|
Mạn Bàn Về Các Loài Hoa
Hằng năm sau khi mùa Đông mặc áo ấm ra đi, mùa Xuân phơi phới lại đến để bắt
đầu một năm mới theo chu kỳ của tạo hóa thiên nhiên cho không gian chúng ta
bừng sống lại của hương hoa phảng phất, để muôn hoa phô sắc thắm và người ta
nói đến sự thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa, để chúng ta sẽ bàn thêm về những
loại hoa. Một cành mai gầy trong gió đông hay một chiếc lá ngô đồng rụng báo
hiệu mùa thu sắp đến, hay một đóa sen tỏa hoa vào mùa hạ; Hoặc một nụ tầm
xuân vừa hé nở … đều được con người chiêm ngưỡng, quan sát như những biến
dịch của trời đất, rồi từ đó suy nghiệm, nhận ra những qui luật tiến hóa của
thiên nhiên trong ý niệm sanh diệt.
Hoa là biểu hiện cho cái đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Sự hiện
diện của hoa trong địa cầu hay cuộc sống giúp cho tâm hồn con người dễ hòa
nhập vào với thiên nhiên,vơi bớt những ưu phiền. Cái đẹp của hoa biểu tượng
cho sự hoàn thiện và vĩnh cửu, dù cho hoa có sanh diệt theo lẽ vô thường.
Người ta yêu hoa vì cái đẹp của hoa, của đời và của người. Nhưng con người
khi yêu cái đẹp đã vô tình đem cái đẹp của hoa giam vào xã hội nhân thế đa
đoan. Con người tùy theo sở thích, quan niệm riêng tư trong cung cách xử thế,
đã phân định đẳng cấp cho hoa như: Mẫu đơn là Vương giả chi hoa; Hà hoa(hoa
sen) là Quân tử hoa; Nguyệt Quế là Hoàng hậu hoa; Sơn trà là Trân phẩm hoa;
Đỗ quyên là Tây Thi hoa, v.v.…
Ba từ ngữ đồng nghĩa "Huê", "Bông" hay "Hoa" được con
người chia thành hai lọai chính: loại đẹp (sắc) và loại thơm (hương). Nên ta
có những hoa vừa đẹp vừa thơm (hữu sắc hữu hương), những hoa chỉ đẹp không
thơm (hữu sắc vô hương), những hoa chỉ thơm không đẹp (hữu hương vô sắc),
hay đến những hoa không đẹp không thơm ( vô hương vô sắc/hoa cỏ ngậm ngùi
hic, hic...). Đó chỉ mới nói về sự thưởng ngoạn hương sắc hoa. Còn nói về
thể chất hoa thì có hoa mỏng manh, có hoa bền bỉ, có hoa mềm mại,có hoa cứng
cát …Về màu sắc thì muôn màu như trắng, đỏ, tím, vàng... Chưa kể đến sự hiện
hữu của hoa trong văn chương thi phú, thơ ca... cho đến “nền“ văn hóa ẩm
thực, như các loại hoa không ăn được và hoa ăn được dùng làm thực phẩm.
Hoa dùng làm thực phẩm thì cũng có hoa đẹp, hoa không đẹp, nhưng thôi xin
không bàn về sắc hương nữa , mà chỉ nói đến các món ăn được chế biến từ các
loại bông hoa như: bông bí, hoa chuối, bông điên điển, bông lục bình, bông
hẹ, hoa hiên, bông lẻ bạn, bông mướp, bông sầu đâu, bông so đũa, bông sen,
bông súng và hoa thiên lý.
BÔNG BÍ:
Bông bí dùng để ăn là bông bí đực của cây bí rợ, không thể đậu trái. Bông bí
lớn, màu vàng tươi rất vui mắt. Bông bí được cắt chừa cuống dài, bó thành bó
nhỏ đem ra chợ bán, nhưng không có nhiều, chỉ có theo mùa. Thông thường bông
bí đem về được rửa sạch, sau đó luộc chấm nước kho cá, kho thịt hay chấm
nước tương dầm ớt. Bông bí luộc có vị ngọt, hơi nhân nhẫn, phần tiếp giáp
giữa cuống và bông hơi dai dai, ăn rất ngon. Bông bí còn dùng để nấu canh,
xào tỏi, xào thịt bò, xào nghêu…xào bông bí phải canh cho vừa chín mới còn
dòn. Món đặc sắc nhất của bông bí là “bông bí dồn thịt chiên“ hay còn gọi là
chả bông bí.
