-
|
-
Ca Dao
Dân Ca Nam Kỳ Lục Tỉnh từ 901 -
952
-
901 . Qua
than với bậu hết lời,
-
Đừng tham núi ngọc
đổi dời non tiên.
-
902. Đêm khuya
trăng đă nằm nghiêng,
-
Vẳng nghe chó sủa,
trống liền điểm tư.
-
903. Tiếng anh nho
sĩ học tṛ,
-
Thấy sông th́ lội
không ḍ cạn sâu.
-
904. Nực cười con
bướm có râu,
-
Thấy hoa hăm hở
châu đầu bắt hoa.
-
905. Đói ḷng ăn
trái khổ qua,
-
Nuốt vô th́ đắng
nhả ra bạn cười.
-
906. Ví dầu t́nh
bậu muốn thôi,
-
Bậu phân cho phải
đôi lời bậu ra.
-
907. Một tiếng em
than hai hàng lụy nhỏ,
-
Em có mẹ già biết
bỏ cho ai.
-
908. Kể từ bạn với
trúc mai,
-
Càng sâu nghĩa bể
càng dài t́nh sông.
-
909. Em nói với anh,
-
Như rựa chặt xuống
đất,
-
Như Phật chất vào
ḷng, (1)
-
Hoạn nạn tương cứu
sanh tử bất ly.
-
Bây giờ em đặng chữ
vu quy,
-
Em đặng nơi quyền
quư,
-
Em nghĩ ǵ tới anh.
-
(1) Dị bản: Anh
nói với em,
-
Như rựa
chém xuống đất
-
Như mật
rót vào ve.
-
910. Tới đây lạt
miệng thèm chanh,
-
Ở nhà cũng có cam
sành chín cây.
-
-
911. Vái ông
Tơ đôi ba chầu hát,
-
Khấn bà Nguyệt năm
bảy đêm kinh,
-
Xuôi cho đôi lứa
tôi thuận một tấm t́nh,
-
Dầu ăn hột muối,
nằm đ́nh cũng ưng.
-
912. Thiên sanh
nhơn hà nhơn vô lộc,
-
Địa sanh thảo hà
thảo vô căn,
-
Không hơn cũng kiếm
cho bằng,
-
Có đâu thua sút bạn
hàng cười chê.
-
913. Tưởng là mai
trước lại vầy,
-
Hay đâu mai trước
một ngày một xa.
-
914. Nước trong
xanh chảy quanh hang dế,
-
Tiếng anh học tṛ,
mưu kế anh đâu.
-
Đố anh nhảy xuống
ao sâu,
-
Mà đo miệng cá uốn
câu cho vừa.
-
915. Đố ai nhảy
xuống ao sâu,
-
Mà đo miệng cá uốn
câu cho vừa.
-
916. Thương thương
thay! Sức mạnh chở lừa,
-
Ngựa xe trâu ruộng
đă thừa công phu.
-
917. Phụ mẫu tồn
bất khả viễn du
-
Tọa mật thất như
thông cù,
-
Cách mặt em một
thoáng bằng ba thu,
-
Ḷng anh mang vịnh
chữ: Hà chu hảo cừ.
-
918. Đă đành cắt
tóc đi tu,
-
Một ngày cửa Phật
mười thu cơi trần.
-
919. Thân em buôn
bán tảo tần,
-
Ḷng anh sao nỡ từ
trần xuất gia.
-
920. Tại mẹ cha dứt
t́nh tơ nguyệt,
-
Khuyên em đừng trực
tiết uổng công,
-
Nơi thương cha mẹ
biểu vong,
-
Nơi chẳng đành ḷng
cha mẹ biểu ưng.
-
-
921. Bần cư
náo thị vô nhân đáo,
-
Phú tại lâm sơn hữu
viễn thân,
-
Bấy lâu nay không
biểu, anh cũng lại gần,
-
Bấy giờ em sa cơ
thất vận,
-
Em biểu mấy lần anh
cũng không vô.
-
922. Trăm năm trăm
tuổi may rủi một chồng,
-
Dầu ai có thêu
phụng, vẽ rồng mặc ai.
-
923. Giả tỉnh say
ḍ ḷng thục nữ,
-
Giả khách qua đàng
thử dạ quư nương.
-
924. Không chồng đi
dọc đi ngang,
-
Có chồng th́ cứ một
đàng mà đi.
-
925. Ḿnh xanh tay
đỏ nút ch́,
-
Cơm lương với muối
sống th́ là may.
-
926. Tích xưa dấu
để sờ sờ,
-
Giữ trâu đọc sách,
cắm cờ chăn dê.
-
927. Bấy lâu cách
tựu xa lê,
-
Biết làm sao đặng
trọn bề ái ân.
