|
Miếng Ăn Trong Văn Hóa Việt Nam
Nguyễn Hưng Quốc
Có những dân tộc bị ám ảnh triền miên bởi những vấn đề siêu h́nh, nhờ đó
tôn giáo và triết học, đặc biệt siêu h́nh học, phát triển rực rỡ. Có
những dân tộc khác bị ám ảnh bởi kỹ thuật, hết cày cục sáng chế cái này
th́ lại cày cục sáng chế cái khác, máy móc mới ra đời dồn dập, nhờ thế,
họ tiến bộ không ngừng.
C̣n dân tộc Việt Nam? H́nh như chỉ có một ám ảnh lớn: Ăn.
Nói văn hoá Việt Nam quá coi trọng miếng ăn th́ có vẻ hơi kỳ nhưng không
chừng đó lại là sự thật.
Chứ không phải sao? Có vô số bằng chứng. Trước hết, cứ nh́n vào truyền
thuyết Việt Nam th́ cũng có thể thấy ngay điều đó.
Khi một ông vua Hùng nào đó muốn truyền ngôi lại cho con th́ ông lựa
chọn ra sao? Chọn đứa nấu ăn ngon nhất! Kết quả là cái kẻ nhờ tiên hay
Bụt gi đó chỉ cách nấu bánh dày và bánh chưng đă chiến thắng và dành
được ngai vàng.
Vị anh hùng mang tầm sử thi đẹp nhất của Việt Nam, thánh Gióng, th́ nhờ
ăn thật nhiều mà lớn như thổi để thoắt một cái, từ một đứa bé lên ba
bỗng thành một thanh niên tuấn tú và oai vệ phóng lên ḿnh ngựa sắt xông
ra ngoài chiến trận đánh giặc.
Vị anh hùng văn hoá được sử sách yêu mến, An Tiêm, th́ có công chính là
trồng… dưa hấu.
Mối t́nh sau này gắn liền với phong tục cưới hỏi ở Việt Nam th́ lại bắt
đầu bằng một bữa ăn để phân biệt anh và em và kết thúc cũng bằng cái ăn,
nhưng là… ăn trầu!
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, công việc ǵ phổ biến nhất? Cúng! Ở
đâu cũng cúng. Với thần nào cũng cúng. Với người chết nào cũng cúng. Vừa
mới nằm xuống, trên đầu chiếc quan tài đă có bát cơm và quả trứng luộc
để… có sức qua bên kia thế giới.
Cũng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, vị thần nào được chú ư nhất?
Câu trả lời: Vua Bếp. Chỉ có Vua Bếp là có được một ngày cúng riêng
trong năm: 23 tháng Chạp.
Hăy đọc lại truyện tiếu lâm Việt Nam mà xem. Các đề tài chính là ǵ? Là:
sự giả dối của các loại thầy, từ thầy chùa đến thầy bói, thầy pháp và
thầy địa lư; thói sợ vợ; và, nhất là, tật… tham ăn. Cái ăn trở thành một
trung tâm chú ư của xă hội.
Nhưng bằng chứng rơ nhất là trong ngôn ngữ.
Một trong những nơi người Việt chứng tỏ óc độc lập và khả năng sáng tạo
nhất là trong lớp từ vựng chỉ việc chế biến bằng lửa các món ăn mặn
trong tiếng Việt.
Nhà văn Vơ Phiến nêu lên mấy chục từ: nấu, nướng, chiên, kho, hầm, hâm,
ninh, hấp, rán, ran, chưng, luộc, chần, trụng, lùi, trui, phi, xào, xáo,
quay, um, tráng (chả), đổ (bánh bèo), rim, tiềm, đồ, xôi, thổi, đun, hun,
nhúng, khử, đồ, chấy, thắng, đúc (bánh), bung, sao, hui (thịt), hon,
kh́a, thưng, thuôn (thịt), om (cà), tần (với thuốc bắc), ám (cá), v.v...
Rồi ông b́nh luận: “Hầu hết là tiếng thuần Việt”. Và bàn tiếp: “Trong
các lănh vực văn học, triết học, hành chánh, kỹ thuật nông nghiệp... ta
phải mượn vô số tiếng của người, kho ngôn ngữ ta lổn nhổn đầy tiếng Hán
Việt. Nhưng khi vào bếp th́ ta ngẩng cao đầu, không cần học theo ai,
không mượn tiếng nói của ai cả.”
