Vấn đề chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Vài nhận xét
về lập luận của hai chính phủ Bắc Kinh và Đài Loan
Giáo Sư Tạ quốc Tuấn
(I)
Cuộc tranh
chấp về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa đã kéo dài hơn bốn
chục năm rồị Ngoại trừ trận đụng độ lớn giữa hải quân Việt Nam Cộng hòa
và hải quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng sa ngày 19 và 20 tháng 1 năm 1974,
trong đó Trung Cộng với một lực lượng lớn hơn lại không bị phân tán cũng như
suy yếu vì nội chiến nên đã cưỡng chiếm được quần đảo này, và một trận nổ súng
nhỏ ngày 14.3.1988 tại vùng quần đảo Trường sa giữa hải quân của hai nước cộng
sản Việt Nam và Trung Hoa, phần nhiều sự tranh chấp đều diễn ra dưới hình thức
tranh biện qua các lời tuyên bố, thông cáo, văn thư hay bạchổ thư của các chính
phủ Việt Nam và Trung Hoa thuộc cả hai phe quốc gia và cộng sản. Ngoài ra, còn
có nhiều bài báo, biên khảo hay sách viết về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng sa và Trường sa của một số học giả, nhà văn, nhà báo hai bên nữa.
Để biện minh hành động xâm lăng của mình năm 1974 trái với tinh thần của bản
Hiến chương Liên hiệp quốc mà Trung Cộng từ khi gia nhập vào tháng 10 năm 1971
đã cam kết tôn trọng và bảo vệ, Trung Cộng đã nại cớ hai quần đảo Hoàng sa (hay
là Tây sa trong từ ngữ Trung Hoa) và Trường sa (Trung Hoa gọi là Nam sa) vốn từ
lâu là một phần lãnh thổ của Trung quốc nhưng đã bị Nhật bản xâm chiếm trong
Thế chiến II và đã được chính phủ Trung Hoa Dân quốc thu hồi lại năm 1946, sau
khi trận chiến này chấm dứt. Trung Hoa Dân quốc cũng đã phụ họa sự biện minh
này. Các luận cứ của Trung Cộng còn được nhiều tài liệu ngoại quốc nhắc đi nhắc
lại.
Trong bài này chúng tôi sẽ đưa ra những nhận xét về các luận cứ của các giới
trong chính phủ Trung Hoa, quốc gia lẫn cộng sản, đã cố gắng chứng minh chủ
quyền của Trung quốc trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa. Tuy các phe tranh
chấp gồm có Việt Nam (trước là Việt Nam Cộng hòa, sau là Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam), Trung quốc (cả Trung Hoa Dân quốc lẫn Trung Hoa Nhân dân
Cộng hòa quốc), Phi luật tân, và gần đây lại còn thêm cả Mã lai á, Brunei,
v.v..., nhưng hai phe tranh chấp chính là Việt Nam và Trung Hoa. Chúng
tôi không nghiên cứu luận cứ của Việt Nam vì nhiều người đã làm việc này rồi,
Trái lại, chúng tôi chỉ cứu xét luận cứ của Trung quốc thôi, vì ngoài lý do
Trung quốc là một trong hai phe tranh chấp chính ra mà còn vì lý do là dù là
quốc gia hay cộng sản, Trung quốc vẫn có một ảnh hưởng và một thế lực quan trọng
tại Đông nam Á châu.
Mặt khác, chúng tôi cũng giới hạn thời gian nghiên cứu vào từ sau trận Thế
chiến thứ II trở lại đây thôi, không đề cập tới thời gian trước đó. Chỉ từ khi
vấn đề Hoàng sa và Trường sa được đề cập tới trong một hiệp ước quốc tế, Hoà
ước Cựu kim Sơn ký ngày 8 tháng 9 năm 1951, nhất là từ khi người ta tìm thấy có
nhiều túi dầu rất quan trọng ở trong vùng này, sự tranh chấp chủ quyền mới trở
nên ngày một mạnh. Thêm vào đó là biến cố Đảng Cộng sản Trung quốc nắm được
chính quyền ở Hoa lục ngày 1.10.1949, đã làm sôi động chính trường quốc
tế, nhất là ở vùng Đông Á và Đông nam Á châu, từ thập niên 1950 trở đi.
Sau hết, bài này chỉ cứu xét các luận cứ chính thức của cả hai chính phủ Trung
Cộng và Đài loan thôị Luận cứ của các nhân vật hay cơ quan ngoài chính quyền sẽ
là đối tượng của một bài nghiên cứu khác.