Bông bí vừa chớm nở phải hái xuống ngay, tướt xơ ở cuống, xoi tim, rửa sạch,
để ráo.Tôm, mực, thịt nạc vai heo quết nhuyễn, trộn tiêu hành, mắm muối, bột
năng. Bẻ gập các cánh hoa úp đè lên nhau, nhẹ tay bỏ vào chiên với lửa nhỏ
để bông bí còn màu vàng tươi, không bị cháy xém. Chả bông bí beo béo, thơm
thơm, chấm nước tương dầm ớt. Món ăn này thường được làm trong những ngày
giỗ, tết của gia đình hay tụ họp, đãi đằng, chả bông bí không những phổ biến
ở miệt vườn lụcv tỉnh nam bộ, mà còn nổi tiếng ở miền trung như Huế nữa. Ca
dao miền Nam có câu:
"Má mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh"
Hiện nay với trào lưu fast-food đã Tây phương hóa dần dần cung cách ăn uống
ở Đông phương nói chung, ở Việt Nam nói riêng, bạn tôi nhà thơ TTSH đã cho
câu thơ “ý nghĩa” rằng thì là:
"Má mong đưa thiếp lên thành
Biết ăn fast-food cho rành… người ta"
HOA CHUỐI:
Người miền Bắc gọi là hoa chuối,thì người miền Nam lại gọi là bắp chuối.
Thường buồng chuối trổ đủ nải rồi, người ta cắt bớt đi các bắp chuối. Bắp
chuối có màu tím, ngon nhất là bắp chuối hột. Bắp chuối được chế biến thành
nhiều món ăn như: trộn gỏi, nấu canh, ăn ghém và chiên làm đồ chay…
- Gỏi bắp chuối (nộm hoa chuối ): Bắp chuối lột bỏ phần bẹ già, còn phần non
xắt mỏng, ngâm nước pha chanh hay dấm cho khỏi đen và ra bớt nhựa, vớt ra,
để ráo.Trộn chung với tôm thẻ, thịt heo luộc, hến, gà luộc xé phay hay vịt
luộc chặt miếng… rồi rau răm, củ hành tây xắt mỏng, đậu phọng rang giã nhỏ,
nước mắm pha đường, chanh, tỏi, ớt.
- Canh chua bắp chuối: Bắp chuối phần non thái mỏng, nấu canh chua me dầm
với tôm, cá, lươn…
- Bắp chuối bào trộn với các thứ rau sống khác, rau muống chẻ để ăn chung
với các món nước như: bún riêu, bún bò, lẩu các loại…
- Phần trắng giữa bẹ bắp chuối được dùng thế mì căn làm món chay như gà xào
xả ớt, tôm lăn bột chiên.
Cây chuối rất dễ trồng ở Việt Nam. Hình ảnh của bờ tre đầu làng, bụi chuối
te tàu sau vườn là hình ảnh của quê nhà trong tâm người xa xứ, bụi chuối còn
là hình ảnh người đàn bà Việt Nam trong ca dao:
"Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh theo vợ bé, bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẳm, tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông"
BÔNG ĐIÊN ĐIỂN:
Còn được gọi là “hoa mùa lũ” hay “hoa cứu đói”. Do mỗi năm, khoảng một tháng
sau khi nước lên theo mùa, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, bông điên điển trổ
đầy cành những cánh hoa vàng rực rỡ, trên những cánh đồng ngút ngàn. Trong
những ngày không làm việc được để kiếm tiền, người nông dân chống xuồng ba
lá đi hái bông điên điển tươi bán đổi gạo, làm dưa, hay nấu cháo với bông,
luộc bông ăn cầm cự đói:
"Cầm trên tay chùm “hoa mùa lũ”
Tên lòai hoa chân chất quê nhà
Bông điên điển nở vào kỳ giáp vụ
Vượt lên trên ngầu đục phù sa
“Hoa cứu đói “, bà con thường gọi thế" (Bùi Văn Bồng)
