| |
VÀ
Tiếp Theo từ
Lê Văn Ẩn
G. CHỨNG MINH
BẰNG KHẢO CỔ
Khi một nhà khảo cổ đào t́m được một đồ vật , họ phải xác định cái đồ vật đó t́m
được ở đâu, vào thời gian nào, địa điểm chổ nào, vùng nào và cái đồ vật đó h́nh
thức ra làm sao, có sự liên quan ǵ đến các đồ vật mà ông t́m thấy được ở nơi
khác không v.v...Vậy muốn nói cái qua là của Việt th́ việc trước tiên là xác
định vùng đất nào là của tổ tiên người Việt . Để làm việc này , bạn và tôi phải
trở lại xem truyền thuyết họ Hồng Bàng .
Trong Việt Nam Sử Lược quyển một , cụ Trần Trọng Kim có viết lại như sau:
Họ Hồng Bàng . Cứ theo tục truyền th́ vua Đế-minh cháu ba đời vua Thần nông , đi
tuần thú phương nam đến núi Ngũ-lĩnh gặp một nàng tiên , lấy nhau, đẻ ra người
con tên là Lộc Tục. Sau Đế-minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế-nghi làm
vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh-Dương
vương, Quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cỏi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động-đ́nh hồ, phía Nam giáp nước Hồ
Tôn ( Chiêm Thành ), phía tây giáp Ba-Thục ( Tứ-xuyên ), phía đông giáp bể Nam-hải
.
Kinh-Dương vương làm vua nước Xích Quỷ và lấy con gái Động-đ́nh quân là Long nữ
đẻ ra Sùng Lăm nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu -cơ
là con gái của Đế Lai, sanh được một trăm người con trai .
Trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên do Nhượng Tống dịch, ông Ngô Sĩ
Liên gọi trăm người con trai đó là tổ của Bách Việt tức là trăm giống Việt .
Bây giờ bạn và tôi hăy xem lại Kinh Điển , coi lạiø Kinh Thư , xem phần Hạ Thư
chương Vũ Cống
, phần thượng
, có để cập đến việc vua Vũ dựng ra
9 châu gồm có :
1. Kí châu ,
2. Ung Châu,
3. Duyện Châu,
4. Thanh Châu,
5. Từ châu,
6. Dự châu,
7. Lương châu ,
8. Kinh châu ,
9. Dương châu .
Trong truyền thuyết, khi Lộc Tục làm vua th́ xưng là Kinh-Dương Vương tức là ông
làm vua cai trị hai châu : châu Kinh và châu Dương. Châu Kinh và châu Dương được
xem là miền Nam của Trung Hoa ngày nay, bao gồm Hồ Bắc, Hồ Nam dọc theo sông
Dương Tử , ra tới biển Đông và kéo xuống phía Nam . Nước của ông bao gồm từ Hồ
Bắc , Hồ nam cho tới nước Chiêm Thành. Con ông là Lạc Long Quân xuất thân từ Hồ
Động Đ́nh v́ Lộc Tục lấy Long Nữ , người gốc gác ở Hồ Động Đ́nh . Hồ Động Đ́nh
bao gồm Hồ Bắc ( tức là phía Bắc của Hồ Động Đ́nh ) và Hồ Nam ( tức là phía Nam
của Hồ Động Đ́nh ).
Các nhà khảo cổ đă t́m được trong các mộ đào được ở Trường Sa ( thuộc Hồ Nam )
một số những cái qua , xin coi h́nh phía dưới (h́nh 1 ).
H́nh 1 H́nh 2
Riêng vào tháng hai năm 1971, các nhà khảo cổ có t́m được tại phía đông của
Trường Sa thuộc vùng Hồ Nam , địa điểm tên là Liu-ch'êng-ch'iao một cái qua c̣n
nguyên vẹn ( h́nh 2 ). Điểm đặc biệt hơn nữa là trong quyển "Cultural Frontiers
in Ancient East Asia" của William Watson có viết về những đồ vật đào lên tại
tỉnh Hồ Nam rằng các nhà khảo cổ có t́m được cũng tại Hồ Nam một cái qua có khắc
tên một vị vua tên là Nhược Ngao . Sao khi tra cứu trong Sử Kư Tư Mă Thiên và
Xuân Thu Tả Truyện th́ vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ 14 tên
thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch . Đây là vị
vua Hùng thú 14 trong 18 vị Hùng vương, mà chúng ta thường gọi là 18 đời Hùng
vương. Những chi tiết về cái qua nầy tôi có viết trong bài
"Chứng tích Hùng Vương" lấy bút hiệu là An sơn , đăng trong tờ
Hoài Băo.
