ 
    Tẩu . 
   
  
    - Bộ 
    Tẩu
    
 :   . Ðầu 
    tiên chúng 
    ta thử tìm 
    xem trong các tự
    điển 
    cắc nghĩa 
    thế nào 
    về bộ 
    tẩu nầy.  
   
  
    
- -Tự
    điển 
    Hán-Việt 
    của Thiều 
    Chửu : Tẩu 
    :1. Chạy. 2. Trốn 
    .
 
  
  
    
- -Tự
    điển 
    Hán-Việt 
    Từ Nguyên 
    của Bửu 
    Kế : Tẩu 
    : bộ Tẩu¨« 
    bảy nét 
    : chạy.
 
  
  
    
- - Tự
    điển
    Ðại Nam Quốc
    Âm Tự 
    Vị của 
    Huỳnh Tịnh 
    Của : Tẩu 
    : chạy .
 
  
  
    
- - Tự
    điển 
    chữ Nôm 
    của Vũ 
    văn Kính 
    : Tẩu : tẩu 
    thoát, bôn 
    tẩu .
 
  
  
    
- - Hán-Việt 
    từ điển 
    của Nguyễn 
    Văn Khôn 
    : Tẩu : chạy, 
    trốn, đi, 
    về .
 
  
  
    - - Tự
    điển 
    Trung Hoa : A New Practical Chinese -English dictionary do Công 
    Ty Viễn Ðông 
    xuất bản 
    : 
  zoêu 
    : 1. to walk có nghĩa 
    là đi 
    ;to go on foot tức là
    đi bộ. 
    2. to run từc là 
    chạy. 
   
  
    - -        
    Tự
    điển 
    Trung Hoa : A Chinese-English dictionary do Viện 
    Ngoại Ngữ 
    của Bắc 
    Kinh xuất bản 
    :  
 zoêu  
    : 1. walk, go có nghĩa 
    là đi. 
    2. run có nghĩa 
    là chạy  
   
  
    - Các 
    tự điển 
    Việt , phần 
    lớn đều 
    dịch là 
    chạy , chỉ 
    có ông 
    Nguyễn văn 
    Khôn dịch 
    là đi, 
    chạy. Tự
    điển 
    Trung Hoa thì nghĩa 
    thứ nhất 
    là đi 
    , và nghĩa 
    thứ nhì 
    là chạy 
    . Các tự
    điển 
    Việt và 
    Trung Hoa không có 
    cắt nghĩa 
    chữ gốc 
    của bộ 
    tẩu .Vậy 
    Tẩu
    
 , chữ 
    gốc của 
    nó viết 
    như thế 
    nào và 
    giải thích 
    làm sao?                 
     
   
  
    - 
     
   
    
 
   
  
    - 
                        
    
        
   
  
    
-  
 
  
  
    - Chữ
    đầu tiên 
    vẽ một 
    người quơ 
    hai cánh tay của 
    họ , với 
    bộ túc 
    (nghĩa là 
    chân ) ở 
    dưới, từ
    đó mang ý 
    nghĩa là
    đi. Nhưng 
    sau đó chữ 
    thành hình 
    một người
    đi  hơi 
    nghiêng về 
    phía trước 
    , có ý 
    nói lên 
    một ý 
    chí cương 
    quyết và 
    bước đi 
    có vẽ 
    nhanh nhẹn , đây 
    là bước 
    quân đi 
    hay còn gọi 
    là bước 
    quân hành 
    , chứ không 
    phải là 
    lối đi 
    bình thường. 
    Vậy bộ 
    Tẩu và 
    kế bên 
    có cái 
    qua là binh khí 
    có nghĩa 
    là người
    đó chẳng 
    những đi 
    và mà 
    còn cầm 
    vũ khí 
    . Ðó là 
    hình ảnh 
    người chiến 
    sĩ bước
    đi tay cầm 
    cái qua . Một 
    người đi 
    bình thường 
    thì không 
    có cầm 
    binh khí. Chữ 
    Việt là 
    cái qua mà
    đi với 
    bộ Tẩu 
    có ý 
    nói là 
    người chiến 
    sĩ cầm 
    vũ khí 
    , đi từng
    đoàn 
    và đi 
    với một
    ý chí 
    cương quyết
    để ra trận.
    Ðây là 
    thời gian mà 
    các nước 
    Việt phía 
    Nam tiến lên
    đánh chiếm 
    phía Bắc 
    . Cái ý 
    nghĩa sâu 
    xa của chữ 
    Tẩu là 
    như vậy. 
    Nếu chúng 
    ta chỉ lấy 
    chữ Việt
    
  chỉ 
    là binh khí 
    mà thôi, 
    thì tự 
    nó không
    đủ để 
    giải thích 
    cái gì 
    cả ! 
   
  
    
- Chữ 
    Tẩu mang ý 
    nghĩa chạy 
    là do sau nầy 
    người ta đưa 
    vào chứ 
    chứ gốc 
    không có 
    nghĩa là 
    chạy . 
 
