Home T́m Ca Dao Diễn Đàn T́m Dân Ca Phổ Nhạc T́m Câu Đố T́m Chợ Quê Góp Ư Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Măo/Mẹo/mèo (4B- 2)

Nguyễn Cung Thông nguyencungthong@yahoo.com

(Tiếp theo phần 4B)

Thố/thỏ  hay 𨿮 nghĩa cổ là một loài chim

Văn hay *măn  (chữ hiếm) chỉ một loài cây theo cổ thư TQ; Nhưng giọng Hẹ lại đọc là t'u2 (như âm thổ) - so với hai âm măn (mèo) và thố/thỏ.

 4. Các cách giải thích khác nhau

Để hiểu tại sao người Việt lại dùng mèo cho chi Măo , một cách giải thích thường gặp10 trong tài liệu TQ là âm Măo khi nhập vào tiếng Việt đọc giống như mèo hay miêu HV nên người Việt dùng mèo làm biểu tượng thay v́ thỏ. Điều này không hợp lư v́ các lư do sau

3.1 Mèo là แมว  maew (tiếng Thái), maaw (Lào) ... nhưng thỏ lại là loài vật biểu tượng cho chi Măo ở Thái, Lào! Điều lầm lẫn giữa Măo và mèo lại càng rất khó xẩy ra khi đất Giao Chỉ có những liên hệ rất gần với các triều đại phương Bắc (Hán ... Đường) so với các dân tộc khác ở phía tây Giao Chỉ.

3.2 Nếu mèo đọc gần như Măo và được dùng làm loài vật tượng trưng cho chi thứ tư này, rất khó giải thích tại saonga (ngỗng trời ... c̣ biển) gần gũi với dân ta (đánh cá, gần biển ...), đọc gần giống âm cổ *ngwa của Ngọ , lại không là loài vật biểu tượng cho chi Ngọ? C̣n âm cổ Mùi (Vị)  của chi thứ tám đọc gần với âm muỗi, tại sao người Việt lại dùng dê chứ không là muỗi ... và c̣n nhiều các âm giống khác nữa ....v.v... Ngoài ra, tuy chữ Nôm c̣n quá ‘trẻ’ để phân tích liên hệ ngữ âm của tên gọi 12 con giáp, nhưng cũng có vài điểm đáng chú ư là mèo (cũng nhưmeo) thường dùng chữ miêu  HV như

'Lẻo lẻo doành xanh con mắt mèo' (Bạch Vân Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585)

Nhưng méo th́ chữ Nôm dùng Măo 卯 (có khi cộng thêm dấy nháy)

'Tṛn tṛn méo méo in đ̣i thuở’ (Hồng Đức Quốc âm Thi Tập, soạn bởi quần thần và Lê Thánh Tông 1442-1497).

Do đó, hai âm Măo và mèo đă có sự phân biệt ít nhất từ thời nhà Lê, và xác suất nhầm lẫn giữa Măo11 (âm Hán trung cổ, nhập ngược vào VN khoảng từ thời Đường Tống) và mèo (âm thượng cổ) trong tiếng Việt rất nhỏ!

3.3 Khuynh hướng tổng quát và tự nhiên của chữ viết loài người tiến hoá từ cụ thể và đơn giản đến trừu tượng12. Thí dụ như tên gọi các loài vật được dùng với nghĩa mở rộng hơn, trừu tượng hơn như mặt chuột (so với mặt rồng), thân trâu ngựa, ăn như mèo ngửi, tính t́nh như rắn rít ... Thành ra, suy luận từ âm Măo cho ra mèo th́ không phù hợp với khuynh hướng tự nhiên; Đáng lẽ là từ mèo (loài vật, cụ thể) cho ra âm Măo (hệ thống ghi thời gian, trừu tượng, bói toán/số mệnh) mới hợp lư hơn. Hệ thống gọi tên các con vật cụ thể (đơn giản) và rất gần gũi với nhà nông khi nhập vào văn hoá Hán đă trở thành hệ thống ghi nhận thời gian, bói toán (trừu tượng, phức tạp); Hệ thống 12 con giáp này cùng khởi sắc khi văn hoá Hán phát triển cực mạnh (Tần, Hán ... Đường, Tống ...) và ảnh hưởng đến các khu vực chung quanh, đây lại là hiện tượng nhập ngược mà ít người ư thức được trong trường hợp Việt Nam.