-
928. Tới đây khác
xă khác làng,
-
Thói quen anh cũng
lạ, xin nàng khá thương.
-
929. Cơm Phiếu Mẫu,
gối Trần Đoàn,
-
Ngửa nghiêng song
phụng, nhẹ nhàng nương luông. (1)
-
(1) Phiếu Mẫu:
Lúc Hàn Tín c̣n nghèo đói, bà Phiếu Mẫu thường cho cơm ăn; sau
khi đă làm quan tướng. Hàn Tín nhớ ơn đền 1.000 thỏi vàng; Trần
Đoàn: Người đời Ngũ Đại, tu tiên đắc đạo ở núi Hoa Sơn: đă ngủ 3
năm liền cho khỏe mắt trong đời loạn lạc - Câu ca dao trên là bài
thơ "phú đắc" về 4 điều khoái (tứ khoái) của người đời.
-
930. Chỉ kim tương
cha mẹ không thương,
-
Dứt đạo cang
thường, anh cam bụng chịu.
-
Thôi thôi buông áo
anh ra về,
-
Em bận bịu làm chi.
-
-
931. Dạo
chơi bàn thạch thanh nhàn,
-
Họa may có gặp con
bạn vàng thuở xưa.
-
932. Bến đ̣ xưa con
bóng đương trưa,
-
Buông lời hỏi bạn
kén lừa nữa thôi.
-
933. Thang cao
nhiều nấc khó trèo,
-
Đem nhau tới chốn
hiểm nghèo bỏ nhau.
-
934. Đèn ai leo lét
trên lầu,
-
Hay là đèn bà Quốc
Mụ, tụng kinh cầu cho Mă Đăng
-
Luồng. (2)
-
(2) Mă Đăng
Luông (Long): Nhân vật của vở tuồng cùng tên là một tướng giỏi
đă bênh vực kẻ tốt, cô thế để trừ bọn xấu là cha con Thừa tướng Đặng
Vạn Bộ. Sau nhờ giúp vua đánh thắng giặc nên được phong làm Thừa
tướng.
-
935. Yếm em bốn dải
ḷng tḥng,
-
Dải xanh, dải đỏ,
dải trắng, dải vàng.
-
Cái số của chàng
một trăm ba mươi sáu đoạn,
-
Một đoạn bên này,
một đoạn bên kia,
-
Ví dầu trời đất
phân chia,
-
Đôi ta như khóa với
ch́a đừng rơi.
-
936. áo vải quao
lựa sào mà vắt,
-
Tuy xấu mặc ḷng
lựa mặt.gởi thân.
-
937. Mục bất kiến,
nhĩ anh cũng tằng văn, (1)
-
Thấy em có nghĩa
mấy trăng anh cũng chờ.
-
(1) Mắt không thấy,
nhưng tai anh đă từng nghe.
-
938. Tấm giấy vàng
đề hàng chữ thọ,
-
Rước em về hai họ
chứng minh.
-
939. Dốc một ḷng
lấy chồng hay chữ,
-
Để ra vào kinh sử
mà nghe.
-
940. Muốn cho ông
cống ông nghè ,
-
Thiếu chi nhiêu học
kết bè mà chơi.
-
-
941 . Từ khi
rẽ một phang trời,
-
Dạ hằng khấn khấn
nhớ lời minh sơn.
-
942. Trăm năm nhơn
nghĩa vẹn tṛn,
-
Tử sinh tạc dạ đá
vàng nào phai.
-
943. Bao giờ sum
hiệp trước mai,
-
Ḷng nguyền kết tóc
lâu dài trăm năm.
-
944. Đạo hằng t́nh
ngỡi chí thân,
-
Làm sao cho đặng
ngọc cầm liền tay.
-
945.
Bao giờ
thuyền trả lái day,
-
Cờ về tay phất đẹp
mày nở gan.
-
946. Một ḿnh đă
luận lại bàn,
-
Chạnh ḷng thương
nhớ bạn vàng cố tri.
-
947. Bao giờ tử
biệt sanh ly,
-
Ven trời góc biển
thị phi không tường.
-
948. Ai làm cách
trở Sâm Thương,
-
Ai làm rời ră oan
ương dường này.
-
949. Buồn trông
ngọn gió vời mây,
-
Tương tư ai giải
cho khuây buổi nào.
-
950. Đua chen thu
cúc xuân đào,
-
Lựu phun lửa hạ,
mai chào gió đông.
-
951. Chữ
rằng: vấn tổ tầm tông,
-
Cháu con nỡ bỏ, cha
ông chẳng màng.
-
952. Đánh cờ nước
bí khôn toan,
-
Dầu anh khéo lượng
trăm bàn cũng thua.
|