Xuân Thu và Tả Truyện |
Sử kư Tư Mă Thiên |
Tên vua và hiệu |
Số thứ tự |
Năm cai trị |
Nghi viết Nhược Ngao |
Hùng Nghi dă hiệu Nhược Ngao |
Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao |
14 |
789 tr. TL |
Vậy vùng Kinh-Dương bao gồm Hồ Nam , Hồ Bắc
và cả phía Nam từ vùng sông Dương Tử trở xuống , các nhà khảo cổ đă t́m được
những cái qua và đặt biệt là có một cái qua có khắc tên vị vua Hùng thứ 14 là
một trong 18 đời Hùng Vương của dân Việt . Như vậy cái qua là của tổ tiên người
Việt .
Nhưng mà bạn và tôi vẫn c̣n thắc mắc là tại sao và v́ lư do ǵ mà chế ra cái qua
? Có bao nhiêu loại binh khí khác , thế sao lại chọn cái qua trong chữ "Việt".
Cái qua có tác dụng ǵ ?
H. TÁC DỤNG CỦA CÁI QUA
Trước khi nói về tác dụng của cái qua , tôi xin nói qua một chút về Hồ Động Đ́nh
. Ngày xưa cả vùng sông Dương Tử bao gồm Hồ Bắc, Hồ Nam, An-Huy... có một cái hồ
rất lớn , đó là hồ Vân Mộng. Hồ Động Đ́nh là một phần c̣n lại của hồ Vân Mộng .
Sau khi hồ Vân Mộng khô mất đi th́ c̣n lại Hồ Động Đ́nh và một số những hồ nhỏ
khác. Tuy nhiên điểm đặc biệt là cái vùng của hồ Vân Mộng ngày xưa, th́ trở nên
những vùng đầm lầy, và có những bụi cây cỏ mọc rất cao ( có thể lên tới bốn năm
thước ), làm lấp cả lối đi ; những bụi cây nầy mang tên là cây kinh , từ đó
người ta mới gọi vùng đó là vùng Kinh tức là
vùng có cây kinh mọc. Vậy Châu Kinh có nghĩa từ vùng Kinh đó mà ra. Vùng phía
Nam bao gồm Hồ Nam, Hồ Bắc và dọc theo vùng sông Dương Tử là vùng đầm lầy . Quân
vùng phía Bắc, phần lớn là giống dân du mục nên chuyên môn dùng ngựa . Khi họ
đưa quân xuống tấn công phía Nam th́ gặp phải vùng đầm lầy. Vậy cái qua có tác
dụng ǵ ? Hăy nh́n h́nh cái qua ở dưới :
Cái qua , tác dụng của nó là phía trước dùng để đâm tới, chém ngang; phía sau là
để móc lại. Khi ngựa của quân Bắc xuống bị mắc lầy , th́ cái qua móc chân ngựa
quỵ xuống và đâm tới người lính trên ngựa; cái qua có hai điểm lợi là vừa móc
vừa đâm. Cái qua có lợi điểm là tấn công từ xa , có cây qua dài trên một thước ,
nhưng cũng có cây dài khoảng ba thước. Cây kiếm là dùng cận chiến , c̣n cây qua
là để tấn công từ phía xa, tấn công cả người lẫn ngựa . Chính cái qua nầy đă
chận đứng được quân xâm lược nhờ vào tài biết lợi dụng địa thế thiên nhiên của
tiền nhân chúng ta. V́ đó trong các loại vũ khí, tiền nhân của chúng ta không
chọn vũ khí nào khác, mà lấy cái qua đặt trong tên chữ Việt
.
Bây giờ bạn và tôi mới thấy rằng tiền nhân của chúng ta có suy nghĩ vững chắc
khi đặt cái tên Việt , chớ không phải là không có suy tính .
