Miếng ngon Hà Nội qua con mắt Vũ
Bằng
Vũ Bằng là
nhà văn cách mạng, người Hà
Nội gốc, nên ông rất sành
các món ăn Hà Nội. Mỗi khi
nghĩ về ông lại nhớ đến món
ăn Hà Nội, hoặc khi thưởng
thức món ăn Hà Nội ta lại
nhớ đến ông.
Hai mươi
năm cuối đời ông sống và
viết ở Sài G̣n, nhưng lại
viết toàn chuyện Hà Nội. Có
lẽ do những năm tháng tha
hương ấy, nỗi nhớ quê da
diết đă đưa ng̣i bút của ông
đến với từng hương vị của kỷ
niệm Hà Nội, của đất Bắc Kỳ
trong các tác phẩm nổi tiếng
Thương nhớ mười hai,
Miếng ngon Hà Nội...
Bún bán rong ở Hà
Nội - Ảnh minh họa:
xomnhiepanh.com
Ông viết về
Miếng ngon Hà Nội
là viết về chính đời ḿnh:
“Miếng ngon Hà Nội, v́ thế,
nhiều khi làm cho ta yêu Hà
Nội thấm thía, nhớ Hà Nội
nao ḷng, làm cho ta cảm
giác ta là người Hà Nội hơn...
Những miếng ngon mà người
Việt Nam ăn vào thấy ngát
mùi đất nước, thấy ḿnh Việt
Nam hơn...”.
Mỗi món ăn
là một thiên bút kư, 15 món
trong sách “Miếng ngon Hà
Nội” được nhà văn mô tả chăm
chút, kỹ lưỡng, đều là các
món “quốc hồn, quốc túy” mà
bao thế hệ người Hà Nội đều
mê, đều thèm: đầu bảng là
phở ḅ, rồi phở gà, bánh
cuốn, bánh đúc, bánh khoái,
bánh Xuân Cầu, cốm Ṿng,
rươi, ngô rang, khoai lùi,
gỏi, quà bún, chả cá, thịt
cầy, tiết canh cháo ḷng,
hẩu lốn! Tất cả đă làm nên
diện mạo ẩm thực Hà Nội, làm
nên hương vị cuộc sống
truyền đời.
Đọc Vũ Bằng
quan sát từ xa quán phở ḅ
Hà Nội đă nghe nức ḷng:
“Ngay từ đằng xa, mùi phở
cũng đă có một sức huyền bí,
quyến rũ ta như mây khói
chùa Hương, đẩy bước chân ta,
thúc bách ta...
Qua làn cửa
kính đă thấy ǵ? Một bó hành
hoa xanh như lá mạ, dăm quả
ớt đỏ buộc vào một cái dây,
vài miếng thịt ḅ tươi và
mềm: chín có, tái có, sụn
có, mỡ gàu có, vè cũng có...
Người bán
hàng thỉnh thoảng lại mở nắp
cái thùng sắt ra để lấy nước
dùng chan vào bát. Một làn
khói tỏa ra khắp gian hàng,
bao phủ những người ngồi ăn
ở chung quanh trong một làn
sương mỏng, mơ hồ như một
bức tranh tàu vẽ những ông
tiên ngồi đánh cờ trong rừng
mùa thu... Trông mà thèm
quá!”.
Ông nhớ
từng hiệu phở, tên phở. Vào
những năm 50 thế kỷ trước, ở
Hà Nội, nổi tiếng có anh phở
Sứt lập ra món phở gị (lấy
thịt ḅ cuộn lại như cái dăm
bông, như gị, luộc chín,
rồi thái mỏng từng khoanh
điểm vào với thịt tái), bây
giờ gọi là nạm.
Phở nhà
thương Phủ Doăn ăn được
nhưng nước hơi nhạt; phở
Đông Mỹ phố mới ăn mềm nhưng
gừng tẩy hơi quá tay; phở
Cống Vọng kéo xe ngon, nhưng
nước dùng hơi hôi; phở Mũ Đ̣
đằng sau miếu chợ Hôm...
