|
- Trích từ:
Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt - Triều Nguyên - Nhà Xuất Bản Thuận
Hóa
-
-
21 . CHÊ NHAU
-
-
Con Chó chê Khỉ lắm lông,
-
Khỉ lại chê Chó ăn dông ăn
dài.
-
Lươn ngắn lại
chê
Trạch dài;
-
Thờn
Bơn méo miệng
chê
Trai lệch mồm.
-
-
Ghi theo
NASL
IV: 46a, ĐNQT:
99b, CDNĐ:
34, TNPD
II: 42 và TC8D
l:
322.
Sách
LHCD:
27a ghi hai cặp lục bát làm thành hai bài riêng (với vài khác biệt nhỏ).
Các sách ít:
226,
VNP7:
95, NGCK:
183b ghi cặp lục bát
sau thành bài độc lập.
-
-
Bài ca dao có thể được tách
làm hai phần
mỗi phần là một cặp lục
bát, có
tư cách
là một văn bản độc lập. Dẫu vậy, khi ghép chung, chúng bổ sung cho nhau để
tạo nên ý nghĩa khái quát
hơn
Ở cặp lục bát đầu, Khỉ bị
Chó chê lắm
lông", nó chê lại Chó là "ăn dông ăn
dài".
Sự thật, thì Chó có thể không nhiều lông bằng Khỉ, nhưng vẫn thuộc loài
lông
lá che thân (sự phủ lông này trở thành dấu hiệu
chỉnh,
để
nhận diện chúng; “Con
mèo con chó có lông;
Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai"
[TNPI
I: 68]); Khỉ không "ăn dông ăn dài" như Chó,
nhưng
cũng không phải là loại ăn theo bữa, đúng giờ giấc nhất định. Nghĩa
là
khi bị Chó chê "lắm lông",
Khỉ có thể chê lại Chó lông không ít (và khi bị Khỉ chê
ăn
dông
ăn
dài,”Chó cũng
có
thể
lấy chuyện
ăn lai rai của Khỉ để chê lại).
Khỉ
từng làm điều
ấy
với chuột
Chù:
-
-
Chuột
Chù
chê Khí rằng hôi.
-
Khỉ lại
trả
lời
“Cả họ mày thơm!
-
[NASL IV Và 45bl
]
-
-
Cách trả
miếng
này vừa bớp
chát vừa sâu sắc,
bởi nó hàm ý, khi nói
lên cái xấu của
người
khác. người
nói đồng thời
cũng nhận ra cái xấu
ở bản
thân, khác với kẻ không thấy được khuyết điểm
của
mình (như Chuột Chù không
biết mình hôi
hôi
như chuột chù
–
nên đã đi chê khỉ).
-
-
Ở cặp lục
bát sau
cũng
tương tự, Lươn nghĩ mình ngắn
nên
chê
Trạch.
Thờn
Bơn cho miệng mồm mình
thẳng
ngay, nên chê cá
Chai. Và một loạt
những chê bai kiểu
này mà ca đao đã
từng
nêu; ví
dụ:
-
-
Cú lại
chê
bai
vọ rằng
hôi,
-
Giẻ cùi chê
Khách
dài
đuôi
vật vờ
-
1
TNPD
I : 69 ]
-
-
Thường thì con người hay mắc
một số khuyết điểm nhất định; điều mà người khác mắc, mình cũng có thể mắc
phải. Đây
cũng là một đặc điểm chung
của loài người (mà
không có chúng, hay
giải
trừ được chúng, con người sẽ
biến thành một sự vật mới mang
dáng
vóc người - Thần, Phật chẳng
hạn), có khác nhau chăng, cũng chỉ
ở
mức độ (phụ thuộc nhiều vào
hoàn cảnh, môi
trường sống) mà thôi.
