|
- Bão Lụt Năm Giáp Tý ở Phú Yên
-
- (Dân
Ca Bài Chòi)
-
-
-
- Giáp Tý Khải Định cửu niên
- Trời làm bão lụt Phú Yên cơ hàn
- Tuy Hòa cho tới Tuy An
- Đồng Xuân, Phủ Cũ, mấy làng gần
sông
- Đá Bia ra tới Cù Mông
- Dưới biên sóng dậy, trên đồng nước
dưng
- Nhà cao ngập tới nửa lưng
- Nhà thấp đá mái, nước bưng trôi nhà
- Mưa dầm suốt bữa hăm ba (23)
- Sáng ngày hăm bốn nước òa vào sân
- Đầu hôm sấm chớp vang rân
- Gió nam thổi kiệt, ước chừng canh
ba
- Còn đang dọn dẹp trong nhà
- àm âm gió chướng phá mà vách phên
- Canh tư trăng hé hừng lên
- Ba đào chuyến động tường, nên rã
tan
- Chùa, đình, miễu lẫm các làng
- Long đình hương án, lọng tang,
trượng âm
- Sắc thần, phổ ý nước ngâm
- Nhà sàn, kèo côt, rui mầm còn chi
- Quần áo bỏ vào va - ly
- Rương xe, tráp trắc, quế. kỳ cùng
trôi
- Nhà ngói sổ nóc lên ngồi
- Sẩy tay rớt xuống sóng nhồi lộn rơm
- Tuổi xanh má phấn da thơm
- Tóc dài bết đất, dính chơm dính chà
- Hài nhi lên bảy lên ba
- Gỗ đằng, nưởc phủ sập nhà, vách
chôn
- (tổng) Hòa Đồng chết hết bảy
thôn
- Người nào còn sống chạy dồn lên non
- Đàn bà chết đứng bồng con
- Trai tơ chết vợ, gái non chết chồng
- Của tiền sạch bách, tay không
- Gia tài khánh kiệt ruộng đồng cách
xa
- (ngày) Hai lăm (25)
trời mới rạng ra
- Xốc nồm, gió chướng mưa sa trắng
trời
- Trẻ, già lấy nón làm tơi
- Kiếm chốn gò mả làm nơi cất chòi
- Trèo lên trên động ngó coi
- Cuộn giòng nước xoáy sóng nhồi lao
xao
- Cũi heo, chồng ngựa, phên rào
- Rương xe, phảng mà lộn nhào lăn
chiêng
- Giàu than mất gạo mất tiền
- Lúa ướt, nhà dột, không yên chỗ nằm
- Ca tỉh chết hêt mấy trăm
- Ghe bầu, thuyền, lưới giạt nằm trên
khô
- Trong chùa, thầy niệm nam -
mô
- Ngoài sân Phật ngã, mõ đồ linh đinh
- Cù phong một trận tan tành
- Heo chương da thúi, bò sình bụng to
- Chó mèo, gà vịt, trâu bò
- Dành chân trôi lấp đầy gò thúi hôi
- Xế qua nước mới dực hồi
- Dân nằm duới nước quan ngồi sao an
- Phú Lạc, Da Ngu; Phước Giang
- Lạc Nông. Thạch Tuấn, dưới làng Mỹ
Khê
- Nhà trôi ngườl chết thảm tbê
- Thọ Lâm, Phú Hiệp thuộc về
(tổng) Hòa Đa
- Phú Lễ sông cạn chảy qua
- Phú Lâm, Phú Nhuận cùng là Thạch
Lâm
- Uất Lâm, Đông Mỹ, Phước Nông
- Rừng ngang, hạ bạc thủy xâm chín
làng
- Làm tờ thiệt hại trình quan
- Sổ mục mấy làng, già trẻ khai ra
- "Sức" về tìm kiếm thây ma
- Bảo trong thân thích bó mà chôn sơ
- Người nào chết tấp bụi bờ
- Cuốc dất mà lấp đừng chờ quách quan
- Chết trôi không chiếu không màn
- Không thầy cúng vía, không quang
truy hồn
- Tỉnh tòa trường học. nha môn
- Ngói bay, gương bể kiểng bồn ngã
lăn
- Trời sao bẻ lá không ngằn
- Cây gãy cành dập, nhánh văng chật
đàng
- Khâm sứ từ tòa Nha Trang
- Phú sức bầu đoàn xe chở gạo ra
- Tháng chín bão hại người ta
- Còn thêm trận lụt hăm ba tháng mười
- Trời làm thiên hạ đều hư
- Gia cang, thổ mộ, đền từ chẳng yên
- Bàn dân chí di quan
viên
- Lầu cao, tòa sảnh
trính xiêng phơi bày
- Nước lớn hơn ba thước tây
- Hạ bạn vợ nói chồng nghe
- Ghé sõng vào hè chở mẹ con tui
- Phận nghèo không đất cắm dùi
- Cửa nhà trôi hết, bỉết chui ngõ
nào?