Các tài liệu sử dụng trong bài này nếu là của chính phủ đều phát xuất từ Bắc
kinh hay Đài bắc. Nếu có nguyên bản Hoa văn thì chúng tôi dùng làm tài liệu
chính; nếu không, chúng tôi dùng bản dịchổ Anh ngữ cũng của hai chính phủ đó.
Trong trường hợp không có hai loại tài liệu này, chúng tôi căn cứ vào bản dịchổ
Anh ngữ của nhiều nguồn khác, nhất là của Tòa Tổng Lãnh sự Hoa kỳ tại Hương
cảng (như các nhà nghiên cứu các vấn đề Hoa lục đã dùng trước năm 1971) hay của
các đài phát thanh Hoa kỳ, Anh quốc, v.v...
Vì sử dụng các tài liệu thuộc nhiều loại khác nhau như vậy nên không có sự
thuần nhất trong việc ghi chép nhiều địa danh và đặc biệt là nhân danh Trung
Hoa. Chúng tôi cố gắng ghi các từ đó bằng Việt ngữ. Tuy nhiên khi không biết rõ
một từ viết bằng Hoa ngữ như thế nào, chúng tôi sẽ không ghi bằng Việt ngữ vì
sợ có thể ghi sai và bắt buộc giữ lại lối ghi âm trong tài liệu mà chúng tôi
dùng. Lối ghi âm này có khi là bằng pinyin (phan âm) được dùng ở Hoa lục hay
trong các tài liệu của các người hay cơ quan ngoại quốc biên soạn từ thập niên
1980 trở đi, hoặc bằng phương pháp Wade Giles hiện vẫn được dùng trong phần
lớn các tài liệu phát xuất từ Đài loan hoặc của các tác giả thuộc phe
Trung Hoa Dân quốc cũng như trong các tài liệu ngoại quốc trước thập niên 1980.
Ngoài ra, có một số danh từ riêng hay địa danh mà người Trung Hoa dùng khác
người Việt Nam. Trong tài liệu này, khi đứng về phương diện Trung quốc, chúng
tôi sẽ dùng các từ theo lối của người Hoa, còn khi đứng về phương diện Việt Nam
chúng tôi dùng các từ theo người Việt.
Chẳng hạn người Hoa nói Tây sa, Nam sa, Nam hải (hay Nam Trung quốc hải),
Quốc vụ Viện (Trung Cộng), Hành chính Viện (Đài loan), v.v..., còn người Việt
lại nói Hoàng sa, Trường sa, Đông hải (hay biển Đông), Chính phủ...
oOo
Nhận xét về các luận cứ
Luận cứ của các chính phủ Trung Hoa Dân quốc (gọi tắt là Đài loan) và Trung Hoa
Nhân dân Cộng hòa quốc (tức Trung Cộng) thường được phát biểu những khi có một
biến cố hay sự việc nào có liên quan tới vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng sa và Trường sa.
Ị Phản ứng đối với lời tuyên bố của Tổng thống Phi luật tân Quirino (1951)
Năm 1945 Nhật bản bị các nước Đồng minh đánh bại ở Thái bình dương phải đầu
hàng. Một trong những việc nước này phải làm khi đầu hàng là từ bỏ các đất đai
ở ngoại quốc mà Nhật bản đã chiếm được trong thời kỳ toàn thịnh của chế độ quân
phiệt, trong đó có hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa. Bốn năm sau, Đảng Cộng
sản Trung quốc chiếm được toàn thể Hoa lục và Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc
ra chào đời ngày 1.10.1949, còn chính phủ Trung Hoa Dân quốc phải lánh nạn sang
Đài loan. Với hai biến cố trọng đại này vấn đề tranh chấp chủ quyền trên hai
quần đảo Hoàng sa và Trường sa bắt đầu bước vào giai đoạn mới.