Bạn sẽ nói rằng , tôi biết tin ai bây giờ ! Anh nói là cái
tên Việt do tiền nhân của chúng ta đặt ra, nhưng các học giả ở trên viết đăng
trong các tờ báo , cho rằng tên Việt là do nhà Chu và nhà Hán đặt ra, vậy th́
làm sao xác định được ? Một lần nữa bạn và tôi thử t́m hiểu coi ai đặt cái tên
Việt nầy ra .
I. TÊN VIỆT CÓ PHẢI DO NHÀ CHU HAY NHÀ HÁN ĐẶT RA KHÔNG ?
V́ nhà Chu và nhàHán nằm trong phần lịch sử nên muốn chứng minh điều nầy th́ dù
muốn dù không chúng ta phải tra cứu cổ thư.
Khi nhắc đến chuyện xa xưa của sử Trung Hoa, người ta nhắc đến thời ông Bàn Cổ,
sau đó là Tam Hoàng có Thiên Hoàng , Nhân Hoàng, Địa Hoàng ; kế tiếp đến Ngũ
Long, Hữu Sào , Toại Nhân ; rồi đến Thần Nông , Phục Hi, Nữ Oa ; sau đó là Hoàng
Đế , xong đến Nghiêu, Thuấn và Vũ. Người Việt chúng ta dựa theo truyền thuyết Họ
Hồng Bàng , cho chúng ta thuộc ḍng dơi Thần Nông. Người Tàu th́ nhận họ là con
cháu của Hoàng Đế.
Từ Bàn Cổ cho tới thời Nghiêu, Thuấn các sử gia Trung Hoa rất ít chú ư đến, họ
chỉ chú ư từ đời nhà Hạ do vua Vũ lập ra, qua đời Thương , đời Chu rồi Tần và
Hán kể về sau , v́ những triều đại nầy có thể chứng minh qua khảo cổ , và tài
liệu cổ thư cũng đă dồi dào.
Thông thường khi bạn coi một cuốn sử Trung Hoa, bạn sẽ thấy
họ đưa ra một niên biểu như sau ( trích từ The Chinese exhibition do The
People's Republic of China xuất bản 1977 ):
Niên biểu các triều đại của Trung Hoa
Nhà Hạ 2100 - 1600 tr. TL ( trước Tây Lịch )
Nhà Thương 1600 - 1100 tr. TL
Tây Chu 1100 - 771 tr. TL ( đến 771 tr. TL th́ nhà Chu dời đô về
Lạc-Dương , và đây là thời Đông Chu ) .
Thời Xuân Thu 770 - 476 tr.TL
Thời Chiến Quốc 475 - 221 tr. TL
Tần 221 - 207 tr. TL
Tây Hán 206 tr. TL - 24 sau TL
Đông Hán 25 sau TL - 220 sau TL
Ở đây tôi chú ư đến đời nhà Thương và nhà Chu với hai lư do : thứ nhất là họ có
những bằng chứng xác định qua cổ thư và khảo cổ , thứ hai là họ có trước đời nhà
Hán rất xa .
J . CHỨNG MINH QUA CỔ THƯ
a- NHÀ THƯƠNG
Tài liệu về nhà Thương th́ rất nhiều. Kinh Thư , Sử Kư Tư Mă Thiên và bộ Trúc
Thư Kỉ Niên đều có viết về nhà Thương . Theo bộ Trúc Thư Kỉ Niên th́ Thành Thang
lập ra nhà Thương , đầu tiên đóng ở đất Bạc. Đến thời Bàn Canh là vị vua thứ 19
th́ dời qua Ân và có lẽ từ đó đổi tên nhàThương thành nhà Ân. Đến thời Vũ Đinh
là vị vua thứ 22 , lấy hiệu là Cao Tôn, th́ một biến cố quan trọng xẩy ra ; bộ
Trúc Thư ghi như sau :
Tam thập nhị niên , phạt Quỷ Phương, thứ vu Kinh
Năm thứ 32 , đem quân đánh Quỷ Phương và đóng quân tại Kinh
Trong truyền thuyết của chúng ta có nói Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là
Kinh-Dương vương, Quốc hiệu là Xích Quỷ. Chữ Xích có nghĩa là chỉ đường Xích đạo,
Quỷ ở đây là Sao Quỷ tượng trưng cho phương Nam. Khi vua Vũ Đinh nhà Ân đóng
quân tại Kinh , tức là vùng Kinh thuộc châu Kinh. Thời điểm đó th́ Sao Quỷ nằm
tại vùng châu Kinh , cho nên Quỷ Phương tượng trưng cho dân của vùng châu Kinh ,
mà châu Kinh là của Việt nên người Việt chúng ta mới có truyền thuyết PHÙ ĐỔNG
THIÊN VƯƠNG chống giặc Ân . Chống giặc Ân tức là chống quân của Ân Cao Tôn từ
phía Bắc kéo xuống .