Rồi phở Tàu
Bay, sáng sáng người ăn đứng
đầy ra cả ngă ba đầu phố Hàm
Long, rồi phở Tứ, phở Tráng
(trước cửa trường Hàng Than)
được mệnh danh là “vua phở
1952”.v.v.. Ôi, chỉ kể tên
các quán phở thôi cũng biết
người này sành ăn lắm, nhớ
phở, thèm phở lắm lắm!
Về cốm
Ṿng, Vũ Bằng viết: “Cốm
Ṿng là thứ quà đặc biệt
nhất trong mọi thứ quà Hà
Nội - đặc biệt v́ mỗi khi
thấy gió vàng hiu hắt trở về
th́ lại nhớ đến cốm...” .
Mùa thu Hà
Nội là mùa cưới. Ngày xưa,
nhà trai mua cốm, mua hồng
mang sang nhà gái, gọi là
“đi sêu”: “... Nghĩ lại cái
đẹp năo nùng của cốm Ṿng
xanh màu lưu ly để ở bên
cạnh những trái hồng trứng
thắm mọng như son Tàu, tôi
thích nhớ lại một buổi chiều
thu đă xa lắm lắm rồi, có
một nhà nọ đưa hồng và cốm
sang sêu một người em gái
tôi...”
Người ta
hay ăn cốm Ṿng với chuối
tiêu trứng cuốc... Nhưng nhà
văn th́ cho rằng, ăn như vậy
là ăn chơi bời. “Muốn thưởng
thức được hết hương vị của
cốm phải ăn cốm không, và
chỉ ăn cốm không thôi...
nhai nhỏ nhẹ, từng hạt, từng
hạt...”.
Rươi mỗi
năm chỉ có mấy ngày. “Tháng
9 đôi mươi, tháng 10 mùng 5”
mới có. Vũ Bằng cho rằng,
“đến mùa mà không được ăn
bữa rươi th́ như là một
người đàn bà đẹp đă để phí
mất tuổi hoa, sau này sẽ
nặng một niềm tiếc nhớ”.
Món rươi
xào với niễng thái chỉ (nếu
không có niễng th́ dùng măng
tươi hay củ cải) hay chả
rươi, rươi hấp, rươi rang,
mắm rươi... đều ngon, đều lạ,
nhớ đời.
Thưởng thức
món cầy tơ Hà Nội bây giờ
người ta hay lên Nhật Tân. Ở
thời Vũ Bằng viết “Miếng
ngon Hà Nội”, thịt cầy cũng
luôn được các văn nhân thi
sĩ ưa chuộng.
Sống ở trên
đời ăn miếng dồi chó, chết
xuống âm phủ biết có hay
không! Vũ Bằng viết: “Có một
hôm trời lạnh bàng bạc màu
ch́, đứng tựa vào một hàng
rào râm bụt xanh, hoa đỏ, ta
gọi một hàng thịt chó gánh
đi qua, mua một đĩa chả vào
trong nhà nhấm rượu, cái
ngon cũng đă “lẫm liệt” lắm
rồi!”.
Hay “Lắm
lúc ngồi nhấp chén rượu tăm
cất ở Tây Hồ, thưởng thức
một ḿnh một đĩa tái chấm
muối tiêu, chanh, ớt, tôi
vẫn thường nghĩ h́nh như
trời sinh ra thịt chó là để
ăn riêng ở Bắc Việt, chứ
không phải bất cứ ở đâu đâu.
Tháng Tám trời... nặng những
mây mù, đ́u hiu một ngọn gió
hanh hao, lành lạnh, gợi
nhiều niềm tưởng nhớ xa xưa...
Ḷng ḿnh
không buồn năo ruột, nhưng
sầu nhè nhẹ và ḿnh ưa cái
sầu đó, bởi v́ nó không hai
người mà lại nên thơ. Chính
trong tâm trạng đó mà thưởng
thức một bữa thịt chó th́
không c̣n ǵ hợp lư, hợp
t́nh, hợp cảnh hơn...”.