-
-
Cho nên, phải
thận
trọng, cân nhắc khi xem
xét
khuyết điểm
của
người; còn như việc chê
cười,
khinh thị người
khác, thì lại càng cẩn
trọng hơn, hoặc tốt
nhất là không nên, như ca dao có bài nêu:
-
-
Ai ơi chớ
vội
cười nhau;
-
Cười người hôm
trước,
hôm sau người cười.
-
[HT:
1226]
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#21">Chê
Nhau</a>
[Trở về
Trang Đầu] [Trang Trước] [Trang
Sau] [Trang Cuối]
-
-
22. CHÌ VÀ ĐỒNG
-
-
Chì khoe Chì
nặng
hơn Đồng,
-
Sao Chì
chung
đúc nên cồng nên chiêng?
-
-
Ghi theo
NASL
IV: 1b
và HT:
226.
Các sách
TCBD
I: 405, TNPD
I:
86 và
DCNTB
l:
192 cũng có chép bài ca dao với vài khác
biệt
nhỏ
(như 1
CBD
1 và TNPD
1 ghi t,chuông"
thay vì (chiêng"
Ở dỏng bát).
-
-
Chì nặng hơn Đồng thật sự (tỉ
khối của
chì là 1 l,34;
của đồng là 8,96),
nên Chì có khoe thì
cũng "người ta thường
tình".
không
thể căn cứ vào chuyện nặng nhẹ để đặt điều kiện làm chất liệu cho
cồng
chiêng được, lập luận này
thiếu logic
(bởi
nặng nhẹ chưa hẳn là một trong số những thuộc tính, yêu cầu của chất liệu
cồng, chiêng; và giả sử đây là một thuộc tính đi nữa thì cũng là một thuộc
tính
không cơ bản, không thể căn cứ để đặt điều kiện tuyệt đối như
vậy).
-
-
Vậy thì "nặng", một đặc điểm
nổi trội của Chì, được bài ca dao dùng theo nghĩa bóng (dạng tương tự cách
nói "nặng kí" khi
đánh
giá một con người, vụ
việc dùng trong khẩu ngữ hiện
nay,
tạm hiểu
lả "tốt",
hay",
"giỏi",
có
lợi",... Hiểu như vậy
thì bài ca dao hợp lẽ. Và lời chất vấn (dòng
bát) là một bằng
chứng, một sự việc cụ
thể để phản bác, phủ
định sự khoe khoang của
Chì.
-
-
Mỗi người có những sở trường
sở đoản riêng, phát huy sở trường thì dễ thành công, đối phó bằng sở đoản
thì dễ thất bại; khoe sở
trường
của mình đã không nên, tự
cho mình hơn hẳn người
khác về mọi phương
diện (có phần phóng đại cái sở
trường
kia), lại càng không nên - chỉ có những kẻ cuồng dại
mới
làm như thế.
-
-
Đó là ngụ ý của bài ca dao.
-
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#22">Chì
Và Đồng </a>
-
-
23.
CHIẾC
ÁO ÔNG CHỒNG VÀ NHỮNG BÀ VỢ THỢ MAY
-
-
Sớm
mai đi chợ Gò Vấp,
-
Mua một xấp vải;
-
Đem về
-
Con Hai nó cắt,
-
Con
Ba nó may,
-
Con Tư nó đột,
-
Con
Năm nó viền,.
-
Con Sáu đơm nút,
-
Con
Bảy
vắt khuy.
-
Anh
bước cẳng ra đi,
-
Con Tám níu, con Chín
trì
-
Mười ơi! Sao em để vậy, còn gì áo anh!
-
-
Ghi theo HHĐN:
140-141, HMN:
45, TCBD
l:
220
Các sách
TCBD
I: 414, HT:
459, VNP1
I:
163 và VNP7:
299-300 cũng
có chép bài ca dao-
-
với vài khác biệt
nhỏ
'1
-
-
Đây là lời kể của người chồng, ông đi mua
vải để những bà vợ may áo cho
mình
Có sáu bà, từ bà Hai (tức
đầu,
cả) đến bà Bảy-
được kể là có tham gia vào việc
may vá. Ba bà vợ còn lại tuy
không
nêu ra, nhưng có thể hiểu là
cũng đã góp phần hoàn thành chiếc
áo.