Ngoài tài liệu cổ thư, nhà Thương c̣n để lại một tài liệu rất là quư giá. Đó là
những chữ khắc trên xương và yếm rùa c̣n được gọi là "Sấm Ngữ" ( Oracle bones ),
mà các nhà khảo cổ đă đào được rất nhiều tại An-Dương. Các Sấm Ngữ c̣n cho chúng
ta biết rằng có sự liên lạc giữa nhà Thương và dân ở miền Nam Trung Hoa và đặc
biệt là dân ở vùng sông Dương Tử tức là vùng của người Việt ngày xưa . Ông
Tsuen-Hsuin Tsien , tác giả quyển "Written on Bamboo and Silk" ( Viết trên tre
và Lụa ) do The University of Chicago Press xuất bản 1962 ,có viết như sau :
"The oracle inscriptions also contain such divinations as "there will be
tortoises presented from the south" or no tortoises will be presented from the
south" , có nghĩa là các lời khắc của sấm ngữ c̣n chứa đựng những câu chiêm đoán
như "sẽ có rùa mang đến từ miền Nam" hay "không có rùa được mang tới từ miền
Nam" . Ông cho biết các câu như thế được lập đi lập lại khoảng 500 lần trên sấm
ngữ . Ông c̣n cho biết là theo cổ thư th́ rùa được mang tới từ vùng sông Dương
Tử. Như thế ngày xưa đă có sự hiểu biết nhau và trao đổi giao dịch giữa nhà
Thương và dân Việt.
Ngoài ra ông William Meacham , một nhà khảo cổ học , có viết một bài với tựa đề
"Defining the Hundred Yue" ( Định nghĩa Bách Việt ) đăng trong tờ Hongkong
Archaeological Society . Ông viết như sau : "The term Yue occurs fairly
frequently in the oracle bone writings of the late Shang dynasty, ca 1200 BC" có
nghĩa là danh từ "Việt" thường hay xuất hiện trên sấm ngữ vào cuối đời nhà
Thương khoảng 1200 trước Tây Lịch . Ông William Meacham có liên lạc với ông
Lefeuvre, cũng là một đồng nghiệp với ông, khi viết bài nầy, th́ ông Lefeuvre có
xác định với ông William là có một câu của sấm ngữ nhắc đến "vùng đất của Việt"
, đây là lời ông William Meacham viết : "Lefeuvre notes one inscription
mentioning" the land of Yue" .
Vậy cái tên Việt đă xuất hiện trên sấm ngữ vào thời nhà Thương . Nhà Thương
xuất hiện trước thời nhà Chu , và tên "Việt" có khắc rơ ràng trên "sấm ngữ" (trên
xương và yếm rùa) ; vậy th́ làm sao có thể nói là nhà Chu đặt tên Việt cho người
Việt được ?
Nhà Thương xuất hiện vào 1600 tr. TL , có nơi cho là khoảng 1500 tr.TL và nhà
Hán xuất hiện vào khoảng 206 tr. TL, như thế tên "Việt" xuất hiện vào khoảng
trên 1000 năm trước nhà Hán , thế th́ làm sao có thể nói rằng nhà Hán đặt tên
Việt cho người Việt được, lấy kẻ sanh sau mà bảo đặt tên cho người sanh trước
th́ nghe làm sao thông được !
b. NHÀ CHU HAY C̉N GỌI LÀ NHÀ CHÂU
Khi đến phần nhà Chu th́ Bộ Trúc Thư Kĩ Niên có viết như sau :
Trước khi dịch hai câu trên th́ tôi xin có một đôi lời giải thích :
đại vương đây có nghĩa là ông nội
của Xương.