  
  
    
- Tóm 
    lại , Chữ
    “Việt
    “ có 
    bộ Tẩu 
    và chữ 
    kế bên
    đọc là 
    Việt có 
    nghĩa là 
    người chiến 
    sĩ cầm 
    vũ khí 
    là cái 
    qua, đi trong cương 
    quyết, đi 
    từng đoàn 
    theo thế quân 
    hành để 
    ra trận . Vậy 
    chữ Việt 
    không dính 
    dấp gì 
    với chó 
    chạy cả 
    !
 
  
  
    
-  
 
  
  
    - E .CHỮ 
    VIỆT ÐI 
    VỚI BỘ 
    MỄ 
    

 
   
  
    - Trong số 
    năm  học 
    giả trên 
    , có người 
    giải thích 
    chữ Việt 
     
  đi 
    với bộ 
    Mễ 
    
 là 
    một bản
    đồ đất
    đai của 
    người Việt
    ở từ 
    khi mới lập 
    quốc. 
   
  
    -  Người 
    khác thì 
    lại phân 
    tích rằng 
    chữ Việt 
     
  gồm 
    các bộ 
    Phiệt ( gần 
    giống âm 
    Việt ), Quynh ( miền
    đất ở 
    xa ngoài cõi 
    ), Mễ ( lúa 
    gạo ), Khảo 
    ( khéo léo 
    ). Rồi ông 
    giải thích 
    như sau: một 
    miền đất
    ở xa ngoài 
    nước Tàu 
    chuyên nghề 
    trồng lúa 
    một cách 
    tinh xảo ; Chữ 
    Việt  này 
    nhìn giống 
    như một 
    trái cây, 
    có cuống 
    , có quả 
    , có nhiều 
    hạt. 
   
  
    
- Mỗi 
    người giải 
    thích theo mỗi
    ý . Bạn 
    và tôi 
    thữ tìm 
    xem coi chữ Việt 
    bộ Mễ 
    này có 
    nghĩa gì 
    .
 
  
  
    - Ðầu tiên 
    chữ Việt 
     
 gồm 
    có bộ 
    Mễ  . Vậy 
    bộ Mễ 
     
ngày 
    xưa chữ 
    gốc của 
    nó là 
    gì ?      
   
  
  
    
-           
    Hình 1  
 
  
  
  
    
-           Hình 
    2  
 
  
  
  
    
-           
    Chữ từ 
    xưa đến 
    nay 
 
  
  
    - Ðầu tiên 
    người xưa 
    vẽ chín 
    hạt gạo 
    tượng trưng 
    cho bộ Mễ 
    
. 
    Con số chín
    đây có 
    nghĩa là 
    nhiều , sung túc,
    đầy đủ. 
    Xem hình 1, cây 
    lúa có 
    rất nhiều 
    hạt .Sau đó 
    hạt lúa 
    văng đi 
    bốn hướng; 
    họ gạch 
    chứ thập
    
  tượng 
    trưng cho bốn 
    hướng. Hình 
    2 , khi người ta đập 
    lúa thì 
    hạt lúa 
    văng đi 
    tứ ( bốn 
    ) hướng. Bỗ 
    Mễ  
  ngày 
    nay viết đổi 
    khác hơn 
    chữ lúc 
    ban đầu.  
   
  
    - Chúng 
    ta đã có 
    lúa gạo 
    tức là 
    bộ Mễ, 
    vậy thì 
    cái chữ 
    mà bọc 
    bộ Mễ 
    là chữ 
    gì ? Ðể 
    dễ nhận 
    thức tôi 
    xin đưa ra một 
    ví dụ 
    : chữ Hướng 
     
 , chữ 
    bộc bộ 
    khẩu cũng 
    viết giống 
    như chữ 
    bọc   
bộ 
    Mễ  . Chữ 
    Hướng  
 ,
    đầu tiên 
    viết là  
     
, người 
    xưa giải 
    thích là 
    cái cửa 
    sổ ( hình 
    tròn ) , nằm 
    dưới cái 
    mái nhà
    
 , là 
    cái hướng
    để cho gió 
    lọt vào 
    . Bây giờ 
    chúng ta nhìn 
    lại chữ 
    Việt  
, 
    cái chữ 
    bọc bộ 
    Mễ đó 
    là cái 
    mái nhà, 
    có nghĩa 
    là gạo
    được trữ 
    dưới mái 
    nhà hay còn 
    gọi là 
    trữ trong kho. 
   
  
    
-  
 
  
  
    -       Kế 
    tiếp  chữ
    ở dưới 
     
bộ 
    Mễ là 
    cái gì 
    ? Bạn hãy 
    coi hình ở 
    dưới . 
   
  
    
-  
 
  
  
  
    
-  
 
  
  
    - Người 
    xưa lấy 
    một khúc 
    cây , ráp 
    một cái 
    lưỡi bằng
    đá vào
    để làm 
    cái cày
    để cày
    đất . Rồi 
    người ta  đứng 
    lên trên 
    cái cày
    đó để 
    làm sức 
    nặng và
    đàng trước 
    có súc 
    vật kéo 
    . Bạn và 
    tôi nên 
    nhớ là 
    người Việt 
    ngày xưa 
    nổi tiếng 
    về nghề 
    trồng lúa 
    .Vậy chúng 
    ta thấy có 
    sự liên 
    hệ giữa 
    ba chữ với 
    nhau trong chữ Việt
    
; 
    bộ Mễ 
    là lúa, 
    gạo , được 
    trữ dưới 
    mái nhà 
    tức là 
    trữ trong kho, và
    để tạo 
    ra lúa gạo 
    thì cái 
    cày là 
    một dụng 
    cụ nông 
    nghiệp. 
   