Lần đầu tiên
Trung Cộng chính thức lên tiếng về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo này là
khi trong một cuộc họp báo ở Manila ngày 17.5.1951 Tổng thống Phi luật tân
Quirino đã tuyên bố là vì quần đảo Trường sa ở kế cận quần đảo Phi luật tân nên
nó phải thuộc về Phi luật tân. Hai ngày sau, ngày 19 tháng 5, Bắc kinh đã có
phản ứng. Chính phủ Trung Cộng tuyên bố như sau:
"Lời
tuyên truyền vô lý của Chính phủ Phi luật tân đối với lãnh thổ của Trung quốc
rõ ràng là sản phẩm chỉ thị của Chính phủ Hoa kỳ. Bọn khiêu khíchổ Phi luật tân
và những k Hoa kỳ ủng hộ chúng phải bỏ ngay mưu đồ mạo hiểm đó đi, nếu không
thì hành động này có thể đưa tới những hậu quả nghiêm trọng. Nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa không bao giờ để cho bất cứ một ngoại bang nào xâm lược quần đảo
Nam sa hay bất cứ đất đai nào khác thuộc về Trung quốc."(1)
Tuy nhiên Trung Cộng chỉ nói qua loa như vậy thôi chứ không đưa ra được một
bằng chứng nào, dù là lịch sử hay pháp lý, cho thấy Trường sa thuộc quyền Trung
Hoa làm chủ. Sự thiếu sót này kéo dài cho tới hiện tạị
IỊ Dịp có
Hoà hội Cựu kim sơn (1951)
Đến đầu tháng 9 năm 1951, theo lời mời của Chính phủ Hoa kỳ, năm mươi mốt quốc
gia trước kia đã từng tham gia hay có liên hệ tới cuộc chiến chống xâm lăng
Nhật bản từ năm 1939 đến năm 1945 đã tham dự Hội nghị Hoà bình nhóm họp ở Cựu
kim Sơn (Hoa kỳ) để thảo luận vấn đề chấm dứt tình tra.ng chiến tranh và tái
lập bang giao với Nhật bản. Điểm đáng chú ý là cả hai phe Quốc gia và Cộng sản
Trung Hoa đều không được mời tham dự hội nghị. Trong hội nghị, vấn đề chính là
thảo luận bản dự thảo hòa ước do hai nước Anh và Hoa kỳ đề nghị ngày 12.7.1951.
Ngày 8.9.1951, ngoại trừ Liên sô và một số nước đàn em, các nước tham dự hội
nghị đã ký hòa ước với Nhật bản(2).
Vì thấy mình bị Hoa kỳ gạt ra ngoài hoà hội, các nhà lãnh đạo Bắc kinh, ngay từ
cuối năm 1950, đã có phản ứng. Một mặt họ ra một số tuyên bố chính thức, mặt
khác họ cho phép đăng các bài báo để lên án việc không mời Trung Cộng tham dự
hoà hội và để trình bày quan điểm của Bắc kinh về một số vấn đề cần phải được
thảo luận, trong đó có vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng sa và Trường sa. Vì
giới hạn của đề tài, ở đây chúng ta chỉ xét tới các luận cứ của chính phủ Trung
Cộng đối với vấn đề chủ quyền này thôi.
Ngày 4.12.1950 Châu Ân lai, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao, trong bản tuyên bố
đầu tiên của chế độ, đã nêu ra căn bản chính để ký một hoà ước với Nhật bản:
"Bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và các chính
sách căn bản đối với Nhật bản sau khi nước này đầu hàng đã được các quốc gia
trong y hội Vin đông thỏa thuận và thông qua ngày 19.6.1947
các văn kiện quốc tế mà Chính phủ Hoa kỳ đã ký két là căn bản chính cho một hòa
ước liên hợp với Nhật bản."(3)
Châu Ân lai còn nói thêm:
"Nhân dân Trung quốc rất ước muốn sớm có một hoà ước liên hợp với Nhật bản
cùng với các quốc gia đồng minh khác trong thời kỳ Thế chiến thứ haị Tuy nhiên
căn bản của hoà ước phải hoàn toàn thíchhợp với bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước
Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và các chính sách căn bản đối với Nhật bản sau
khi nước này đầu hàng được qui định trong các văn kiện này."(4)
Tuy bản tuyên bố trên của Trung Cộng không đề cập đến vấn đề chủ quyền đối với
Hoàng sa và Trường sa mà chỉ đề cập tới các vấn đề khác, nhưng vì nó đã nêu ra
quan điểm chính yếu của Bắc kinh nên chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ nó cùng
với bản tuyên bố ngày 15.8.1951 là tuyên bố chính thức của Bắc kinh về vấn đề
chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa để tìm hiểu giá trị các luận
cứ của Trung Cộng.