3.4 Có những cách giải thích không có cơ sở khoa học, đầy cảm tính như sự thay đổi giữa mèo và thỏ là sự xuyên tạc sự thật13 , hoặc dựa vào những ‘huyền thoại’ không thể kiểm chứng khách quan được: người viết chỉ ghi nhận vắn tắt ở đây mà thôi.

Từ những góc độ nh́n khác nhau như trên, ta thấy khả năng nguồn gốc tên gọi 12 con giáp có thể đến từ tiếng Việt cổ. Thật ra th́ người Việt chúng ta không cần phải lư giải tương quan rất tự nhiên giữa Măo Mẹo và mèo, cũng như Tư chút *chuốt chuột, Ngọ ngựa, Hợi *Gỏi cúi (heo), Sửu *tlu trâu ... Người Việt không phải dùng các từ ghép so với văn hoá TQ như Măo Thố 卯兔 , Tư Thử 子鼠, Sửu Ngưu   để giúp ta nhớ đến tương quan Măo mèo, Tư chuột, Sửu tlu/trâu ..... Chính các ngôn ngữ hay dân tộc nào dùng thỏ thay v́ mèo cho chi Măo/ Mẹo mới cần phải giải thích sự khác biệt này: đây là sự vay mượn hay cố t́nh thay đổi? …. Không phải là hoàn toàn nghịch lư khi tổ tiên c̣n dặn ḍ con cháu rằng

Trăm năm bia đá th́ ṃn

Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ

5. Phụ chú và phê b́nh thêm

Để cho liên tục, người đọc có thể xem thêm các bài viết về chi Măo (hai bài trước số thứ tự là phần 4, 4A) chủ đề "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" trên trang mạng khoahoc.net, dunglac.com ... của cùng một tác giả (Nguyễn Cung Thông), hay lên google và đánh tên nguyencungthong th́ sẽ có loạt bài liên hệ đă đăng ớ các địa chỉ/website khác nhau. Ngoài hiện tượng đổi chữ (dùng dấu phẩy chẳng hạn), lẫn lộn (mèo thành thỏ), chúng ta cũng nên để ư đến hiện tượng nhập ngược (Măo nhập ngược vào ngôn ngữ Việt với dạng cổ mèo đă hiện diện). Hiện tượng nhập ngược lại (back-loan) trong quá tŕnh giao lưu văn hoá như Bụt-Phật, tên 12 con giáp (gốc Việt cổ) trong tiếng Việt không phải là hiếm - nhất là khi các dân tộc sống gần nhau qua một thời gian rất dài; Một thí dụ gần đây hơn và thường được nhắc đến đă xẩy ra vào thế kỷ 20 khi Nhật Bản du nhập văn minh Tây phương và dùng một số từ gốc Hán, sau đó các từ này nhập ngược lại tiếng Hán và sau đó nhập vào tiếng Việt

Xí nghiệp  (HV)                     企業    qi4 ye4 (Bắc Kinh)                 kigyō (Nhật)

Điện tử                                   電子    dian4 zi3                                  denshi

Nguyên tử                              原子    yuan2 zi3                                 genshi

Thị trường                              市場    shi4 chang3                              shijō

Khoa học                                科學    ke1 xue2                                  kagaku

Hàng Không Mẫu Hạm         航空母艦   hang2 kong1 mu3 jian4     kookuubokan

...v.v...