Bông điên điển lặt, rửa sạch, ngâm với giá sống trong nước muối có độ mặn
vừa phải, chừng 3 ngày thì chua, thành dưa điên điển, dùng chấm nước kho cá,
kho thịt, nấu canh với cá rô. Mùa nước nổi là mùa tôm cá sinh sôi đầy đặc
dưới nước. Người ta giăng lưới, câu, xúc, kéo vó quanh nhà chừng nửa giờ là
có cá rô con, rô mề cỡ mấy ngón tay. Canh dưa điên điển cá rô chẳng cần nêm,
nếm gì thêm cũng đủ vị mặn, chua hấp dẫn. Bông điên điển dùng làm rau sống
nhúng lẩu cá, lẩu mắm, xào tép, thay giá làm nhân đổ bánh xèo với thịt heo,
ăn với các loại rau, đọt trong vườn, chấm nước mắm pha tỏi ớt; Làm mắm chay
hoặc Nấu canh chua. Mùa điên điển ra bông cũng là mùa cá linh từ Biển Hồ
trôi giạt xuống vùng sông Tiền, sông Hậu. Cá linh nấu với me sống vừa chua,
làm lẩu, nhúng chỉ duy nhất bông điên điển vào. Hoặc bông điên điển được nấu
canh chua với cá bông lau, đậu bắp như trong thơ Bùi Chí Vinh:
"Tôi biết có nồi canh điên điển
Cá bông lau, đậu bắp, mỡ hành
Em ngậm cái màu bông chín nõn
Thẹn thùng không nói được tiếng : anh
… Con sáo sang sông, con sáo hiếm
Kỳ hoa thành lẩu đãi nhà quan
Đâu biết có nồi điên điển luộc
Ăn thay cơm trên sóng thủy thần
Em ngậm cái bông màu nước mắt
Kỷ niệm buồn như một tiếng anh"
Hay hình ảnh bông điên điển và bông lục bình trong ca dao miền Nam:
Lục bình bông tím, điên điển bông vàng Điên điển mọc ở đất làng Lục bình
trôi nổi như chàng hát rong
BÔNG LỤC BÌNH:
Còn có tên là sen nhật, bèo tây. Lục bình là thân cây cỏ, sống nổi trên mặt
nước, có cuống phồng lên thành phao nổi. Lá có gân, hình cung. Hoa mọc thành
chùm ở ngọn. Hoa không đều, có màu tím xanh, đài hoa và tràng hoa cùng màu,
dính liền nhau ở gốc. Cánh hoa trên có đốm vàng, 6 nhụy (3 dài, 3 ngắn).
Người ta dùng bông lục bình làm gỏi, chấm nước cá kho.
"Lục bình ai thả trôi sông
Mà sao tím cả mấy giòng sông quê
Xa nhà, xa mấy triền đê
Mà nghe thương nhớ lối về mênh mông
Ai về tìm lại khỏang sông
Có hoa tim tím cánh đồng ngày xưa"
(Hòai Trâm)
BÔNG LẺ BẠN:
Cây lẻ bạn có nguồn gốc từ các nước Trung Mỹ, được trồng rộng rãi ở Việt
Nam. Cây trồng trong chậu làm cây cảnh, trồng ngoài vườn để làm thuốc. Cây
có thân rất ngắn, lá mọc gần như sát đất. Lá không cứng, có bẹ, đầu thuôn
dài, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu đỏ tím. Cụm hoa nhỏ, mọc ở nách lá,
ngoài có hai mo úp vào nhau, giống như vỏ con sò, nên còn được gọi là bông
sò huyết (oyster plant). Hoa màu trắng, dùng làm thuốc trị ho, hay nấu canh
với xương heo ăn cho mát, bồi bổ cơ thể suy nhược.
Đâu phải tại bông mà mình thành lẻ bạn:
"Tại tía má em đành đọan
Đốn ngọn cây bần
Chê anh nghèo áo chẳng ấm thân
Không cho ghe cá được gần ghe tôm."
BÔNG HẸ:
Cây hẹ đây là hẹ trồng, chứ không phải hẹ nước để ăn mắm kho. ông hẹ tiếng
Tàu gọi là Cửu thái, tiếng Anh là Chives. Bông hẹ màu trắng. Nấu canh với
đậu hủ tươi ăn giải nhiệt . Xào với lòng gà (tim , gan ,mề), nghệ ăn để trị
ho.