Từ đó, ông ghi nhận vai tṛ của người phụ nữ: “Vẻ vang thay người nội
trợ tiền bối của chúng ta, tự buổi ban đầu xa lắc xa lơ của lịch sử đă
nghênh ngang tung hoành đầy tự tín, giữa làn khói thơm tho ngào ngạt
trong gian nhà bếp.” (Sống và Viết, 1996, trang 156-7).
Tuy nhiên, trong lănh vực ngôn ngữ, không ở đâu vai tṛ của cái ăn được
thể hiện rơ cho bằng trong chữ “ăn”.
Cứ mở bất cứ cuốn từ điển tiếng Việt nào ra mà xem: Chữ “ăn” bao giờ
cũng có thật nhiều nghĩa và thật nhiều cách kết hợp. Ăn chay. Ăn chận.
Ăn chẹt. Ăn chơi. Ăn cánh. Ăn gian. Ăn hại. Ăn khách. Ăn khớp. Ăn mặc.
Ăn nằm. Ăn nhịp. Ăn sương. Ăn nắng. Ăn đèn. Ăn ảnh. V.v… Trong đó có vô
số kết hợp, ăn không dính dáng ǵ đến chuyện đưa cái ǵ vào miệng, nhai
và nuốt cả. Nói ăn nằm, nhưng nằm là chính; ăn chỉ là chuyện phụ, có hay
không cũng chẳng sao.
Đă có nhiều người viết về tính chất phong phú và đa dạng trong ư nghĩa
và trong cách kết hợp của chữ ăn nên tôi không muốn nhắc lại làm ǵ. Tôi
chỉ xin lưu ư hai điểm:
Thứ nhất, ăn, với người Việt Nam, có nghĩa là cách sống nói chung. Đầu
tiên, cách sống được hiểu theo nghĩa hẹp, như một thứ nghề nghiệp: Ăn
sương, ăn đêm, ăn trộm, ăn cắp, v.v… Sau, rộng hơn, chỉ cách xử thế: Ăn
trên ngồi trốc, ăn cháo đái bát, ăn xổi ở th́, hay, cố đấm ăn xôi, v.v...
V́ là cách sống như thế, người Việt Nam mới coi “học ăn” là bài học đầu
tiên dành cho trẻ em, nhất là với phái nữ: Học ăn, học nói, học gói, học
mở.
Thứ hai, ăn, với người Việt Nam, được xem là tiêu chuẩn để phân biệt
thành công và thất bại, chiến thắng và chiến bại. “Thắng” và “bại” là từ
Hán Việt. Tương đương với từ “thắng” và “bại”, trong tiếng thuần Việt,
là ăn và thua. Nói một cách đơn giản: Thắng có nghĩa là được ăn. Thua là
mất phần ăn. Hết.
Không phải chỉ trong ngôn ngữ hay trong văn hoá dân gian, ngay trong văn
học viết, cái ăn cũng chiếm vị trí cực kỳ quan trọng.
Ăn là một trong những đề tài chính của một ḍng văn học: Ḍng văn học
hiện thực phê phán.
Trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố và
Nam Cao, đề tài miếng ăn, đúng hơn: cái khổ và cái nhục của miếng ăn,
được lặp đi lặp lại rất nhiều.
Trong số đó, theo nhà phê b́nh Nguyễn Đăng Mạnh, Nam Cao là “cây bút
viết về cái đói và miếng ăn nhiều hơn cả, và viết một cách sâu sắc, cay
đắng, day dứt hơn cả” (Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1996, tr. 180).
Ăn c̣n là đề tài phổ biến, nếu không muốn nói là phổ biến nhất của một
thể loại: Tuỳ bút.
Hầu hết các nhà tuỳ bút nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Việt Nam từ
trước đến nay, đặc biệt từ đầu thế kỷ 20 đến nay, đều là những kẻ sành
ăn và thích viết về cái ăn: Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Vơ Phiến,
v.v…
Với những bằng chứng kể trên, nói người Việt Nam coi trọng miếng ăn
không đúng hay sao?
(Đă đăng trên VOA) |