-
-
Người
đàn ông mặc chiếc áo mới “bước
cẳng
ra đi". Nếu đi ăn
cỗ, đi làm việc thì
hẳn
không xảy ra chuyện "níu",
"trì”
(lôi
kéo
thật mạnh về phía
mình,
bằng
cách
ngồi bệt hay nằm dài
xuống) Và dù hành
động “níu”,
"trì" bài ca dao chỉ kể là
của bà Tám, bà
Chín, nhưng ta vẫn có thể
suy luận là gồm cả những bà vợ khác, chỉ trừ một người, đó là bà Mười,
người vợ duy nhất được chồng gọi
bằng
em
với vẻ trìu mến (trong
lúc
các bà khác đều được gọi
bằng
"con"). Điều
này chứng tỏ bà Mười
được cưng
chiều, và do đó, không cần phải
có hành động giành giựt chồng như những bà
kia.
-
-
Ông
ta đi đâu mà các
bà vợ gây căng
thẳng như vậy? Câu trả lời? Có thể được tìm thấy
là:
Ông ta đi kiếm bà Mười Một!
-
Tục ngữ có câu
-
"Làm
trai lấy vợ bé, nhà giàu tậu
nghé hoa",
-
lại có
câu
-
"Sông bao nhiêu nước cũng
vừa;
-
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.
-
Nhiều vợ được coi là một biểu
hiện
quan trọng về địa vị và sự giàu sang của người đàn ông. Điều này được luật
pháp, tập quán phong kiến thừa
nhận
Nó làm nảy sinh những
ham muốn
về luyến ái không cùng. Ở người đàn ông, và tạo nên
những mâu
thuẫn lớn trong hôn nhân và gia đình, coi
khinh người phụ nữ.
-
-
Bài
ca dao dựng lên
chiếc
áo ông chồng
được các bà vợ may làm
biểu trưng cho địa vị
và sự giàu có ấy. Nhưng cũng chính những bà
vợ
làm hỏng
chiếc
áo do chính họ tạo nên. Mâu thuẫn giữa sự giàu
sang
và những bà vợ cũng là mâu
thuẫn giữa quyền sống, quyền
được
hạnh phúc của người phụ nữ với chế độ đa thê. Thể hiện sự
mâu
thuẫn này, bài ca dao nhằm lên án sự phi lí, bất công mà người phụ nữ phải
gánh chịu.
-
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#23">Chiếc
Áo Ông Chồng và những bà Thợ May </a>
-
-
24.
CHIM,
CÁ MẮC CẠN VÌ
THAM MỒI
-
-
Chim tham ăn sa vào vòng
lưới,
-
Cá mê
mồi
mắc phải lưỡi
câu;
-
Ai ơi phải
khắc
ghi sâu.
-
Noi gương chim cá, mai sau
răn mình.
-
-
Ghi theo
CDĐTM:
39.
-
Vì tham ăn, mê mồi mà Chim
sa lưới. Cá mắc câu (con
người
đã lợi
dụng đặc điểm tham ăn này của Chim, Cá để đơm, bẫy chúng).Con người cũng phải ăn mới
sống được. Tục ngữ có nhiều
câu đề cập đến miếng ăn, câu
gây ấn tượng
nhiều
nhất,
có
lẽ là:
-
-
Miếng ăn là miếng tồi tàn,
mất ăn một miếng lộn gan
lên đầu,
-
-
Cái tạo ấn tượng là đã nêu hai mặt
đối lập nhau của vấn đề: vừa coi
khinh, vừa coi trọng nó. Đó là miếng ăn theo
nghĩa biểu vật, nghĩa trần trụi.