BÔNG MƯỚP:
Cây mướp dễ trồng, thuộc họ dây leo, chưa phủ kín giàn đã ra hoa. Người ta
thường có câu: ”Nụ cà, hoa mướp“. Hoa mướp màu vàng rực, nụ hoa tròn và đen.
hông bằng bông bí, nhưng hoa mướp cũng được dùng luộc, xào lòng gà, ngon
nhất là hoa mướp hương , ăn bùi và béo.
BÔNG KIM CHÂM:
Tiếng Tàu gọi là kim châm hay hoàng hoa. Tiếng Việt gọi là hoa hiên. Cây
thường mọc hoang. Cuống hoa da`i từ 80- 100 cm, đầu cuống chẻ làm hai, có từ
6-12 hoa. Hoa màu vàng, phơi khô thành màu nâu. Người ta thường dùng hoa kim
châm khô với nấm mèo để nấu canh, hầm thuốc bắc, tiềm vịt, gà… Hoa kim châm
có vị ngọt, tính mát, được dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa chảy máu
cam. Ngày nay cây được trồng nhiều ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam.
BÔNG SÚNG:
Cây súng là giống cây mọc hoang dại quanh năm ở dưới nước của đồng bằng miền
Nam. Từ ao, hồ, đầm đến mương, kênh, rạch,láng, bàu, trũng… Vùng Đồng Tháp
Mười cây súng mọc nhiều nhất, nên ca dao miền Nam có câu:
"Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm"
Cây súng có lá tròn giống lá sen, phía trên màu xanh lục, phía dưới màu hồng
nhạt, nổi trên mặt nước. Có hai loại bông súng: Súng sen được trồng ở đầm
chùa, ao làng có bông màu tím đỏ, rất to. Súng dại có cuống lá nhỏ, bông màu
trắng hay tím. Bông súng có nhiều lá noãn gắn với nhau thành một bầu nhiều
ô. Bông có 4 lá đài, 20-30 cánh hoa, 30-50 nhụy. Nhụy bông súng màu vàng.
Thật ra, người ta chỉ xài phần thân, cọng súng màu nâu, nhưng vẫn gọi đó là
bông súng.
Bông súng muốn ăn phải tướt vỏ, xắt khúc, ngâm nước cho sạch. Bông súng dùng
trộn gỏi; Ăn sống với mắm kho; Nấu canh chua với cá đồng; Bóp muối cho héo,
ngâm giấm làm dưa.
BÔNG SEN:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy. vàng
Nhụy vàng, bông trắng , lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Hoa sen từ xưa đến giờ vẫn được xưng tụng là một loài hoa thanh khiết, được
dùng để dâng, cúng Phật . Hoa sen hữu hương, hữu sắc. Hoa sen trắng mang vẻ
tinh khiết. Hoa sen hồng có nét thắm tươi. Phù cừ là tên một loài sen nổi
tiếng. Nói về hoa sen thì không bút mực nào kể cho xiết. Từ chuyện ngài Ma
Ha Ca Diếp nhìn sen mà bừng nở tâm hoa, mỉm cười ngộ đạo trong câu chuyện
“Niêm hoa vi tiếu” của Phật giáo đến những cái diệu kỳ, tinh túy của hồn hoa
sen. Hoa sen là một loại thực vật đắc dụng vô kể , không bỏ xót thứ gì.
Trong địa hạt Đông y , mỗi bộ phận của cây sen có tính trị liệu khác nhau:
- Gương sen (liên phòng) , lá sen (hà diệp), vỏ ngoài hột sen: tánh mát, trị
tiêu chảy, cầm máu.
- Hột sen (liên nhục):
vị thuốc bổ tì, bổ thận.
- Nhụy sen (liê tu): thông thận, cầm máu,giữ tinh(liên tu bất tận).
- Tim sen (liên tử tâm/lõi xanh trong hột sen): an thần, trị huyết áp cao.
- Ngó sen (liên ngẫu): thanh nhiệt, dùng sống giải rượu, nấu chín giải độc
trong thức ăn đồ biển.
- Củ sen: chữa bệnh mất ngủ, hoạt tinh.
