Trích Nhật báo Người Việt
Chuyện Nhượng Ðất Cho Tàu: Trở lại
các hiệp định Việt Nam ký kết với Trung quốc
Lời
giới thiệu:
Mới đây trong một bài báo đăng trên tờ tuần báo Viễn Đông
Kinh Tế xuất bản ở Hồng Kông, tướng Lý Gia Hồng, cựu Đại
Sứ Trung Quốc ở Hà Nội đã lên tiếng bênh vực những
bản hiệp ước và hiệp định ký kết giữa Việt Nam và
Trung Quốc vào cuối năm 1999 và 2000. Ngoại trừ những lời
tuyên bố chính thức của nhà cầm quyền Bắc Kinh tại
những buổi lễ ký kết các văn kiện, ít khi người ta thấy
một nhân vật về phía Trung Quốc lên tiếng về vấn đề nàỵ
Nhân có bài viết của ông cựu Đại Sứ, mục "Á Châu,
Nhìn từ bên ngoài" hôm nay có bài nhận định sau đây
của Trần Sơn Nam về
vấn đề này...
Vào cuối năm 1999 và 2000, Việt Nam đã ký kết với
Trung Quốc một số văn kiện về vấn đề biên giới và lãnh
hảị Văn kiện năm 1999 chính thức được gọi là Hiệp Ước
biên giới trên đất liền và hai văn kiện sau năm 2000 được
gọi là Hiệp Định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định
hợp tác nghề cá.
Về những văn kiện này, người ta đã được nghe
những lời tuyên bố ca tụng việc ký kết của nhà cầm
quyền hai bên, Trung Quốc và Việt Nam, tại những buổi lễ
chính thức.
Tuy nhiên sau ngày ký kết, phần nhiều người ta chỉ
nghe thấy những lời biện bạch về phía Việt Nam (ví có
sự chống đối ở trong nước và ngoài nước về tính cách
mờ ám và bất bình đẳng của những hiệp ước và hiệp định)
còn về phía Trung Quốc thì người ta ít nghe thấy ai lên
tiếng.
Gần đây, trong một bài báo trên tờ tuần báo Viễn Đông
Kinh tế xuất bản tại Hồng Kông (ngày 22 tháng8) bỗng nhiên
người ta thấy có lời tuyên bố của tướng Lý Gia Hồng, trước
đây là Đại Sứ của Trung Quốc tại Hà Nội (1995-2000).
Cựu Đại Sứ Lý Gia Hồng sau khi ca tụng tình hữu nghị
giữa hai nước và những bản hiệp ước và hiệp định đã
được ký kết, đặc biệt khẳng định rằng "những
quần đảo Hoàng Sa và Trường Să Xisha và Nansha) thuộc lãnh
thổ Trung Hoa từ thời xưa và Trung Quốc có chủ quyền trên
những đảo này cũng như phần lãnh hải xung quanh những đảo
này).
Trước hết về lời tuyên bố của ông cựu Đại Sứ
ca tụng việc ký kết những văn kiện kể trên thì ai cũng
hiểu, một khi những văn kiện đó rõ ràng có lợi cho Trung
Quốc thì lời ca tụng của ông phải được coi là lẽ đương
nhiên. Ai lại đi ca tụng những điều không thuận lợi cho
quyền lợi của dân tộc?
Lập luận của ông tuy nhiên không được vững. Ông cho
rằng vào thời có sự thỏa thuận giữa người Pháp và nhà
Thanh cuối thế kỷ 19 (hiệp ước Thiên Tân, 1885, Patenotre-Lý
Hồng Chương, và hiệp ước xác định đường Ranh Brevié,
1887) những điều kiện kỹ thuật chưa được chuẩn đích nên
việc thương thuyết đã để lại nhiều điều khoản còn
trong vòng tranh cãị Thực ra những hiệp ước này đã
được quốc tế công nhận là khá rõ ràng và người ta
phải đợi hơn một thế kỷ về sau này mới thấy Trung
Quốc cho là chưa rõ.