Thực vậy, khi nghiên cứu dự thảo hoà ước Cựu kim sơn của Anh Mỹ gửi cho các
quốc gia được mời tham dự hoà hội, Chính phủ Trung Cộng thấy điều 2 của bản dự
thảo này không qui định là hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa mà Nhật bản từ bỏ
phải dược trao cho quốc gia nào. Vì thế
ngày 15.8.1951, sau khi đề cập tới quan điểm của Trung Cộng về từng vấn đề một
được nêu trong bản dự thảo(5), Châu Ân lai đã tuyên bố:
"... Dự thảo Hiệp ước qui định là Nhật bản sẽ từ bỏ mọi quyền đối với đảo
Nam uy (đảo Spratly) và quần đảo Tây sa (quần đảo Paracel), nhưng lại cố ý
không đề cập tới vấn đề tái lập chủ quyền trên hai quần đảo này. Thực ra, cũng
như các quần đảo Nam sa, quần đảo Trung sa và quần đảo Đông sa, quần đảo Tây sa
(quần đảo Paracel) và đảo Nam uy (đảo Spratly) lúc nào cũng là lãnh thổ của
Trung quốc. Dù các đảo này đã có lúc bị Nhật bản chiếm đóng trong một thời gian
trong trận chiến tranh xâm lăng do đế quốc Nhật bản gây ra, sau khi Nhật bản
đầu hàng Chính phủ Trung Hoa đã thu hồi những đảo này.
"Chính phủ Nhân dân Trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do đó
tuyên bố: dù Dự thảo Hiệp ước Anh Mỹ có chứa đựng các điều khoản về vấn đề này
hay không và dù các điều khoản này có được soạn thảo như thế nào, chủ quyền bất
khả xâm phạm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên đảo Nam uy (đảo Spratly)
và quần đảo Tây sa (quần đảo Paracel) sẽ không vì thế mà bị ảnh hưởng."(6)
Họ Châu sau đó kết luận vấn đề này bằng Cách phủ nhận giá trị bất cứ một thỏa
ước nào ký với Nhật bản mà không có sự tham dự của Bắc kinh:
"Chính phủ Nhân dân Trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một lần
nữa tuyên bố: Nếu không có sự tham dự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
trong việc chun bị, soạn thảo và ký hòa ước với Nhật bản dù nội dung và kết quả
một hiệp ước như vậy có như thế nào, Chính phủ Nhân dân Trung ương cũng coi hòa
ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp, và vì vậy sẽ vô hiệụ"(7)
Tuy rằng lời kết luận này nhằm chung toàn thể hòa ước với Nhật bản, nó cũng bao
trùm luôn cả vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa.
Trong bản
tuyên bố này chúng ta nhận thấy có những điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, tuy tuyên bố là đảo Nam uy và quần đảo Hoàng sa lúc nào cũng là lãnh
thổ của Trung quốc, Châu Ân lai lại không nêu ra một chi tiết nào để chứng minh
chủ quyền của Trung quốc đối với các đảo này.
Đành rằng trong một bản tuyên bố chính thức của chính phủ không thể nào kể hết
mọi chi tiết hay dẫn chứng, nhưng ít nhất nó cũng phải nêu ra một vài thí dụ cụ
thể để h trợ lời tuyên bố và để giúp người ngoại cuộc có thể hiểu rõ một Cách
kháchổ quan hơn những điều được trình bày trong bản tuyên bố. Làm thế nào người
ngoại cuộc có thể thông cảm và ủng hộ lời tuyên bố nếu nó không mang một chi
tiết nào, dù là nhỏ nhất, để giúp người ngoại cuộc có thể kiểm chứng tính Cách
xác thực và chân thực của lời tuyên bố? Nếu tuyên bố chỉ để tuyên bố thì lời
tuyên bố rất yếụ Chúng ta cũng nên biết rằng trong bản tuyên bố này khi đề cập
đến các vấn đề khác họ Châu đã nêu nhiều chi tiết để chứng minh hay biện hộ.
Vì vậy sự không dẫn chứng của Châu Ân lai đối với vấn đề chủ quyền trên hai
quần đảo Hoàng sa và Trường sa thật đáng cho chúng ta phải ngạc nhiên và khiến
chúng ta phải tự hỏi phải chăng vì biết Trung Cộng quả không có một căn bản nào
vững vàng, về pháp lý cũng như về lịch sử, để chứng minh chủ quyền này nên
Trung Cộng phải bỏ không viện dẫn chứng cớ?