Trong phạm vi ẩm thực, cây sen được xử dụng từ: Gương sen phơi khô đem đun
thay củi; Lá sen gói cơm, xôi, quà bánh giữ được hương vị rất lâu; Lá sen
non nấu cháo trị chứng giữ nước, phù thủng…
Hột sen tươi hay khô được xỏ xâu dùng nấu chè , làm bánh, làm mứt, tiềm vịt,
tiềm gà,… Ngó sen làm gỏi. Củ sen làm mứt, luộc, chiên bột, hầm canh… cho
đến trà ướp hương sen. Hoa sen vị ngọt, hơi đắng, không độc, có tánh ấm,
giúp an thần, trị xuất huyết. Có một món ăn nấu từ hoa sen của nhà văn Tản
Đà, đã trở thành giai thoại: Vịt hấp hoa sen. Ông cho rằng tinh túy của sen
đọng lại ở hoa, nên dùng cánh hoa sen phủ kín vịt để hấp cách thủy. Vịt ở
đây là vịt tơ vừa, được làm sạch bằng rượu, khử mùi bằng gừng, ướp gia vị
cho thấm trước. Khi vịt chín, bao nhiêu hương hoa ngấm hết vào thịt. Ăn cả
thịt vịt mềm, không bị béo ngậy cùng hoa thơm, nọt. Đến hết vẫn còn “vương
vấn“ hương vị, cứ như là: ” Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng“ ( Nguyễn Du ),
còn theo ý thơ của Mạnh Giao: "Thiếp tâm ngẫu trung tị , tuy đoạn do khiên
liên" (Lòng thiếp tơ trong ngó sen, dù đứt còn vương hoa)
BÔNG SẦU ĐÂU:
Tên gọi sầu đâu dễ bị lầm lẫn với tên gọi là thầu đâu, là sầu đông của cây
xoan ta. Cây sầu đâu có nhiều ở vùng Thất sơn, An Giang, Châu Đốc, những
tỉnh giáp giới Campuchia. Cây sầu đâu thân gỗ, cao to,vỏ sần sùi ,chứ không
trơn láng như thân cây xoan ta. Lá xoan ta độc, không ăn được, còn lá non và
bông sầu đâu thì ăn được. Lá sầu đâu dùng làm thuốc sốt rét. Bông sầu đâu ra
hoa vào mùa xuân, màu trắng, mọc thành từng chùm như hoa nhãn, dùng làm gỏi.
Gỏi sầu đâu tương đối dễ làm: Rửa sạch bông và lá non, có thể trụng sơ qua
nước sôi. Nướng khô cá sặc rằn, khô cá lóc, xé nhỏ, bỏ vào. (Nếu không có
khô thì có thể thế bằng cá lóc nướng trui xé nhỏ). Trộn thêm rau thơm, hành
tây xắt mỏng, xoài băm sợi… Ăn với nước mắm me, đường, ớt. Gỏi sầu đâu có vị
đắng nhưng hậu ngọt dai.
"Thấm hoài vị đắng sầu đâu
Thương bông so đũa trắng đầu… má ơi !"
NTTN
BÔNG SO ĐŨA:
Cây so đũa hoặc mọc hoang, hoặc được trồng nhiều ở các vùng bờ quanh ruộng
của đồng bằng sông Cửu Long. Cây so đũa thon cao, thẳng, vỏ nham nhám, xù xì,
nứt nẻ. Trái so đũa nhỏ dài , hình dáng như chiếc đũa. Thân cây so đũa dùng
làm cột nhà, cấy nấm mèo. Lá là món hảo của dê. Bông so đũa mọc ở trên cao,
kết thành từng chùm , có 2 màu: trắng và tím. Bông so đũa có vị nhân nhẫn
đắng, nhưng ngọt hậu. Đầu tháng 10 âm lịch trở đi , cây so đũa đồng loạt ra
hoa, cùng lúc với mùa cá linh để có món ăn nức tiếng là cá linh nấu canh
chua bông so đũa. (Cá linh thường được dùng làm mắm để dành; Chế biến nhiều
món như kho mặn, kho mẳn lót mía, kho mắm với cà tím, kẹp vỉ nướng, chiên
giòn, nấu canh chua với bạc hà… ). Bông so đũa lặt cuống, rửa sạch. Nấu nước
sôi,dầm me, thả cá linh, nêm vừa miệng, hớt bọt, cho bông so đũa vào là nhấc
xuống liền , để bông còn giòn mới ngon. Trên mặt bỏ ngò gai, rau om xắt nhỏ,
thêm một chút tỏi phi, vài lát ớt tươi. Không có cá linh, người ta nấu canh
chua so đũa với tôm, tép. Bông so đũa còn dùng luộc, xào, đặc biệt là món cá
lóc bọc bằng bông so đũa hấp, chấm nước mắm đồng dầm ớt.