1) nhưng theo học giả Lê Quư Đôn (1726-1784) trong ‘Vân Đài Loại Ngữ’, và Jean Bonet trong ‘Dictionnaire annamite-francais’ (1899) th́ thỏ là con vật biểu tượng cho chi Măo: điều này cho thấy ảnh hưởng không nhỏ và có khi méo mó của chữ và văn hoá Hán, nhất là khi dùng tài liệu TQ. Văn hoá dân gian ta vẫn duy tŕ cách dùng con mèo (không phải thỏ) như trong tự điển Việt Bồ La (1651) – xem phần giải thích về giờ.

2) xem chi tiết về Điền Viên Động trang  http://history.cultural-china.com/en/181History5910.html   hay tranghttp://www.hudong.com/wiki/%E7%94%B0%E5%9B%AD%E6%B4%9E%E9%81%97%E5%9D%80

3) thí dụ như thanh điệu trong từ láy bốn chữ nũng nà (na) nũng nịu ... đều cùng âm vực trầm (trọc)

4) xem thêm chi tiết trong cuốn "ABC Etymological Dictionary of Old Chinese" của GS Axel Schuessler, NXB University of Hawai'i Press (Honolulu, 2007) trang 91 mục 8.2.1

5) danh từ nước (tiếng Việt) có khả năng là một dạng ngạc cứng hoá của vực  (vực > *nhược > nước tiếng Việt) so với dạng quốc (vực > *kwuc > quốc tiếng Hán Việt), nhưng ảnh hưởng của đạo Phật đă đưa nước (quốc gia có biên giới rơ ràng, xem lịch sử h́nh thành chữ quốc tiếng Hán bên dưới) đến với nước (chất lỏng, không phân định ranh giới rơ ràng, tuỳ thuộc h́nh thể/địa chất) trong vốn từ của toàn dân; Đây là sự thể hiện qua ngôn ngữ của giáo lư PG vô thường và mầu nhiệm. Các dữ kiện này cho thấy tư tưởng PG và văn hoá dân gian VN, qua tư duy nông nghiệp/tổng hợp và cụ thể, đă hoà lẫn với nhau từ thuở xa xưa để h́nh thành những nét văn hoá ngôn ngữ đặc thù của dân tộc, một đề tài lớn rộng đáng được nghiên cứu rất chi tiết để hiểu rơ hơn lịch sử và bản sắc văn hoá tộc Việt cho đến ngày nay.

Các cách khắc/viết chữ quốc (nước)

Chữ triện                            Kim văn                    Giáp văn

 

 

Dị thể của chữ quốc                                  Giản thể

 

Tham khảo thêm chi tiết trang http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E5%9C%8B&submitButton1=Etymology   và http://dict.variants.moe.edu.tw/yitia/fra/fra00734.htm ...v.v..

6) từ khi dùng bút lông để viết chữ Hán, dấu chấm (nguyên thủy) trở thành dấu phẩy cho hợp với thế viết. Dấu phẩy bên phải của chữ ngọc được thêm về sau này - giáp văn, kim văn, triện văn không có dấu phẩy - chữ vươngvà ngọcbắt đầu giống nhau từ thời kim văn

Triện văn                        Kim văn                Giáp văn                                  Ngọc HV 

Chữ miễn/*măn/vănvà chữ thốthời Xuân Thu có thể hoán chuyển cho nhau như trong đề từ khắc hoạ ở đền thờ Vũ Lương, bia khắc thời Hán ... Ngoài ra, các cách khắc/viết của miễn/*măn/văn và thố/thỏ cũng có lúc giống nhau trong triện văn

          Thố/thỏ                       Miễn/*măn/văn          

Xem 13 cách viết khác nhau của chữ thố/thỏ ta thấy có hai trường hợp không có dấu phẩy bên phải (tượng h́nh, chỉ đuôi thỏ) - trích từ trang http://dict.variants.moe.edu.tw/yitia/fra/fra00276.htm

 

Các dạng viết của thố/thỏ 

Có những trường hợp chữ Hán không thay đổi nghĩa khi thêm (hay bớt) dấu phẩy ở trên hay dưới