  
    
-  
 
  
  
    - F. 
    Ý NGHĨA 
    CỦA HAI CHỮ 
    VIỆT: Việt
    
 và 
    Việt 
 
   
  
    
-  
 
  
  
    
- Tại 
    sao tiền nhân 
    của chúng 
    ta lại dùng 
    tới hai chữ 
    Việt để
    đặt cái 
    tên Việt 
    ? Thông thường 
    người ta chỉ 
    cần một 
    chữ là
    đủ rồi 
    . Chúng ta thấy 
    trong hai chữ , mỗi 
    chữ Việt
    đều mang một
    ý nghĩa 
    khác nhau .
 
  
  
    -  ChữViệt
    
 đi 
    với bộ 
    Mễ thì 
    có mang một 
    dụng cụ 
    nông nghiệp 
    là cái 
    cày  để 
    nói lên 
    trong thời bình 
    người Việt 
    trồng lúa
    để sinh sống 
    . 
   
  
    - Còn 
    một chữ 
    Việt 
    
   có 
    kèm theo một 
    vũ khí 
    tức là 
    cái qua đi 
    với bộ 
    Tẩu có
    ý nói 
    là trong thời 
    chiến người 
    Việt, từng
    đoàn 
    cầm vũ 
    khí ra đi
    để chống 
    giặc và 
    giữ nước. 
    Vậy Tổ 
    tiên chúng 
    ta muốn dạy
    điều 
    gì cho chúng 
    ta ở đây 
    trong danh xưng là 
    Việt  ?  
   
  
    - Với 
    chữ Việt 
      
đi 
    với bộ 
    Mễ, tổ 
    tiên chúng 
    ta muốn nói 
    rằng vào 
    thời bình 
    người Việt 
    chúng ta phải 
    lo làm lụng 
    nuôi sống 
    gia đình, lo cho đất 
    nước giàu 
    mạnh ; ngày 
    xưa đất 
    nước của 
    chúng ta là 
    một nước 
    nông nghiệp 
    nên nghề 
    nông là 
    nghề chánh 
    . Ngoài ra chữ 
    Việt nầy
    đồng thời 
    cũng nói 
    lên đức 
    tính siêng 
    năng cần 
    cù của 
    người dân 
    Việt.  
   
  
    - Với 
    chữ Việt  
     
đi 
    với bộ 
    Tẩu có 
    nghĩa là 
    khi gặp thời 
    chiến thì 
    phải cùng 
    ra đi, cầm 
    vũ khí
    đứng ra chống 
    giặc để 
    giữ nước. 
    Tổ tiên 
    của chúng 
    ta khi đặt một 
    cái tên 
    gì, hay để 
    lại một 
    câu chuyện 
    gì, đều 
    có kèm 
    theo một ý 
    nghĩa rất 
    sâu sắc 
    trong đó. Như 
    vậy tổ 
    tiên của 
    chúng ta có
    ý dạy 
    cho dân ta phải 
    biết trách 
    nhiệm và 
    bổn phận 
    của mình
    đối với
    đất nước 
    và dân 
    tộc : thời 
    bình thì 
    phải làm 
    gì, và 
    thời chiến 
    thì phải 
    như thế 
    nào đối 
    với đất 
    nước .  
   
  
    
- Cái 
    lỗi ở
    đây là 
    tại chúng 
    ta không tìm 
    hiểu cho rõ 
    ràng và 
    cặn kẽ 
    cái ý 
    nghĩa của 
    tên “ 
    Việt “ 
    , rồi quay lại 
    hiểu lầm 
    tiền nhân 
    .Bây giờ 
    bạn và 
    tôi mới 
    nhận thấy 
    cái ý 
    nghĩa sâu 
    sắc của 
    tiền nhân 
    khi đặt cái 
    tên Việt 
    cho dân tộc 
    mình. 
 
  
  
    
- Tuy rằng
    đã hiểu
    ý nghĩa 
    của chữ
    “Việt
    “, nhưng 
    bạn và 
    tôi vẫn 
    còn thắc 
    mắc. Bạn 
    sẽ nói 
    rằng anh nói 
    tiền nhân 
    lấy cái 
    qua đặt vào 
    với tên
    “Việt“,nhưng 
    làm sao dám  
    chắc rằng 
    cái qua đó 
    là của 
    người Việt 
    ? Cái khí 
    cụ đó  
    có chắc 
    là của 
    người Việt 
    hay không hay là 
    lấy từ 
    một chổ 
    nào khác
    đem lại 
    ? Mà nếu 
    nó là 
    của người 
    Việt thì 
    nó ra sao ? Hình 
    dáng như 
    thế nào 
    ?