HOA THIÊN LÝ:
Cây thiên lý là một loại dây leo, dài hàng mét, thân non có lông, lá mọc đối.
Hoa mọc thành chùm màu vàng chanh hay trắng ngà. Ban đêm hoa tỏa hương thơm
ngát, nên còn được gọi là Dạ lai hương:
"Đêm thơm như một dòng sữa
Lũ chúng em êm đềm rủ nhau ra trước nhà
Hiu hiu hương tự ngàn xa, bỗng quay về
Dạt dào trên hè, ngoài trời khuya
… Nhờ đêm đưa lối những ai làm ngát hương đời
Nhẹ bàn chân, hương đêm ơi ! (Phạm Duy)
Lá và hoa thiên lý được thu hái vào mùa hè, dùng tươi. Rễ thu hái vào mùa
thu, phơi hay sấy khô. Lá có tác dụng chửa bịnhtrĩ, trị giun kim. Rễ chửa
tiểu buốt hay ra máu. Hoa thiên lý giống như cái chuông gió nhỏ, lấp ló
trong những tán lá xanh mướt. Ngoài chức năng làm đẹp:
"Tóc em dài em cài hoa thiên lý
Miệng em cười hữu ý anh thương"
Cộng mùi hương thoang thoảng, hoa thiên lý còn có vị ngon ngọt, tánh mát,
được người nông dân miền Bắc coi như một loại rau có sẵn trong nhà. Hoa
thiên lý đi vào ca dao qua câu:
"Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh thiên lý, nấu chè hạt sen"
Canh thiên lý mang hương vị đặc trưng của mùa hè. Nấu canh thiên lý không
phức tạp. Chọn những chùm hoa mới nở, ngâm nước cho hết kiến, chùm hoa to
thì tách làm 2, 3 nhánh nhỏ. Ở thành phố thì nấu hoa thiên lý với thịt heo
bằm, giò sống. Nhưng kết hợp độc đáo của hoa thiên lý là cua đồng giã nhỏ là
canh có hương vị đậm đà ngay. Hoa thiên lý xào với thịt bò, có ướp chút gừng
và nước tương cho thấm. Ngày nay, người ta dùng hoa thiên lý như một loại
rau sống, nhúng với lẩu các loại:
Người ấy dạo xưa vẫn hay sang
Xin mẹ từng chùm thiên lý hoa vàng
Về nấu nồi canh hoa thiên lý
Tưởng bắc đò sang nối họ hàng
Bướm đậu vô tình, bướm lại bay
Để giàn cây mướt nở hoa đầy…
Chiều nay ngắt từng chùm thiên lý
Cánh mỏng manh, nhụy trắng, hoa vàng.
Chiều nay nấu nồi canh thiên lý
Giải nỗi sầu trong lòng nặng mang.
LH
Nhiều dân tộc khác cũng có các món ăn chế biến từ các loài hoa như: người
Nhật ăn hoa cúc đồng, người Pháp nấu thức ăn với choux-fleur, artichaut ,
người Hy Lạp dùng bông bí để chiên, dân Nam Mỹ có hoa của cây yucca dùng làm
salad , xào.