Thứ hai, bản tuyên bố này, cũng như các bản tuyên bố khác sau này của Trung
Cộng, và cả của Đài loan, đã đề cập tới việc Chính phủ Trung Hoa thu hồi Hoàng
sa và Trường sa sau khi Nhật bản đầu hàng tháng 8 năm 1945.
Một câu hỏi được đặt ra: việc Chính phủ Trung Hoa (khi đó là Trung Hoa Dân
quốc) thu hồi hai quần đảo này có phải là một hành vi hợp pháp không?
Chúng ta biết rằng năm 1938, trước khi xy ra trận Thế chiến thứ II, Nhật bản đã
chiếm Lâm đảo thuộc quần đảo Hoàng sa, nói là để khai thác thương mại nhưng
thực ra chính là để lập căn cứ chiến lược làm bàn đạp tấn công vùng Đông nam Á.
Theo R. Serene thì "Năm 1938 Nhật bản mượn cớ khai thác thương mại đã
chiếm Lâm đảo để bành trướng sự kiểm soát tới các đảo Cam tuyền và Linh
côn..."(8). Rồi đến ngày 31.3.1939, Bộ Ngoại giao Nhật bản ra một thông
cáo loan tin là ngày hôm trước, 30.3, Nhật bản đã quyết định đặt quần đảo
Trường sa duới quyền kiểm soát của Nhật bản vì lý do tại đây đã thiếu một chính
quyền hành chính địa phương nên đã làm thiệt hại đến quyền lợi của Nhật bản(9).
Trong suốt thời gian của trận Thế chiến thứ II, Nhật bản đã đóng quân trên hai
quần đảo này cho tới khi đầu hàng quân đội Đồng minh.
Vào cuối năm 1943, trong lúc chiến tranh đang ở mức độ ác liệt nhất thì các nhà
lãnh đạo tối cao của Hoa kỳ, Anh và Trung Hoa Dân quốc đã bí mật gặp nhau tại
Cairo, thủ đô nước Ai cập, từ 23 đến 27 tháng 11(10) để thảo luận các chiến
lược tiêu diệt phe Trục (Đức Nhật). Ngày 26, Tổng thống Hoa kỳ Franklin D.
Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Trung Hoa Dân quốc
Tưởng Giới thạchổ đã ký một bản tuyên cáo chung (thường được gọi là Tuyên cáo
Cairo) trong đó có một đoạn như sau:
"Đối tượng của các nước này [tức là của ba nước Đồng minh] là phải tước bỏ
quyền của Nhật bản trên tất cả các đảo ở Thái bình dương mà nước này đã cưỡng
đoạt hay chiếm đóng từ khi có trận Thế chiến thứ I năm 1914 và tất cả các lãnh
thổ Nhật bản đã cướp của người Trung Hoa, như là Mãn châu, Đài loan và Bành hồ,
phải được hoàn trả Trung Hoa Dân quốc. Nhật bản cũng sẽ phải bị trục xuất khỏi
các lãnh thổ khác chiếm được bằng võ lực và lòng tham."(11)
Đọc đoạn
tríchổ dẫn trên chúng ta thấy Tuyên cáo Cairo có hai qui định quan trọng. Thứ
nhất, chỉ có các đất Mãn châu, Đài loan và Bành hồ được qui hoàn cho Trung quốc
thôị Thứ hai, còn các lãnh thổ khác mà Nhật bản chiếm được thì bản tuyên cáo
này chỉ qui định việc trục xuất Nhật bản thôi, chứ không hề nói tới việc qui
hoàn chúng cho Trung quốc. Chỉ có điều đáng tiếc, và đó cũng là nguyên nhân gây
ra những vụ tranh chấp về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa sau
này, là Tuyên cáo Cairo đã không nói các lãnh thổ khác ấy phải được qui hoàn
cho nước nào.
Quyết định này đã được Tổng Thư ký đảng Cộng sản Liên sô Joseph Stalin tán
thành. Trong một bữa ăn trưa công tác giữa ông, Tổng thống Roosevelt và Thủ
tướng Churchill tại Tòa Đại sứ Liên sô ở Tehran (Ba tư) ngày 30.11.1943, khi
Churchill hỏi ông đã đọc bản Tuyên cáo Cairo chưa thì Stalin cho biết ông
đã đọc rồi và còn nói thêm là mặc dù ông không thể cam kết điều gì, ông hoàn
toàn tán thành bản tuyên cáo và tất cả những điều nói trong đó. ng cho hay việc
hoàn Mãn châu, Đài loan và Bành hồ lại cho Trung quốc là phải(12). Ngoài ra,
Stalin hoàn toàn không hề nói gì đến hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa.