Xương là tên khi c̣n nhỏ chưa làm vua,
khi làm vua rồi th́ xưng hiệu là Vũ Vương . Khi xưng là Vũ Vương th́ mới thành
lập ra nhà Chu.
Quư Lịch là cha của Xương, tức là cha
của Vũ Vương.
Thái Bá là anh lớn của Quư Lịch tức là
bác của Xương.
Đại vương viết ngô thế đương hữu hưng dă kỳ tại Xương hồ .
Đại vương nói thế hệ của ta mà hưng là nhờ ở tại Xương ( có nghĩa là ông nội nói
rằng gia đ́nh của ông mà lên là nhờ ở Xương là đứa cháu của ông )
Quư Lịch chi huynh viết Thái Bá tri thiên mệnh tại Xương thích Việt .
Theo lời nói anh của Quư Lịch là Thái Bá, đoán biết mệnh trời nằm ở tại Xương
nên bỏ đi qua Việt .
Câu này có nghĩa là khi Xương mới sanh, c̣n nhỏ, chưa làm vua , chưa thành lập
nhà Chu ; nhà Chu chỉ được thành lập khi Xương lên ngôi lấy hiệu là Vũ Vương,
c̣n trước đó chỉ là một bộ lạc thông thường , trú đóng tại miền Tây Bắc của
Trung Hoa mà thôi. Vậy mà bác của Xương là Thái Bá đă biết nước Việt , khi Xương
c̣n nhỏ, có nghĩa là nước Việt, hay nói đúng hơn là tên "Việt" đă được biết đến
trước khi có nhà Chu.
Vậy mà một học giả ở trên viết rằng người nhà Chu dùng
từ Việt, có nghĩa là Vượt để gọi những dân tộc người ở vùng Nam man có lối sống
hỗn độn mà họ cho "có lối sống Vượt ra ngoài ṿng lễ giáo của nhà Chu" .
Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao bao nhiêu bộ lạc khác lại không đi qua , mà
lại đi qua Việt ? Ông Thái Bá có thể sai, nhưng cha của ông là người biết rộng ,
làm sao có thể để con đi vào chổ chết v́ theo học giả ở trên nói là dân vùng Nam
man ( tức là dân Việt ) sống ngoài vùng lễ giáo và có lối sống hổn độn ! Họ có
thể giết con ông bất cứ lúc nào ! Vậy việc ông Thái Bá đi qua Việt, có phải là
lúc đó tên Việt đă có một ảnh hưởng quá lớn không , hay là v́ tiếng vang của cái
tên Việt nên ai cũng t́m tới. Thời đời nhà Thương, nhà Chu là thời nhiểu nhương
, loạn lạc, người ta muốn t́m một nơi tá túc th́ phải coi nước mà ḿnh t́m đến
đó như thế nào, có đủ khả năng để bảo vệ ḿnh không?
Vậy tên "Việt" đă xuất hiện trước thời nhà Chu và đồng thời cũng có trước nhà
Hán rất lâu , vậy th́ làm sao quả quyết là nhà Chu hay nhà Hán đặt tên Việt cho
người Việt được?
Sử Trung Hoa c̣n rất nhiều nghi vấn cần phải đặt lại sau nầy.Bạn muốn t́m nguồn
gốc của dân Việt ư ? Bạn phải t́m tài liệu viết trước đời Tần và Hán , v́ hai
triều đại nầy đă sửa đổi tất cả sử liệu viết trên đất Trung Hoa theo ư họ rồi!
k. PHẢI HẢNH DIỆN XƯNG M̀NH LÀ VIỆT
Trong số năm học giả ở trên th́ có hai học giả cảm thấy xẩu hổ khi xưng ḿnh là
Việt , và đề nghị xưng ḿnh là người Nam!
Sau khi t́m hiểu nguồn gốc chữ "Việt" tôi không thấy có ǵ là xấu hổ cả ! Tổ
tiên của chúng ta đă có suy nghĩ rất kỹ khi đặt tên "Việt" cho dân tộc ḿnh. Tên
"Việt" đă được ghi rơ ràng qua kinh điển và qua bằng chứng của khảo cổ trên
những chữ khắc trên xương và yếm rùa mà chúng ta gọi là sấm ngữ .