Ăn cho
khoái khẩu, cho đă cơn thèm,
cũng gọi là đă biết ăn rồi.
Ăn mà nhấm nháp rồi mô tả tỉ
mỉ cách làm, cách ăn, cảnh
để ăn, mùa để ăn, và cao hơn,
ăn để yêu, ăn để thương để
nhớ... đó đích thực mới là
Tiên Ẩm!
Tôi đọc
“Miếng ngon Hà Nội” từng câu,
từng đoạn chậm răi nhâm nhi
như được thưởng thức những
bữa cỗ Hà Nội đích thực dưới
bàn tay đạo diễn của Cội
nguồn văn hóa cha ông...
“Miếng ngon Hà Nội” cũng như
Hồ Gươm, Tháp Rùa, như phố
cổ Hà Nội... ai đi đâu cũng
nhớ, tiết trở lại thèm, thế
đấy...!
Ngô Minh
Vũ Bằng:
Phở ḅ – món quà căn bản
Sao lại là quà căn bản?
Vâng, chính thế; người ta có thể nói
rằng người Việt Nam có thể không ăn bánh bao, bánh bẻ, có thể không ăn
mằn thắn hay ḿ, có thể không ăn xôi lúa, nhưng chắc chắn là ai cũng đă
từng ăn phở.
Rẻ lắm. Theo giá trị của đồng bạc
bây giờ năm đồng một bát phở, mà ba đồng cũng được một bát phở ngon như
thường.
V́ thế, từ cô bán hàng trong một cửa
hiệu buôn cho đến một ông công chức, từ một bà mệnh phụ nhà có cửa vơng
sơn son thiếp vàng, đến một người thợ vắt mũi không đủ nuôi miệng, ai
cũng ăn bát phở. Ngon miệng th́ ăn hai, riêng tôi th́ tôi đă từng thấy
có người điểm tâm buổi sáng tới ba bát liền, mỗi bát tám đồng, vị chi
hai mươi bốn, hai mươi nhăm đồng bạc.
Thật thế, phở đối với một hạng người,
không c̣n là một món ăn nữa, mà là một thứ nghiện như nghiện thuốc lào,
thuốc lá, trà tươi, thuốc phiện.
Ngay từ ở đằng xa, mùi phở cũng đă
có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa Hương đẩy bước chân ta,
thúc bách ta phải trèo lên đỉnh núi để vào chùa trong rồi lại ra chùa
ngoài. Ta tiến lại gần một cửa hàng bán phở, thật là cả một bài trí nên
thơ. Qua lần cửa kính ta đă thấy ǵ? Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dăm
quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt ḅ tươi và mềm, chín có,
tái có, sụn có, mỡ gầu có, vè cũng có… Người bán hàng đứng thái bánh,
thái thịt luôn tay, thỉnh thoảng lại mở nắp một cái thùng sắt ra để lấy
nước dùng chan vào bát. Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ
những người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như
một bức tranh Tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.
Trông mà thèm quá! Nhất là về mùa
rét, có gió bấc thổi hiu hiu, mà thấy người ta ăn phở như thế, th́ chính
ḿnh đứng ở ngoài cũng thấy ấm áp ngon lành. Có ai lại đừng vào ăn cho
được…
Ấy vậy mà người sành ăn phở, người
ăn phở kỹ càng không thể dễ tính, nhất tề bước vào một cửa hiệu phở thứ
nhất nào để mà ăn liều ăn lĩnh.
Bởi v́ những người sành ăn đó,
thường không tin ǵ cho lắm ở những hàng phở mở cửa hàng. Người ta bảo
rằng phần nhiều những hàng phở mở hiệu như thế, nước dùng không được
ngọt, hoặc có ngọt là cái ngọt của ḿ chính, chứ không phải là cái ngọt
của xương ḅ, ấy là chưa nói rằng lại c̣n cửa hiệu phở quá vụng về muốn
có nước dùng ngọt lại cho đường vào nữa. Ăn phải một bát phở như thế,
không những tiếc tiền, mà lại c̣n thấy phí phạm cả cái công ăn, đến sinh
ra lợm giọng, bực ḿnh là khác.