Một năm rưỡi sau, quyết định của tam cường tại Hội nghị Cairo được tái xác nhận
trong một hội nghị thượng đỉnh tam cường khác nhóm tại Potsdam từ 17.7 đến
2.8.1945 để ấn định các điều kiện cho Nhật bản đầu hàng. Tổng thống Hoa kỳ, Thủ
tướng Anh (13) và Tổng thống Trung Hoa Dân quốc đã ra một tuyên ngôn (thường
gọi là Tuyên ngôn Potsdam) ngày 26.7.1945 trong đó có ghi là "Các điều
khoản của bản Tuyên cáo Cairo sẽ được thi hành"(14).
Tại hội nghị Potsdam này các nhà lãnh đạo tam cường đã quyết định chia Đông
dương làm hai khu vực để cho tiện việc giải giới quân đội Nhật bản đóng tại đâỵ
V tuyến thứ 16 được chọn làm ranh giới: việc giải giới ở khu vực bắc v tuyến ủy
thác cho Quốc quân Trung Hoa và ở khu vực phía nam do liên quân Anh n đảm
nhận(15). Vì quần đảo Hoàng sa nằm ở giữa hai vĩ tuyến thứ 15 và 17 nên
việc giải giới quân đội Nhật trú đóng ở đây thuộc thm quyền Quốc quân Trung
Hoa. Trái lại, việc giải giới ở quần đảo Trường sa phải do liên quân Anh n đảm
nhận do lẽ quần đảo này nằm giữa hai v tuyến thứ 8 và 12.
Nhật bản khi đầu hàng đã chịu điều kiện qui định trong bản Tuyên cáo Cairo và
ghi nhận trong Văn kiện Đầu hàng ngày 2.9.1945(16). Đồng thời, khi ra lệnh cho
quân đội Nhật bản ở ngoại quốc đầu hàng và nộp vũ khí cho quân đội Đồng minh,
Nhật hoàng Hirohito đã ban hành Tổng Mệnh lệnh số 1, trong đó điều I khoản (a)
qui định là:
"Các tư lệnh Nhật bản và tất cả lục, hải quân cùng các lực lượng phụ thuộc
ở trên đất Trung Hoa (ngoại trừ Mãn châu),Đài loan và Đông Pháp ở 16 độ bắc v
tuyến đầu hàng Đại Nguyên soái Tưởng Giới thạch"(17).
Việc giải giới quân đội Nhật bản của Quốc quân Trung Hoa ở bắc v tuyến thứ 16
được coi là bắt đầu từ ngày 9.9.1945, khi Quốc quân Trung Hoa do Tướng Lư Hán
chỉ huy tiến vào thành phố Hà nội để thi hành nhiệm vụ này, và chấm dứt vào
cuối tháng 8 năm 1946 khi đội quân chiếm đóng Trung Hoa cuối cùng rời khỏi Việt
Nam(18) sau khi Trung Hoa Dân quốc đã ký với Pháp một thỏa ước ngày 28.2.1946
nhường lại quyền giải giới cho quân đội Pháp(19). Tuy nhiên theo Bành phẩm
quang viết trong bài "Quần đảo Nam sa tiền đồn phòng thủ lãnh hải"
thì:
"Ngày 26.10.1946, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân quốc gồm 4 chiến hạm,
mi chiếc chở một số đại diện của các bộ và 59 binh s thuộc trung đội độc lập về
cảnh vệ của hải quân (tiền thân của thủy quân lục chiến) từ cảng Ngô tùng xuất
phát ngày 29 tháng 10 và ngày 29 tháng 11 thì các tàu Vnh hưng và Trung kiện
mới tới đảo Vnh hưng thuộc quần đảo Tây sa và đổ bộ lên đâỵ Ngày 4 tháng 12
chiến hạm Vnh hưng còn đi qua đảo La bột, đảo Ba bột v.v... rồi trở lạị Còn hai
chiến hạm Thái bình và Trung nghiệp đến ngày 9 tháng 12 mới tới quần đảo Nam
sa. háng 12 hoàn tất công tác chiếm đóng đảo Thái bình, ngày 15 tháng 1 chiến
hạm Thái bình tới các đảo I thái, Đế đô, Song tử, Nam cực, v.v... rồi trở về.