-
-
Nhưng lắm khi miếng ăn được
hiểu
theo nghĩa rộng, là lất cả
-
những gì phục vụ cho đời
sống vật chất của con người. Con
người
-
tùy hoàn cảnh, địa vị mà có
thể phạm sai lầm do
tham/mê
miếng
ăn
-
kiểu này; như Nguyễn Gia
Thiều
từng nêu: -
-
-
Mồi phú quý nhử làng xa mã,
-
Bộ
vinh
hoa
lừa
gã công khanh.
-
-
(Cung
Oán Ngâm Khúc" - dòng 8/-82)
-
Chuyện "tham ăn", "mê mồi"
đã
hiểu theo mức độ
phạm vi hay
-
hoàn cảnh nào. ít
nhiều
cũng dẫn con người
đến
sai
lạc, có thể
-
-
thành tội phạm; và bài
ca
dao đã lấy đó làm một lời răn đáng ghi .-
-
nhớ.
-
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#25">CHIM,
CÁ MẮC CẠN VÌ
THAM MỒI</a>
-
25.
CHIM
CHÍCH GHẸO BỒ NÔNG
-
-
(1) Chim
Chích
mà ghẹo Bồ Nông,
-
Đến khi nó mổ: "Lạy ông tôi chừa!"
-
-
(II) Chèo Bẻo mà ghẹo Vàng
Anh,
-
Đến khi nó đánh
lạy
anh tôi
chừa"
-
-
Bài (l)
ghi theo CVPD;
151 ĐNQT:
100b, LHCD:
34a, TNPD
l:
87 và VNPS:
21a. sách
NASL
IV: 36b cũng có chép bài ca dao với chỗ khác biệt: ghi
“lại”
thay vì 'mà"
Ở dòng lục. Bài (II) ghi theo
TCDGBH:
90.
-
-
Chim chích là loài chim nhỏ,
ăn sâu bọ; Bồ Nông là loài
chim lớn
mỏ to và dài,
cổ có bìu
đựng mồi (thường
là cá ), sống từng
đàn ở bờ sông, biển. Chim Chích
mà chòng ghẹo, chọc
tức
Bố
Nông, để có
Nông giận mổ cho thì rõ là
nguy khốn.
-
-
Chèo
Bèo
là loài chim ăn sâu bọ, so với Vàngnb thoảng
anh) thì không mạnh bằng, nếu
chọc tức để Vàng Anh đánh cho thì khó bề chống
đỡ
-
Hai bài ca dao đang bàn là
bài
văn bản đồng
nghĩa.
Bài ca dao dưới đây cũng mang ý tương
tự
-
-
Chó
thấy hùm
ngủ vuốt
râu,
-
Đến
khi hùm dậy đầu
lâu chẳng
còn.
-
TVNP8
:
-
-
Trong cư xử, quan hệ với kẻ
mạnh (sức vóc, thế lực lớn mạnh), người yếu cần khéo léo;
thận trọng, và chớ để kẻ mạnh
giương
nanh
vua
do bị xúc phạm bởi
sự thiếu chín chắn
của
mình. Đó
là lời
khuyên
được
rút ra từ hai bài ca dao.
-
(Câu Tục ngữ này,
đồng thời cũng mang
tính
chất ca dao (xem xuất xứ Ở bài bắt chước Thúc Sinh, học
đòi
Hoạn Thư")
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#25">CHIM
CHÍCH GHẸO BỒ NÔNG</a>
26. CHIM CHÍCH VE PHƯỢNG HOÀNG
Con chim Chích đổ thẳng ngành tre,
Được bao lông cánh mà ve Phượng Hoàng.
Ghi theo CDTCM: 255.