  (oan) có thể viết là                         

 

   

𩛟  (uyên) có thể viết là 𩝸

 (thổ) có thể viết là  (chữ hiếm):           xem thêm các dạng viết chữ thổtrang                                                                                             http://dict.variants.moe.edu.tw/yitia/fra/fra00740.htm

 (tư, tư duy) nguyên là chữ tâm  hợp với chữ tín 囟 (đỉnh, đỉnh đầu/thóp) - 說文】从心囟聲 [Thuyết Văn] tùng tâm tín thanh; Nhưng về sau bỏ dấu phẩy trên chữ tín  và đổi thành điền . Chữ này cho thấy tư duy phương Bắc (người Hán) dựa vào hoạt động của tim, óc (đầu) so với tư duy cụ thể (nhà nông) của phương Nam dựa vào ḷng, dạ, bụng - vị trí thấp nhất so với tim và đầu/óc - như đă viết bên trên.

 

 

 Triện văn                                      Tư HV (nghĩ, tư duy)

7)  'con măn tam thể': chat à trois couleurs (mèo tam thể, mèo có ba màu) theo Gustave Hue trong cuốn 'Dictionnaire vietnamien-chinois-francais' (Imprimerie Trung Hoà, 1937). Thuyết Văn Giải Tự/TVGT c̣n ghi chữ man, mán, mạn (màn mán wàn - giọng Bắc Kinh/BK) là chữ hiếm với tần số dùng là 9 trên 171894734 như sau

獌,[舞販切 ],狼屬。從犬曼聲。《爾雅》曰:“貙獌,似貍。

mạn ,[ vũ phiến thiết ] , lang thuộc . Ṭng khuyển mạn thanh . " Nhĩ Nhă " viết : " sâu mạn , tự li . "

Để ư TVGT cũng ghi miêu là loài li 貓,貍屬 (miêu, li thuộc). Người Mèo 苗族 (Miêu tộc) c̣n được gọi là người Man, Mán  

8) hiện tượng lẫn lộn giữa loài thỏ và mèo (khi nh́n từ xa khá giống nhau) c̣n thể hiện qua các phương ngữ ở TQ thời cổ đại, phản ánh giao lưu văn hoá ngôn ngữ của các dân tộc đă từng hiện diện ở khu vực Trường Giang và phía nam TQ. Thí dụ như chữ nậu  (Unicode 4A32), nóu BK neu2 wan5 giọng Hẹ ... Chữ này rất hiếm từng chỉ thỏ con, nhưng lại có thể đọc là *man (so với măn là con mèo tiếng Việt), trích tự điển Khang Hy

 

 《集韻》江東呼兔子爲 ... 《廣韻》《集韻》無販切,音萬

"Tập Vận" Giang Đông hô thỏ tử vi nậu ...  Quảng Vận, Tập Vận : vô phiến thiết, âm vạn

Trích từ  http://dict.variants.moe.edu.tw/yitic/frc/frc15675.htm

 

9) Dă miêu野猫 có các nghĩa là (a) mèo hoang (dă) hay mèo đồng, (b) thỏ hoang, và nghĩa mở rộng (tỷ dụ/metaphor) là (c) người lỗ măng ...

10) xem thêm chi tiết các trao đổi, như Măo Niên (năm Măo) 卯年trở thành Miêu Niên (năm mèo) 貓年cho nên mèo là biểu tượng cho chi Măo, trang http://www.chinahistoryforum.com/index.php?showtopic=33283&pid=4988244&start=&st=#entry4988244?s=23493562ccca9ef4648d01d9d43eb34a  hay http://en.wikipedia.org/wiki/Rabbit_(zodiac)  hay  http://www.museumstuff.com/learn/topics/Rabbit_(zodiac) , và  ‘ …v́ trạng người Việt gầy nhỏ, không cao nên dùng mèo thay v́ thỏ…’ trang nàyhttp://www.gxtour.cn/view_news.asp?keyno=8030&lei=900 hay đọc Măo thành mèo (cũng như con mèo) nên người Việt đổi (lầm) thỏ thành mèo, xem trang này http://chinablog.cc/2009/01/why-no-year-of-the-cat/  hay ‘huyền thoại’ về mèo ngũ trễ nên không đến mục tiêu kịp; Một ‘huyền thoại’ khác lại nói rằng mèo bị loại ra trong 12 con giáp v́ nó đă bắt con chuột thiêng của Maya (mẹ của đức Phật Tổ) ...v.v...