Cụ Tiên Điền Nguyễn Du có câu:
”Chơi hoa dễ có mấy người biết hoa“. Ý cụ dùng là ám chỉ về sự thưởng ngoạn,
chiêm ngưỡng hương sắc của đất trời ban tặng cho con người qua biểu tượng là
muông hoa mỹ mieều trong không gianm chúng ta. Còn kiểu nếm hoa để thưởng
hoa trong phạm vi bài sưu tầm này, thì người viết được văn hữu TTSH phang
ngay cho tước hiệu là: “Huê học giả“ khi đọc bản thảo. Phân tích từng chữ
thì thật là “khổ“ lắm thay !!! Bần bút xin miễn nhận phong vị cao sang này
vậy. May sao nhà văn lão thành Võ Phiến trong bài “Ăn và đọc” đã phần nào "cứu
bồ" cho người viết đỡ đặng chút đỉnh ý tưởng văn chương qua một đoạn văn như
thế này: ”Nhưng văn chương nghệ thuật không khác cái ăn là mấy. Ca dao, dân
ca là sản phẩm của một địa phương, và thưởng thức đến tận cùng cái hay ho
của nó hình như cũng chỉ có thể là người địa phương… Như vậy, người ta không
chỉ ăn bằng mồm. Con người đã ăn cả gốc gác quê hương, bằng phong tục tập
quán của mình, bằng khí chất riêng biệt của cơ thể mình, cũng như bằng lịch
sự, trình độ văn hóa của xứ sở mình. Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh khí
hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa phương… Và giả sử nói
có cả phản ảnh của một phần nào những đặc điểm tâm hồn trong đó có quá chăng
?". Sau cùng, người viết muốn mượn ý tưởng của cụ Võ Phiến kết thúc bài biên
khảo về hoa tại đây.
Xuân Phương
Bài Đọc Thêm
Chúng ta nên loại bỏ các định kiến lâu đời về những loại rau mùi,
nào là ớt gây loét dạ dày, gừng làm tăng dục...
Cây
đinh hương (girofle) hiệu nghiệm hơn thuốc Aspirine trong việc làm loãng
máu? Đúng. Bác sĩ Krishna Srivasta ở Đại học Odense (Đan
Mạch) đã chứng minh rằng có 3 loại gia vị kháng lại hữu hiệu sự đông
kết tiểu cầu, đó là thìa là, gừng và đinh hương. Thậm chí đinh hương còn
hơn hẳn thuốc Aspirine. Đinh hương có trong thành phần của món masala,
món cơ bản của Ấn Độ, mà qua nhiều thử nghiệm trên động vật đã cho thấy
nó có khả năng ngừa ung thư.
Đinh hương (Eugenia aromatica) có hoạt chất là eugénol,
acid gallotanic, caryophylline.
Cây xạ hương (thym) ức chế được trực khuẩn lao ? Đúng.
Giáo sư Hubert Richard giảng dạy về khoa học gia chánh tại Trường Cao
đẳng Quốc gia Massy đã khẳng định điều đó. Xạ hương có đuợc đặc tính đó
là nhờ lượng thymol và carvacrol cao, 2 chất kháng nấm và vi khuẩn.
Chúng tiêu diệt các ký sinh đường ruột và lăng quăng muỗi. Nếu nấu nước
uống, xạ hương có thể ngừa cảm cúm và viêm phế quản.
Xạ hương (Thymus vulgaris) có hoạt chất là thymol,
carvacrol, terpénoid, flavonoid, saponine.
Cây cam cúc (camomille) có thể thay thế cho cortisone ? Sai.
Nhưng những chất trích từ cam cúc dùng để thoa tại chỗ đã tỏ ra hiệu quả
như các loại kem cortisone điều trị bệnh chàm. Người Đức dùng rất nhiều
cam cúc thoa ngoài da để trị tất cả các loại viêm nhiễm, và uống để trị
loét. Khả năng kháng viêm của cam cúc đã được đánh giá qua nhiều cuộc
thử nghiệm : dường như nhờ một terpénoid là hélénaline. Cây cam cúc rất
phổ biến tại Đức, đến mức nó có một tĩnh từ là “alles zutraut” (có mọi
khả năng). Nhiều thí nghiệm khoa học đã xác nhận đặc tính đó. Cam cúc có
thể ức chế nấm Candida albicans và một vài loại vi khuẩn
(Staphylococcus), ngăn chặn sự phát triển của virus bại liệt, kích thích
sự sản sinh các đại thực bào và lymphô bào B.
Cam cúc (Matricaria recutita) có hoạt chất là
hélénaline, acid anthémic, anthestérol, apigénine, chamazulène.