Chim Chích là loài chim nhỏ, ăn sâu bọ; Phượng Hoàng là một loài chim vóc
lớn và đẹp lộng lẫy, được coi là chứa của các loài chim(1)
Chim Chích mà đòi ve (tán tỉnh người khác giới, để có thể đi đến quan hệ
lứa đôi) Phượng Hoàng là không tự biết thân phận mình. Tục ngữ có câu đũa
mốc (mà) chòi mâm son", với ý, người đang ở vị trí thấp kém lại muốn được
kết hôn với người có địa vị cao sang. Chuyện chim Chích ve Phượng Hoàng"
là một biểu hiện sinh tổng của câu tục ngữ này. vỉa đó là lời ngụ của bài
ca dao.
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#26">CHIM CHÍCH VE PHƯỢNG HOÀNG</a>
27. CHIM KHÔN, CÁ KHÔN
Chim khôn tránh lưới, mắc dò;
Cá khôn tránh đó, tránh lờ, mắc đăng.
Ghi theo NASL IV: 44a.
(1) Theo hoàng Phê (chủ biên 1994. từ điểm tiếng Việt. Sđd, ti.776) trù
Phương Hoàng là "chim tưởng tượng, có hình thù giống chim trĩ, được coi là
chúa của loài chim".
68
Có thể chia bài ca dao
làm hai phần, mỗi phần một dòng (ở đây là một câu) theo mô hình A khôn (thì
cũng chỉ) tránh được y, (nhưng vẫn mắc phải Y. Chim khôn thì cũng chỉ
tránh được lưới, nhưng vẫn mắc phải dò.
Lưới, dò (một loại bẫy,
thường làm bằng dây thòng long) khiến chim bị túm bắt; đó, lờ, đăng
khiến cá gặp nạn Không thể nói chắc trong các thứ lưới bẫy trên, loại
nào lại hại hơn loại nào, mà còn tùy thuộc vào từng con chim, cá cụ thể,
tùy thuộc vào không gian, thời gian chăng bẫy; nhưng thông thường thì
chim dễ bị mắc dò hơn, cá dễ bị đăng bủa hơn. Điều này nhằm nói lên, cái
khôn, cái hiểu biết có mức độ, có giới hạn của nó. Mỗi khi có sự vật,
hiện tượng tác động vượt khỏi giới hạn này, cái khôn mất tác dụng. Ví dụ,
chàng trai ở bài ca dao dưới đây, rất lo lắng về việc mất khôn trước lời
nhỏ to " mà cô gái mình yêu đang gặp phải:
Người ngoan lên
bãi hái chè,
trái dăm ba lá xuống khe ta ngồi.
Chim khôn chết mệt vì mồi,
Người khôn chết mệt lử lời nhô to:
Chim khôn tránh lưới nắc dò,
Cá khôn tranh mãi, lt~l~g lờ mắc đang.
Ngư~ỳi ngoan yêu đến tôi chăng?
[QHBN: 267]
Từ đó, có thể rút ra ý nghĩa khái quát, đồng thời, là lời khuyên ( ủn
bài ca dao: Cái khôn, sự hiểu biết của ta trước muôn vàn sự vật, tiện
tượng (tự nhiên và xã hội) rất hạn chế, không nên quá tự tin, ỷ lại vào
nó, mà trước mối tình huống, cần phải lượng định, tìm tòi những kiến
giải mới, để tránh mắc phải sai lầm.
69
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#27">CHIM
KHÔN, CÁ KHÔN </a>
28. CHÓ NÊU CÔNG
"Ruộng se mạ úa chẳng chộ mi đâu,
Chúa đặt mươn xuống mi đã ngồi chầu trước tiên?"
- "Có tao, tao sủa hậu hậu,
Không thì kẻ trộm chặt đầu mi đi!".
Ghi theo CDNT: 284.
"Chộ": thấy; "mươn": mâm nan có 4 chân, dùng để dọn cơm ăn; "chúa": có
thể hiểu như chủ, người chủ. Lời sau là của Chó, lời đầu có khả năng do
Mèo nói (vì Mèo và khó đều giống nhau ở điểm là cùng xuất hiện lúc vừa
dọn mâm lên, giữa chúng cũng thường ganh tị cấu xé nhau).