11) cách đọc Măo rất phù hợp với cách phiên thiết theo Đường Vận/Tập Vận: 莫飽切, 音昴 mạc băo thiết, âm măo. Cũng như đa số các âm Hán Việt khác tương thích với âm Hán trung cổ, phản ánh khả năng nhập vào tiếng Việt vào khoảng thời Đường Tống ... Điều này cho thấy cách đọc HV Tư Sửu Dần ... Tuất Hợi cũng nhập vào tiếng Việt khoảng đời Đường hay sau này. Âm thượng cổ của Măo là *meu - theo tự điển phổ thông trên mạnghttp://tool.httpcn.com/Html/zi/22/PWCQKOUYRNUYKOTBF.shtml

上古音 ]:幽部明母,meu  - so với dạng mèo tiếng Việt

广 韵 ]:莫飽切,31,mǎo,效開二上肴明

平水韵 ]:上声十八巧

国 语 ]mǎo

粤 语 ]maau5

闽南语 ]bau2

Các dữ kiện về âm thượng cổ *meu (mèo) của tự điển TQ trên c̣n chứng minh rằng dạng mèo thượng cổ đă cho ra dạng Măo/mǎo trung cổ, và đă ‘hoá thạch’ hay trở nên bất tử trong tiếng Việt.

12) xem các bài viếthttp://www.wvhs.wlwv.k12.or.us/Staff/EbyA/Web%20Elements/WJSSH/Fall2007PDF/Origin%20of%20Writing.pdf hay  http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_ch%E1%BB%AF_vi%E1%BA%BFt  …v.v…

13) xem các trao đổi trên mạng Yahoo.HỎI&ĐÁP http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:g5sw5Jab_wQJ:vn.answers.yahoo.com/question/index%3Fqid%3D20100618195417AA8kYep+nguyencungthong+ngon+ngu+han+viet&cd=156&hl=en&ct=clnk&gl=au hay  http://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20071127060841AAjc9Fl …v.v…

Có người (chiêm tinh gia TQ) lư luận là loài mèo quen thuộc đối với người Việt nên thỏ mới trở thành mèo - xem chi tiết trang http://www.astrologizeme.com/repon-16.shtml .

Lại nữa, một đề nghị cho rằng ở miền bắc TQ hiếm mèo nên đổi mèo thành thỏ - xem chi tiết tranghttp://www.asiafinest.com/forum/lofiversion/index.php/t179029-100.html ; Tuy nhiên, một ư kiến khác ngược lại nói rằng ở Việt Nam hiếm thỏ nên đổi thỏ thành mèo!

 

Nguyễn Cung Thông nguyencungthong@yahoo.com

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bún Song Thần An Thái

Thị trấn An Thái nho nhỏ, xinh xinh nằm bên bờ sông Kôn từng một thời nổi danh về bún Song Thần. Đặc sản bún Song Thần đă đi vào kho tàng văn học dân gian vùng đất vơ với câu ca truyền tụng:

Nón ngựa G̣ Găng
Bún song thần An Thái
Lụa đậu tư Nhơn Ngăi
Xoài tượng chín Hưng Long...

An Thái nay thuộc xă Nhơn Phúc, huyện An Nhơn, tỉnh B́nh Định, cách thành phố Quy Nhơn chừng 30km về hướng tây bắc. Làng An Thái là một trong những làng nghề cổ truyền ở B́nh Định chuyên sản xuất một loại bún đặc biệt đă tồn tại hàng trăm năm qua.