V́ thế, người ăn phở muốn cho thật
đúng cung cách, phải thăm ḍ, phải điều tra, phải thí nghiệm kỹ càng rồi
mới ăn mà một khi đă chịu giọng rồi, ta có thể tin chắc rằng người đó sẽ
là một người khách trung thành, cũng như một người đàn ông nghệ sĩ trung
thành với hơi hướng của một người yêu, cũng như một người chồng mê vợ v́
người vợ đă có tài làm một hai món khéo, ăn vào hợp giọng.
* * *
Chính v́ lẽ đó, chúng ta đă từng
thấy có những người vất vả v́ ăn phở. Trước kia, c̣n thái b́nh, ta đă
từng thấy có buổi sáng, hàng trăm người chen chúc khổ sở vào cái ngơ con
bề ngang không quá một thước ở phố Hàng Khay, bên cạnh nhà Bát Si Nha
hay xuống tận đằng sau chợ Hôm, trong một cái quán lá tồi tàn để thưởng
thức cho kỳ được một hay hai bát phở mới yên tâm.
Thời đó, nổi tiếng có anh phở Sứt
sáng lập ra món phở gị (lấy thịt ḅ quận lại như cái dăm bông rồi thái
mỏng từng khoanh nhỏ điểm vào với thịt). Phở Nhà thương Phủ Doăn ăn được
nhưng nước hơi nhạt; phở Đông Mỹ ở phố Mới ăn êm, nhưng tẩy gừng hơi quá
tay; phở Cống Vọng, kéo xe, ngon, nhưng nước dùng hơi hôi; phở Mũ Đỏ ở
đằng sau miếu chợ Hôm vô thưởng vô phạt, ăn khá, nhưng chưa có ǵ quyến
rũ.
C̣n một anh phở nữa là anh phở Tàu
Bay lúc đó cũng nổi tiếng lắm; sáng sáng, người ta đứng đầy cả ra ở ngă
ba đầu Hàm Long, xế cửa Sở Hưu bổng để mà tranh nhau ăn, như thể lúc mới
hồi cư, người ta tranh nhau đứng lĩnh “bông” sữa, bông vải vậy. Thịt
mềm, nước cũng đă ngọt, nhưng thật ra th́ chưa có thể gọi là trác tuyệt.
Phải đợi đến lúc hồi cư về, ta mới
thấy, phong trào phở tiến nhanh và tiến mạnh như thế nào. Họa hoằn về
phía chợ Đuổi mới thấy một hai hàng phở xe. C̣n th́ là phở gánh và phở
hiệu.
Một gian nhà đổ căng một cái bạt,
bắc vài cái ghế; một cổng đ́nh chắn một tấm phên tre; một cái ngơ, che
mấy tấm tôn và kê một hai tấm ghế dài: thế là đă thành ra một cửa hàng
rồi, ngồi ăn được, mà rất có thể lại ngon lành là khác.
Bởi v́ ta phải biết rằng, người đi
ăn phở – nói cho thật đúng nghĩa chữ ăn phở – không kỳ quản lắm đến sự
bài trí của chỗ ăn, cũng như người ăn thuốc phiện, nghiện tiệm, không cứ
là phải nằm hút ở một chỗ sang trọng có dọc đẹp, đèn pha lê và tiêm móc
làm bằng bạc.
Nếu ta đă từng thấy có những người
giàu có, nghiện thuốc phiện, chui vào những cầu gác bẩn thỉu, hôi hám để
ăn thuốc mới thấy “đă thèm”. Th́ ta lại cũng thấy biết bao nhiêu người
sang trọng lần ṃ tới chỗ rất tồi tàn để ăn cho được một hai bát phở.
Đó là do người ăn phở sành, hầu hết,
chỉ chủ tâm đến cái điểm chính là phở mà thôi, chứ không quan tâm đến
ngoại cảnh làm ǵ. Điều cần thiết là bánh phải mỏng và dẻo, thịt mềm, và
nhất là nước dùng phải ngọt, ngọt kiểu chân thật, nghĩa là ngọt v́ nhiều
xương, tẩy vừa vặn không nồng, mà lại tra vừa mắm muối, không mặn quá mà
không nhạt quá.