Nông dân phải vật lộn với đồng ruộng, dãi nắng dầm mưa mới kiếm được cơm
ăn, vậy mà vừa đặt mâm xuống, Chó đã ngồi bên Sao hỗn thế? Lời giãi bày
của Chó rất cụ thể, rõ ràng: Chó canh giữ nhà không để kẻ trộm lấy cắp
của cải và cả việc chặt đầu Mèo (hay kẻ buông lời trách cứ nó), là một
thành viên nằm dưới sự bảo vệ của Chó. Sở dĩ lời giải thích của Chó có
vẻ cáu gắt, kẻ cả (cách xưng hô "tao" - mi" cách đặt Mèo dưới tay
kẻ trộm trong lúc Chó thì cự lại chúng, theo cách "sủa hậu hâu) là vì
vậy
Dẫu sao, Chó cũng chỉ "ngồi chầu bên mâm chứ không phải ngồi ăn (nó
thường được chủ cho ăn, sau khi họ ăn xong). Và vì công sức như đã nêu,
thì chuyện hưởng thụ của Chó chưa phải đã tương xứng. Chó nặng lời với
kẻ đã không nhận thức đúng vai trò của nó như vậy không hẳn là quá đáng.
Lời ngụ Ở đây là: Không nên quá coi trọng việc tạo ra sản phẩm mà xem
nhẹ chuyện bảo vệ những sản phẩm được làm ra.
70
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#28">CHÓ NÊU CÔNG
</a>
29. CHỒNG EM NGỒI VÕNG ĐIỀU
Chồng em anh đã mất chưa?
Tay cầm thẻ bạc, ngồi đưa võng điều'.
Chồng em, anh đã biết rồi,
Thắt lưng chạc lạt, chia xôi cho làng".
Ghi theo CDNT: 122. Sách này cũng ghi một số bản khác
của bài ca dao như ở dòng hai: "ngồi trong cửa sổ mà đưa võng điều; Ở
dòng bốn: "tay cầm cái vẹm hay ngồi góc mươn hoặc "khi đứng thì thấp,
khi ngồi thì cao Sách VHDGQB: 424 có chép bài mang nội dung tương tự:
Em khoe chồng em đậu được cửu lãnh cảnh binh,
Hôm qua anh cho nằm dưới đình Quảng Long.
Cầm thẻ bạc, ngồi võng điều là cung cách của quan lớn.
Thắt lưng bằng sợi lạt và chia xôi cho làng là dáng vẻ và việc làm của
người nghèo khổ, thấp hèn. Người phụ nữ tỏ ra rất tin tường, tự
hào về chồng mình, mới đem ra khoe với một người (là bà con, bạn cũ) mà
chị nghĩ anh ta chưa biết chồng mình ra sao, rằng: chồng "là rất cao
sang, quyền quý. Gặp phải anh chàng bỗ bã, hoặc loại chỉ quen nói đúng
bản chất sự vật, vạch mặt chỉ tên anh chồng của chị này là một kẻ tôi
đòi hèn mạt, chẳng có gì để xưng tụng.
Chúng ta nhận ra, cả hai đều nói
quá, nói phóng đại sự thật để đạt mục đích, ở chị nọ là khoe khoang, Ở
anh kia là hạ bệ. Truyện ngắn "Quê mẹ" của Thanh Tịnh có một chi tiết
gần gũi với bài ca dao: Thảo lấy chồng khác làng, anh này làm hương thơ
(nhận và phát thư từ trong làng), hôm nọ, về quê giỗ ông một mình, người
bố hỏi sao chồng con không qua, Thảo đáp "Dạ, nhà con mắc việc quan"; cô
Khuê, chị em chú bác với Thảo nghe vậy, trề môi nói: "Thứ đồ làm hương
thơ mà cũng gọi là việc quan". Chi tiết này có vẻ xác thực, không phóng
đại (hay thu bé) như bài ca dao, nhưng là mục đích ý nghĩa đều giống
nhau. Trong cuộc sống, những điều tự đề cao minh, được phân tích chi li;
chúng được đúc kết, thể hiện trong một loạt các khái niệm? tự cao, tự
đại, tự tôn, tự kiêu, tự mãn, tự ái, tự đắc tự hào... Sở dĩ chúng được
xác định tường tận như vậy, vì tuy mới khái niệm đều có nội hàm và ngoại
diên riêng, song chúng vẫn có những chỗ giao nhất định, và đều là những
ngáng trở cho sự hòa nhập của một cá thể đối với cộng đồng.