Cây hương thảo (romarin) và rau é (basilic) có đặc tính
kháng ung thư ? Đúng. Các đặc tính kháng khuẩn và diệt nấm của loài
hương thảo này đã được biết đến từ lâu. Nó cũng kích thích sự tiêu hóa :
acid carnosic tác động lên các cơ trơn của bộ máy tiêu hóa. Ngoài ra
hương thảo còn cải thiện sự tuần hoàn và củng cố các mạch máu nhờ những
chất flavonoid như diosmine. Điều mà người ta ít biết đến là hương thảo
có thể ức chế các gène gây ung thư. Hiện thời đó chỉ là những thử nghiệm
trong phòng thí nghiệm. Trong hội nghị về ung thư học tại Philadelphia
gần đây, bác sĩ Michael Sporn đã đưa những chất terpénoid lên hàng đầu
trong số các chất kháng ung thư thiên nhiên (cùng với những dẫn xuất của
2 vitamin A và D). Người ta đã biết được 7.000 loại terpène, chẳng hạn
như limonène của cam quít, glycyrrhézine của cam thảo, myrcène của hốt
bố, menthol của bạ hà, carvacrol của cây xạ hương. Cũng như những
stéroid, các terpénoid có khả năng kích thích tế bào biệt hóa, một cơ
chế kháng lại việc sinh ung thư. Những loại rau mùi chứa rất nhiều
terpénoid. Bác sĩ Sporn đã chứng minh rằng cây hương thảo có thể ức chế
một vài dạng ung thư da.
Hương thảo (Rosmarinus officinalis) có hoạt chất là
terpénoid, flavonoid, acid phénolic, quinone.
Rau é (Ocimum basilicum) có hoạt chất là estragol,
eugénol, linéol, linalol.
Ớt làm nặng thêm chứng loét dạ dày ? Sai. Chẳng
những không có chống chỉ định đối với những bệnh nhân loét dạ dày mà nó
còn có tính chất làm dịu mọi chứng đau và viêm. Ớt có chứa chất
capsaicine kích thích sự sản sinh chất P mà nhiệm vụ là chuyển truyền
những tín hiệu đau lên hệ thần kinh. Chất capsaicine làm cạn kiệt nhanh
chóng lượng dự trữ chất P trong tế bào, do đó sẽ làm tê liệt hệ thần
kinh. Nhiều loại kem có chất capsaicine đã được sử dụng để chống lại
bệnh khớp và các cơn đau do lên sẹo.
Ớt (Capsicum frutescens) có hoạt chất là capsaicine,
apsaicine, capsacutine, capsanthine, caroténoid.
Rau thìa là bẹ (fenouil) làm giảm các rối loạn trong thời kỳ
mãn kinh ? Đúng. Thìa là bẹ rất giàu phytoestrogène, môt loại hợp
chất mô phỏng hoạt động hormone bằng cách chiếm các thụ thể của những
oestrogène thiên nhiên. Khi việc sản sinh hormone giảm sút, chẳng hạn
như trong thời kỳ mãn kinh, sự tiêu thụ những thực phẩm giàu
phytoestrogène giúp giảm thiểu các bất lợi trong thời kỳ này. Nhiều loại
thực vật, chẳng hạn như đậu nành, bạch chỉ và cần tây cũng có chứa các
phytoestrogène. Ngoài ra thìa là bẹ còn được dùng trong y học cổ truyền
để tạo nhiều sữa nơi các bà mẹ mới sinh.
Thìa là bẹ (Foeniculum vulgare) có hoạt chất là
phytoestrogène, anéthole, fenchone, estragole, limonène, acid oléic,
flavonoid, coumarine.
Gừng tăng khả năng tình dục ? Sai. Chẳng có gì chứng
minh điều đó. Gừng là vị thuốc chống buổn nôn rất tốt. Trong một nghiên
cứu mới đây, các viên thuốc gừng đã tỏ ra hơn hẳn những thuốc khác trong
việc chống lại các cơn buồn nôn sau khi gây mê. Viện Ung thư Quốc gia Mỹ
đang nghiên cứu về khả năng kháng ung thư của gừng.
Gừng (Zingiber officinalis) có hoạt chất là zingeribone,
bisabolène, camphrène, géranial, linalool, bornéol, cinéole, oléorésine.
MINH
LUÂN
|