Đạt được mấy điểm đó tức là ăn phở
được đấy.
Vào khoảng 1948-1949, phở Phú Xuân ở
phố Rixô ăn được; đồng thời có phở Đông Mỹ, phở Tứ. Phở Tứ, phở Tàu Bay
(bây giờ đă dọn thành cửa hiệu) và một ít hàng nữa mà ta không kể hết.
Nhưng phở nào h́nh như cũng chỉ có một thời. V́ thế, nhiều hiệu và nhiều
gánh phở có tiếng bây giờ nằm ngủ ở trên danh vọng. Người ta nghiệm thấy
điều này: phần nhiều hàng phở lúc c̣n gánh th́ ngon, mà dọn thành cửa
hàng rồi th́ kém.
Có phải đó là v́ chểnh mảng trong sự
cố gắng, hay là v́ thành kiến của người ăn?
Duy ta có thể chắc được điểm này là
một hàng phở đương làm ngon mà sút kém đi th́ chỉ trong một tuần lễ, nửa
tháng, cả Hà Nội đều biết rơ; trái lại, mới có một hàng phở nào làm ăn
được th́ cũng chỉ dăm bữa, mươi ngày là cả Hà Nội cùng đổ xô ngay đến để
mà “nếm thử”, không cần phải quảng cáo lên nhật báo lấy một ḍng!
Âu đó cũng là một điểm đặc biệt
trong thương trường vậy.
Nhiều người cho rằng sở dĩ thế ấy là
v́ món phở đứng cao hơn mọi sự lừa bịp của thời này: phở ngon là ngon,
chứ không thể lừa dối người ta được.
Mà lừa dối làm sao?
Một người lầm, nhưng không thể một
ngh́n người lầm được. Người ta ăn phở có phải là tiêu hóa rồi mà thôi
đâu? Không.
Cũng như đọc một áng văn hay, gấp
sách lại mà c̣n dư âm phảng phất, c̣n suy nghĩ, c̣n trầm mặc, người ta
ăn phở xong cũng đắn đo ngẫm nghĩ, rồi có khi đem thảo luận với anh em,
nhất là các công chức và các tay thương gia rỗi th́ giờ th́ lại luận bàn
kỹ lắm.
Th́ ra phở không những là một món
ăn, một sự thích thú cho khứu giác, mà c̣n là cả một vấn đề; vấn đề ăn
phở, vấn đề làm phở.
Muốn thấu triệt hai phương diện của
vấn đề, chúng ta cần phải bỏ mấy tiếng đồng hồ lên trước cửa trường Hàng
Than để quan sát một hàng phở nổi danh nhất bấy giờ: phở Tráng – mà có
người yêu mến quá mức đă gọi (chẳng biết đùa hay thực?) là “vua phở
1952″.
Tráng là tên ông “vua phở” này.
Nhưng người ta không gọi anh bằng tên, cũng như người ta ít khi gọi
những hàng phở ngon bằng tên của người bán, mà gọi bằng tên phố người
hàng phở đứng bán (như phở Tráng th́ gọi là phở Hàng Than, phở Sứt th́
gọi là phở Hàng Khay), hoặc gọi bằng sướt hiệu (như phở Lùn, phở Cụt,
phở Mũ Đỏ) hoặc gọi bằng đặc điểm nào đó của cái cửa hàng (phở xe đầu
Hàng Cá), hoặc gọi bằng tên tự (như phở Đông Mỹ, phở Tân Tân, Phú Xuân)
và có khi lại gọi bằng một phù hiệu (như phở Tàu Bay, Tàu Ḅ)…
Vậy th́ ông vua ấy tên là Tráng,
nhưng người ta vẫn gọi là phở Hàng Than.
H́nh thù, vóc dáng của anh ta trông
thật nản. Người gầy, môi hơi thưỡi, mắt th́ lờ đờ như người chết rồi.