Những ai về thăm B́nh Định mà không mua một ít bún đem về làm quà cho người thân là một điều thiếu sót vô cùng. Những tấm bùn vuông vức hay cuộn lại thành h́nh số 8 bọc gói cẩn thận được bày bán lẫn lộn với loại bún thường làm bằng bột ḿ tại các phố chợ. Khách mua không khéo dễ bị nhầm lắm đấy!

Song Thần là tên gọi xuất phát từ "song thằng", có nghĩa là dây bún đôi thường kéo ra một lần hai sợi song song nhau, lâu ngày đọc trại thành "song thần". Riêng loại bún duỗi h́nh số 8 cũng là bún Song Thần nhưng đă biến thể chỉ c̣n một sợi thôi. C̣n loại bún nguyên thuỷ có hai sợi gọi là bún tạ, sợi bún đôi kéo chạy theo h́nh vuông mỗi cạnh khoảng hơn hai tấc tây.

Bún Song Thần là đặc sản của người Minh Hương sinh sống tại An Thái. Theo khẩu truyền th́ loại bún này có từ thế kỷ 18, nghĩa là lúc người Hoa đến đây sinh cơ lập nghiệp và phát triển nghề làm bột đậu xanh và bún Song Thần. Dưới thời phong kiến, các quan lại địa phương lai kinh đều mang theo bún Song Thần tiến lên vua nên gọi là bún tiến. V́ thuở xưa bún sản xuất có hạn và chỉ bán cho gia đ́nh quyền quư cao sang nên rất quư hiếm. Dưới thời Pháp thuộc, làng bún An Thái phát triển lên đến hàng trăm hộ dân chuyên sống bằng nghề bún. Bún Song Thần trở thành món ăn b́nh dân. Trong thời kỳ chiến tranh, bún Song Thần có mai một đi một thời gian dài do những người trong làng nghề chuyển cư đến nơi khác làm ăn, một số t́m nghề khác làm ăn khấm khá hơn. Hiện nay, lớp hậu sinh tiếp nối nghề của cha ông trở về với nghề cũ. Làng bún đă và đang được khôi phục dần với gần 40 hộ sản xuất.

Bún Song Thần làm bằng bột đậu xanh, đậu đen hay đậu trắng, nhưng bột đậu xanh có giá trị hơn. Để làm ra bún, người thợ phải trải qua nhiều công đoạn công phu và phức tạp. Đậu đem lựa cho thật đều, phơi nắng cho thật khô mới đem ngâm vào nước lạnh và thường xay đậu vào ban đêm trên các băi sông. Nếu xay vào ban ngày giữa tiết trời nắng nóng bột sẽ bị hư ngay. Bột xay xong phải qua khâu gạn lọc và phân loại bột nhất, bột nh́. Tinh bột đem phơi nắng cho thật khô mới đem làm bún. Thông thường, cứ 1,2kg bột đậu sẽ làm được 1kg bún.

Bún Song Thần đem nấu canh với tôm, cua hay thịt nạc th́ ngon tuyệt. Nước canh trong veo và ngọt lịm, vừa mát vừa bổ. Bún nấu canh nên dùng loại bún duỗi có dạng số 8 ngon hơn v́ sợi nó rời và thẳng. Bún đem xào với thịt hay tôm, sợi bún vẫn dai và rời, chẳng hề dính cục như các loại bún khác.

Vừa qua, tại Hội chợ thương mại "Hàng chất lượng cao" ở thành phố Quy Nhơn, làng bún An Thái đă gửi hàng đến tham dự và thương hiệu bún Song Thần rất được khách sành ẩm thực chú ư. Hy vọng trong tương lai gần, làng bún An Thái sẽ được khôi phục và phát triển lớn mạnh./.

Côn Giang
 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Kỹ Thuật Truy Tầm

Hoàng Vân

Sưu tầm Nhạc Dân Ca

Julia Nguyễn
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/24/16