Đi Cùng với cái tôi tự thân là cái tôi ăn theo, cái
tôi sống kèm (sống kèm vợ/(hồng, ông bà, cha mẹ, con cái, anh em, bạn bè,
họ tộc, làng xã,...), phổ biến nhất là với chồng và con cái; khoe chồng
cao quý, hàm ý mình cũng sang giàu (khoe con học giỏi, cũng ít nhiều đề
cao sự thông minh của bản thân, là bố/mẹ chúng). .
Tục ngữ Pháp có câu "Cái tôi
thì đáng ghét" (Le moi choque toujours). Có thể bổ sung cho rõ hơn: Cái
tôi, cả cái tôi tự thân và cái tôi ăn theo, đều đáng ghét; cho nên,
trong giao tiếp, cần tránh nói những điều đáng ghét kia, đó cũng là cách
ngăn ngừa sự xúc phạm của người đối thoại với bản thân. Ngụ ý của bài ca
dao là vậy <a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#29">CHỒNG EM NGỒI VÕNG ĐIỀU</a>
30. CHỒNG SAO, VỢ
VẬY Chồng đánh bạc, vợ đánh
bài,
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
Ghi theo NASL II: 2b, TNPD l: 88, VNPI l: 133, \/.
p7: 273, HT? 234
và TCBD II: 191.
Có 7 trên 14 âm tiết được lặp lại, nói cách khác, chỉ có 7 âm tiết
(đồng thời là 7 từ, kể cả những từ gần nghĩa dùng thành cặp như
hai-ba, bạc-bài), được dùng để tao nên bài ca dao. Cặp lục bát được
tổ chức thành bại vế đối xứng nhau, trong mỗi vế, lại theo hình thức
tiểu đối:
Chồng [cờ bạc], vợ [cờ bạc]
Chồng [trai gái], vợ [trai gái] chồng sao, vợ vậy
Vợ tỏ ra bình đẳng không thua kém chồng (ca dao từng đề cập
1 vấn đề tương tự theo hướng này:
- Chồng ăn cho, vợ ăn nem;
- Đứa ở có thèm, mua thịt mà ăn.
[ĐNQT: 89al); dù theo lễ giáo và phong
tục truyền thống, những việc làm này của người vợ sẽ bị lên án
mạnh hơn người chồng. Nhưng xét nguyên nhân, dựa theo cách diễn
đạt của bài ca dao, thì do người chồng gây ra trước, có vẻ như bày
đường cho vợ làm, nên phải chịu trách nhiệm (khi gia đình, sự
nghiệp bị đổ vỡ
Bài ca đao có thể chỉ là sự chê trách chuyện chồng sao vợ vậy
cùng đi theo con đường hư hỏng. Dù vậy, ít nhiều vẫn tìm thấy một
lời khuyên bảo Ở đây, đó là: để bảo ban được vợ, cùng nhau xây
dựng hạnh phúc gia đ nít, người chồng phải nghiêm túc, không bạc
bài, trác táng; còn môi khi đã hư đốn, thì người vợ cũng cố quyền
như vậy mà không trách cứ được.
<a href="http://cadaotucngu.com/giaithich/cadaongungon3.htm#30">CHỒNG
SAO VỢ VẬY</a>
[Trở về
Trang Đầu] [Trang Trước] [Trang
Sau] [Trang Cuối] |