Ngoài ra, ông cho rằng những văn kiện mới được ký
kết đã đem lại sự công bằng và đặt nền tảng cho tình
hữu nghị và hòa bình giữa giữa hai nước cũng như cho hòa
bình và ổn định của cả vùng.
Nếu thực sự là công bằng, tại sao cho đến nay
những văn kiện không được công bố. Không công bố thì
tất nhiên ai cũng phải đi đến kết luận là có điều gì
mờ ám, khuất tất, ngược lại với sự trong sáng và minh
bạch mà người dân nước nào cũng có quyền đòi hỏi nơi
chính quyền.
Trên đây mới chỉ là nói về bản hiệp ước và hai
bản hiệp định đã được ký kết năm 1999 và năm 2000.
Trong bài viết trên tờ Viễn Đông Kinh Tế, ông cựu Đại
Sứ lại còn đề cập đến một vấn đề hệ trọng, không
riêng gì cho Việt Nam mà còn cho cả những nước trong vùng
biển Nam Hải, vấn đề các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Sau khi xác quyết một cách dứt khoát chủ quyền
của Trung Quốc trên những quần đảo này "từ thời xưa"
(ông không nói rõ từ thời xưa nào) và trước năm 1970 không
có nước nào trong vùng phản đối chủ quyền của trung
Quốc trên quần đảo Trường Sa.
Có lẽ ông quên rằng sau Hội Nghị Hòa Bình San
Francisco năm 1950, (miền Nam Việt Nam có mặt tại hội nghị này)
Nhật Bản phải rút khỏi những đảo đã chiếm đóng trong
thời chiến, và sau đó Pháp đã có đài khí tượng trên
quần đảo Hoàng Sa (Paracels) và hải quân Pháp luôn luôn
tuần tiễu xung quanh quần đảo Hoàng Sa (Spratleys).
Đến khi Pháp ký với chính quyền Bảo Đại trao trả
lại hoàn toàn độc lập cho Việt Nam ngày 2 tháng 6, 1954, thì
chính quyền miền Nam về sau này đương nhiên được coi là
thừa kế những gì người Pháp đã có. Và vì vậy cho nên vào
tháng 1 năm 1974, những lực lượng quân sự của miền Nam
Việt Nam mới phải chống đỡ trên đảo Trường Sa một
cuộc xâm lăng của Trung Quốc. ss
Còn nói tới sự kiện chính quyền miền Bắc nhìn
nhận bản tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc quyết định về
hải phận của Trung Quốc, mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền
của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa, thì ai cũng hiểu
đây chỉ là một bức công hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng
thời đó gửi ông Tổng Lý Quốc Vụ Viện Trung Quốc Chu Ân
Lai (bức công hàm đề ngày 14 tháng 9, 1958).
Bức công hàm này không phải là một hiệp ước, vả
lại nếu có một giá trị pháp lý nào đó thì cũng chỉ giàng
buộc có miền Bắc Việt Nam mà thôị Ông cựu Đại Sứ Lý
Gia Hồng, qua bài báo trên tờ Viễn Đông Kinh Tế đã đặt
lại một vấn đề hệ trọng còn đang trong vòng tranh cãi không
những đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả
những nước có quyền lợi trong vùng. Trong những năm vừa
qua, các nước trong khối ASEAN đã nhiều lần cố gắng để
tiến tới một thỏa thuận với Trung Quốc về một quy ước
hành sử (code of conduct) trong vấn đề này, nhưng cho đến nay
vẫn bị nhà cầm quyền Bắc Kinh khước từ.
Về những lời ca tụng những bản hiệp ước và hiệp định
năm 1999 và 2000 giữa Trung Quốc và Việt Nam của ông cựu Đại
Sứ Lý Gia Hồng thì người dân Việt Nam không lấy làm ngạc
nhiên. Nhưng về những lời khẳng định của ông về Trường
Sa, thì người dân Việt Nam có quyền chờ đợi những lời và
hành động phản kháng của nhà cầm quyền Hà Nội.
|