- Cõng con xẻ trổ băng rào
- Bò trâu dong đuổi nông cao mà nằm
- Gió to, trời tối, mưa dầm
- Đuốc đèn kêu hú kiếm tầm vỏ bao
- Giàu thời lẫm lớn bồ cao
- Vách sập, lúa đổ hư hao bộn bề
- Nam Bình, Thạch Chẩm Phú Khê
- Bàn Nham, Bàn Thạch, làng kề Phước
Long
- Thạch Lương, Lò Gạch, Tân Lâm
- Gò Tây, Soi Đại, Hiệp Đồng, Mỹ Long
- Gỗ trôi xuống cửa Đà Nông
- Phước Giang, Đại Mộc còn trông nỗi
gì?
- Chữ rằng âm thịnh dương suy
- Thiên cơn mạc trắc thùy truy khó
dầu
- Đà Rằng, Đông Trạch, Phú Câu
- Năng Tịnh, Ngọc Lãng, kho dầu ngói
teo
- Tàu bè Vĩnh Thái đứt neo
- Mỹ Lợi, ghe bẹp, đứt lèo, gãy be
- Ninh Tịnh. Nhạn Tháp núi che
- Ô Sét, Lò Rượu tư bề ngổn ngang
- Đông Bình, Đông Phước, Phú Vang
- An Đức, An Hải, An
Sang, Xuân Đài
- Cau, dừa gày gục
nằm dài
- Từ Nham ghe cộ sóng tai vô gành
- Ghe câu. ghe lưới, ghe mành
- Rớ, giã đứt nhợ tanh banh dẹp nghê
- Bứt vành, gãy côt. lột mê
- Chọ' Đèo cốm rã, Thạch Khê ướt đàng
- Mạnh Đông, Nhút Mộc, Thập hàng
- Sơn Hòa lúa bắp mục vàng mốc meo
- Củng Son, Thành Hội, Hoa Chiêu
- Đồng Cam, đất đỏ hư nbiều sắn khoai
- Phủ trong cho chí huyện ngoài
- Khắp bốn phủ huyện thủy tại hại đều
- Hòn ông núi lở cây xiêu
- Gỗ to lấp dưới rác rều bè trôi
- Nhựt cùng, Đồng Cọ, Đồng Lầu
- Bãi sông, núi lá cát bồi soi dâu
- Lúa co mới uốn cần câu
- Dưới sóng trên gió rụi màu nám đen
- Tưởng Ià trời đất nhóm nhen
- Năm đại hồng thủy (cũng)
phen lụt này
- Hô nhâm, hô quý, đông tây
- Cho dân biết trưóc ba ngày dẫn
lương
- Tư tờ về tận thôn hương
- Bảo rằng Nhà nước cũng thương dân
bần
- Tinh tòa văn võ đại thần
- Đồng nghị chẩn bần cứu trợ lê dân
- Nhứt thiết phải tính cho cân
- Bò trâu mất hết, hai ngân một phần
- Đàn bà góa bua cô thân
- Một xuất chẩn bần tính trọn mười xu
- Người mù, qủa phụ, vong phu
- Đôi mắt lòa mù : phát một giác hai
12 xu
- Giấy tờ ghi đúng biên lai
- Công bằng cấp phát, đừng ai tư tình
- Đội Trinh, Quản Cuộc. Lệ Tinh
- Sang năm át Sửu đệ trình lên trên
- Đông Tây, tả hữu xếp biên
- Ghi lại một bức văn truyền về sau
- Hỏi người cầm bút đâu
- Quế Chi, Phú Lạc, phường câu quê
nhà
- Bỉ cực rồi lại ~thái hòa
- Cù phong lục thủy vậy mà khắc ghi
-
- Quế Chi tức Chức Phương
- Thôn Phú Lạc
|