Bất cứ lúc nào, nh́n thấy anh, ông cũng cảm giác đó là một người vừa mới
thăng đồng, đương sống trong một cái thế giới u minh; thêm vào đó, lại
bịt ở trên đầu một cái mùi soa trắng, trông mới lại càng… “thiểu số”.
Người đâu mà lại “lỳ x́” đến thế là
cùng! Hàng năm bảy chục người, hàng tám chín chục người đứng ṿng lấy
gánh hàng của anh ta, chật cả một cái hè đường để mua ăn, để “đ̣i ăn” –
phải, họ đ̣i ăn thật – mà anh ta cứ làm như thể không trông thấy ǵ,
không nghe thấy ǵ.
Anh ta cứ thản nhiên, thái thịt, dốc
nước mắm, rưới nước dùng – ai đợi lâu, mặc; ai phát bẳn lên; mặc; mà ai
chửi, anh ta cũng mặc.
Đi ôtô đến ăn cũng thế, mặc áo vải
đến ăn cũng thế; các bà các cô đẹp đáo để, đến ăn cũng thế. Anh ta không
đặc biệt riêng với ai – kể cũng dân chủ đấy! – nhưng có nhiều bà tức v́
anh ta không nịnh đầm.
Ghét quá. Thế th́ thuê một cái nhà
rộng, mượn thêm người làm có phải lợi không? Hay là điều đ́nh với xưởng
củi người ta để cho một gian, bày mấy cái bàn, cái ghế, có người trông
nom, tính tiền cẩn thận có phải không mất mát không?
Mặc cho ông cứ nói, anh phở Tráng
không trả lời – nhất là không bao giờ cười.
Trông mà lộn ruột, muốn tát cho một
cái. Chết một nỗi ghét người th́ thế, nhưng đến cái phở của anh ta muốn
ghét, không tài nào ghét được.
Có ai chen chúc vất vả, ḥ hét đứt
hơi được một bát phở của anh, mà lại chưa ăn ngay, c̣n dừng lại một phút
để ngắm nghía, phân tách bát phở đó ra thế nào không?
Thật là kỳ lạ! Bánh phở không trắng
và dẻo hơn, thịt th́ cũng chẳng nhiều, nhưng mà làm sao ngon lạ, ngon
lùng đến thế? Chưa ăn đă biết là ngon rồi.
Cứ nh́n bát phở không thôi, cũng
thú. Một nhúm bánh phở; một ít hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm
xanh biêng biếc; mấy nhát gừng màu vàng thái mướt như tơ; mấy miếng ớt
mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu… ba bốn thứ màu sắc đó
cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể của một họa sĩ trong
phái văn nghệ tiền tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà
đẹp mắt.
Trên tất cả mấy thứ đó, người bán
hàng bây giờ mới thái thịt ḅ từng miếng bày lên.
Đến đây th́ Tráng vẫn không nói năng
ǵ, nhưng tỏ ra biết chiều ư khách hàng một cách đáng yêu.
Ông muốn xơi chỗ thịt nào cũng có:
vè, sụn nạm, mỡ gầu, mỡ lật, vừa mỡ vừa nạc, vừa nạm vừa sụn, thứ ǵ anh
ta cũng chọn cho kỳ được vừa ư ông – miễn là ông đến xơi phở đừng muộn
quá.
Ăn phở chín th́ như thế là xong, chỉ
c̣n phải lấy nước dùng và rắc một chút hạt tiêu, hay vắt mấy giọt chanh
(nếu không là tí dấm).
Nếu ông lại thích vừa tái vừa chín
th́ trước khi rưới nước dùng, anh Tráng vốc một ít thịt tái đă thái sẵn
để ở trong một cái bát ôtô, bày lên trên cùng rồi mới rưới nước dùng
sau.
Thế là “bài thơ phở” viết xong rồi
đấy, mời ông cầm đũa. Húp một tí nước thôi, đừng nhiều nhé! Ông đă thấy
tỉnh người rồi phải không?
Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng
rẫy lên, nhưng ăn phở có như thế mới ngon. Thịt th́ mềm, bánh th́ dẻo,
thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu,
cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành
hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm d́u dịu cái thơm của thịt
ḅ tươi và mềm… rồi th́ ḥa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng ngọt
cứ lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành thực,
thiên nhiên, không có chất ǵ là hóa học… không, ông phải thú nhận với
tôi đi: “Có phải ăn một bát phở như thế th́ khoan khoái quá, phải
không?”
Quả vậy, ăn một bát phở như thế,
phải nói rằng có thể “lâm li” hơn là nghe thấy một câu nói hữu t́nh của
người yêu, ăn một bát phở như thế, thú có thể ví như sau một thời gian
xa cách, được ngă vào trong ṿng tay một người vợ đẹp mà lại đa t́nh
vậy!
Y hẳn cũng có người cảm giác như
tôi, cho nên biết bao nhiêu bận đứng chờ làm phở, tôi đă thấy những
người đàn bà, đàn ông, người già, trẻ con, bưng lấy bát phở mà đôi mắt
sáng ngời lên. Người ta chờ lâu th́ bực thật đấy, nhưng cũng vẫn cứ chờ
cho được, tuồng như đă đến mà không được ăn th́ chính ḿnh lại phải tội
với ḿnh, v́ đă đánh lừa thần khẩu – hay nói một cách khác, đến đấy mà
không cố ăn cho kỳ được th́ rồi sẽ hối hận như một người t́nh đă để lỡ
cơ hội chiếm người yêu…
Nhưng mà dù thiết tha đến bực nào,
ông cũng rất có thể một hôm nào đó bị ra về mà không được ăn – dù một
bát thôi. Ấy là v́ chỉ độ chín giờ, chín rưỡi th́ thường là phở Hàng
Than đă hết.
Cho nên những người thật nghiện phở
thường vẫn rủ nhau đi ăn thật sớm. Theo lời họ nói lại, muốn thưởng thức
hoàn toàn hương vị phở Hàng Than, cần phải dậy đi ăn từ sáu giờ, vào lúc
trời chưa sáng hẳn. Lúc đó, trời mờ mờ chưa rơ mặt người, phố xá họa
hoằn mới có dăm ba người qua lại. Anh đi ăn sẽ thấy một cái thú khác lạ
nữa là ăn ngon trong tịch mịch, ăn ngon trong không khí trong lành.
Khách chưa có ai, anh muốn ăn kiểu
ǵ, muốn xơi chỗ thịt nào, muốn dùng nước thịt ḅ tươi rưới lên bánh,
muốn có mỡ lật, mỡ gầu, muốn nước trong hay béo, tha hồ mà hạch! Anh
được như ư và anh sẽ vừa ăn vừa nh́n mấy thanh củi tạ ở trong ḷ kêu
lách tách và bắn ra ngoài trời sắc sữa những hoa lửa vi ti màu đỏ tươi.
* * *
Dù sao, ta cũng phải nhận rằng đến
vấn đề ăn phở th́ người Việt Nam quả là khó tính lạ lùng.
Một người bạn đă từng nếm đủ hương
vị của tất cả những hàng phở danh tiếng ở Hà thành khoảng ba mươi năm
trở lại đây, một hôm, cho tôi biết rằng: “Đến cái năm 1952 này, phở h́nh
như đă tiến tới chỗ tuyệt đỉnh của nó rồi, cũng như một bản nhạc tuyệt
kỹ… không chê vào đâu được, nghĩa là không thể thêm một món ǵ hay giảm
một món ǵ”.
Theo anh ta th́ phở mà cho magi vào
th́ rất hỏng mà quấy “lạp chiếu chương” vào cũng lại dở vô cùng. Phải là
hoàn toàn gia vị Việt Nam mới được: hồ tiêu Bắc, chanh, ớt, hành hoa,
rau thơm hay là một tí mùi, thế thôi, ngoại giả cấm hết, không có th́ là
tục đấy!