Khi nghiên cứu lại tiền sử của dân Việt, chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên nầy đến
ngạc nhiên khác, v́ người ta viết không trúng về người Việt rất nhiều. Trong mỗi
chặn sử của Trung Hoa , đều có sự hiện diện của tiền nhân người Việt . Những di
tích của người Việt c̣n để lại trên đất Trung Hoa, những ảnh hưởng của người
Việt c̣n t́m thấy qua khảo cổ, nhân chủng học, ngôn ngữ học vv... ở trên đất
Trung Hoa. Các học giả Trung Hoa đă đề xướng "Chủ Thuyết Trung Nguyên" để t́m
cách loại cái ảnh hưởng của tiền nhân người Việt ra khỏi sử Trung Hoa, nhưng họ
đă không làm được chuyện đó, v́ lư do đơn giản là họ không thể gạt bỏ Kinh Điển
và những cổ thư mà khảo cổ đào được.
Đừng bao giờ nói như một học giả ở trên viết : ... "Từ thời thượng cổ cho đến
cận đại, dân tộc mà ngày nay bị gọi là Việt Nam này
không bao giờ chịu nhận ḿnh là người Việt" . Cái lỗi ở đây là tại
chúng ta không t́m hiểu cho cận kẽ, rơ ràng rồi tuyên bố không muốn xưng ḿnh là
Việt, chứ tiền nhân của chúng ta vẫn gọi họ là người Việt . Cổ thư , kinh điển
đều ghi là Việt, là người Việt , bạn và tôi đâu có bịa những chuyện đó ra đâu.
Trước khi kết thúc tôi xin tóm tắt lại như sau :
1. Nói chữ Việt gồm
bộ Tẩu với chữ Tuất là sai . Chữ Việt đúng là gồm bộ Tẩu và chữ Việt. Có hai cái
sai : thứ nhất là sai chữ. Các học giả trên đọc lộn chữ Việt
ra chữ Tuất . Cái sai
thứ hai là các học giả trên không kiểm soát lại cái âm khi đọc để biết ḿnh nói
có đúng hay không.
2. Không có ai, kể cả nhà Thương hay nhà Chu hoặc nhà Hán, đặt tên Việt cho
người Việt. Tên Việt là do chính tổ tiên của người Việt đặt cho dân Việtï, bằng
chứng từ kinh điển và khảo cổ có cho biết là tên Việt đă có từ lâu đời.
3. Chữ Việt có hai nghĩa. Chữ Việt
bộ Mễ là để nói,
thời b́nh người Việt làm nghề nông sanh sống , lúa gạo trữ trong kho. Chữ Việt
bộ Tẩu là để nói, thời chiến người
Việt cầm vũ khí đi chống xâm lăng để giữ nước.
Chữ Việt
mà người ta lầm tưởng là chó chạy, đă
giải thích trật từ lâu lắm rồi, không phải đợi tới các học giả trên viết ra mới
biết là sai . Các học giả trên viết bài với tấm ḷng yêu nước, nhưng chỉ lập lại
cái trật của những người đi trước mà thôi .Thật ra, tôi lấy năm tài liệu nầy để
làm cái cớ mà đính chính và giải thích chữ "Việt" , chứ không có ư chỉ trích ai
. Tôi xin cám ơn năm học giả trên đă cho tôi cơ hội , giải thích lại phần nào
nguồn gốc của người Việt. Nếu trong sự giải thích nầy có đều ǵ xúc phạm đến năm
học giả trên , xin miển thứ.
Trước khi kết thúc tôi xin lập lại câu nói của cụ Trần Trọng Kim ghi trong Việt
Nam Sử Lược : "Người trong nước có thông hiểu những sự
tích nước ḿnh mới có ḷng yêu nước , yêu nhà, mới biết cố gắng học hành , hết
sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xă-hội của tiên-tổ đă xây dựng nên mà
để lại cho ḿnh" . Tôi hy vọng bài viết nầy gíúp cho bạn và tôi biết
được một đôi chút sự-tích nước ḿnh để cho khỏi tủi quốc hồn, tôi chỉ có ước mơ
đơn giản vậy thôi .
LÊ VĂN ẨN
|