Có người kể chuyện rằng trước đây
mười lăm, hai mươi năm, đă có một hàng phở ở phố Mới t́m lối cải cách
phở, cũng như Năm Châu, Phùng Há dạo nào cải cách cải lương Nam kỳ, tung
ra sân khấu những bản “De đơ dà múa”. Họ cho mà dầu và đậu phụ vào phở,
nhưng cố nhiên là thất bại.
Sau c̣n có người làm phở cho cà rốt
thái nhỏ, hay làm phở ăn đệm với đu đủ ngâm giấm hoặc là cần Tây, nhưng
thảy thảy đều hỏng bét v́ cái bản nhạc soạn bừa băi như thế, nó không…
êm giọng chút nào.
Một chú khách ở chợ Hôm, chuyên về
lối “phở nhừ”, bánh th́ thái to, thịt th́ thái con cờ hầm chín, nước cho
húng ĺu, một dạo cũng đă làm cho người nói tới, song những người sành
phở chỉ dùng một vài lần thôi, v́ không những đă không có vị phở, thịt
ăn lại bă, mà nước th́ đục mà ngấy quá.
Một hàng phở ngon là một hàng phở ăn
một bát, lại muốn ăn hai và nếu c̣n sức ăn nữa th́ phải ăn ba không thấy
chán.
Gặp phải ngày ta se ḿnh, ngửi mùi
thịt thấy sợ, hàng phở ngon vẫn có thể làm cho ta ăn ngon miệng với một
bát phở chay, chỉ có bánh và nước thôi. Làm như thế mà ngon, thế mới là
ngon đấy.
Một bát phở vừa tái vừa chín ngon,
chưa đủ để định giá trị của hàng phở được; muốn biết chân giá trị của nó,
theo lời người biết ăn phở, phải là thứ phở chín không thôi, phở chín mà
ngon th́ mới thật là ngon đấy.
Thực ra, điều quan hệ trong một bát
phở là cái bánh, nhưng thứ nhứt, như trên kia đă nói, cần phải có nước
dùng thật ngọt. Bí quyết là ở chỗ đó. Và tất cả những hàng phở ngon đều
giữ cái bí quyết ấy rất kín đáo, y như người Tàu giữ của, v́ thế cho nên
trong làng ăn phở, vấn đề nước vẫn là một vấn đề then chốt để cho người
ta tranh luận.
Hầu hết người ta đều nhận thấy rằng
muốn có một nồi nước dùng ngon, cần phải pha ḿ chính. Nhưng chưa chắc
thế đă hoàn toàn là phải.
Thuyết cho đường nhất định là bị
loại rồi. Có người cho rằng phải có nhiều đầu cá mực bỏ vào; có người
chủ trương cần phải có thứ nước mắm tốt lại có người quả quyết với tôi
rằng muốn có nước dùng ngọt, không thể thoát được món cua đồng – cua
đồng giă nhỏ ra, lọc lấy nước, cho vào hầm với nhiều xương ống, nhưng
phải chú ư tẩy cho thật khéo, mà cũng đừng ninh kỹ quá sợ nồng.
Đến bây giờ, ai đă thật biết cái bí
mật ấy chưa? Riêng tôi, tôi cũng đă t́m ṭi suy nghĩ rất cẩn thận mỗi
khi trịnh trọng nâng một bát phở lên ăn, nhưng thú thực, tôi vẫn chưa
biết rằng trong tất cả những “giả thuyết” về “phương pháp làm nước dùng
phở” người ta kể ra đó, giả thuyết nào là đúng.
Kết cục, tôi đă gạt bỏ tất cả những
sự băn khoăn đó sang một bên và không buồn nghĩ nữa, v́ tôi thấy rằng ăn
một miếng phở, húp một tí nước dùng ngon thỉnh thoảng điểm một lá thơm
hăng ngát mà không biết tại sao phở lại ngon như thế th́ có phần hứng
thú hơn là ḿnh biết rơ ràng quá cái bí quyết ngon của phở.
Vũ Bằng (Miếng ngon Hà Nội)