Đến đây công tác chiếm đóng và tiếp thu quần đảo Tây sa và Nam sa đã hoàn tất
và lần lượt trở về cảng Du lâm."(20)
Như vậy việc Quốc quân Trung Hoa đổ bộ lên hai quần đảo này, mà cả hai Chính
phủ Trung Hoa Dân quốc và Trung Cộng gọi là "tiếp thu", là một hành
vi bất hợp pháp vì nhiều lý do:
a) Theo quyết định của hội nghị Potsdam, Quốc quân Trung Hoa chỉ có quyền giải
giới quân đội Nhật bản ở trên quần đảo Hoàng sa chứ không có quyền ở trên quần
đảo Trường sa vốn thuộc thẩm quyền liên quân Anh n. Chúng tôi không biết và
cũng không thấy có tài liệu nào cho thấy là liên quân Anh n hay chính phủ hoàng
gia Anh đã ủy thác việc giải giới quân đội Nhật bản ở đây cho Quốc quân Trung
Hoa. Việc giải giới phải thực hiện trước cuối tháng 8/1946. Tuy nhiên Quốc quân
Trung Hoa lại đổ bộ quân lính lên hai quần đảo này vào hai tháng 11 và 12 năm
1946 và tháng 1 năm 1947, như thế là đã làm một hành vi xâm lược chứ không phải
là hành vi thụ ủy hợp pháp, vì từ tháng 8/1946 hành vi giải giới của Quốc quân
Trung Hoa không còn căn bản pháp lý nữa.
Thực vậy,
theo Hiệp ước Về Việc Pháp Khước từ Trị ngoại Pháp quyền và các Quyền Liên hệ
khác ở Trung quốc, do Đại sứ Pháp tại Trung Hoa là Jacques Meyrier ký với Bộ
trưởng Ngoại giao Trung Hoa Dân quốc Wang Shih chieh ngày 28.2.1946 và có hiệu
lực từ ngày 8.6.1946, lãnh thổ của Quốc dân Chính phủ Trung Hoa là Trung Hoa
Dân quốc (nghĩa là Hoa lục và các đảo lân cận) và của Chính phủ Cộng hòa
Pháp là Pháp quốc, Algeria, tất cả các thuộc địa, các xứ bảo hộ ở hải
ngoại cùng là các thác quản địa của Pháp (điều 1). Mặt khác, theo
văn thư trao đổi cùng ngày, việc quân đội Pháp thay thế Quốc quân Trung Hoa
(lúc đó đang chiếm đóng ở Viêt nam phiá bắc v tuyến thứ 16) để canh giữ tù binh
Nhật bản, duy trì an ninh trật tự được thực hiện từ ngày 1 đến ngày 15
tháng 3 và chấm dứt tr nhất là ngày 31 tháng 3.
Trong khi đó, theo Hoà ước Pháp Hoa do Khâm sai Đại thần Thanh triều là Tổng
đốc Trực lệ Lý Hồng chương ký với đại diện Pháp là Trung tá Hải quân Fournier
tại Thiên tân ngày 11.5.1884, Trung quốc khước bỏ mọi quyền đối với Việt
Nam và Việt Nam từ ngày đó trở đi không còn là một thuộc quốc của Trung Hoa
nữa.
Hoà ước này
được tái xác nhận hơn một năm sau trong một hòa ước khác ký ngày
9.6.1885. Mặt khác, sau khi Thế chiến thứ II chấm dứt, hoàng đế Việt Nam khi đó
là Bảo đại (1925 1945) ngày 11.3.1945 đã hủy bỏ tất cả các hiệp ước bảo hộ Pháp
Việt và tuyên bố Việt Nam độc lập. Nền độc lập của Việt Nam được tái xác
nhận ngày 2.9.1945 khi Đảng Cộng sản Việt Nam nắm chính quyền
(19.8.1945). Chính nước Pháp cũng công nhận nền độc lập của Việt Nam trong điều
1 của Tạm ước Pháp Việt ký ngày 6.3.1946. Nói Cách khác, kể từ 11.3.1945 trở đi
lãnh thổ của nước Việt Nam độc lập gồm giải đất từ ải Nam quan đến mũi Cà mâu
và các đảo phụ thuộc Việt Nam ở ngoài khơi, kể cả hai quần đảo Hoàng sa và
Trưởng sa. Như vậy đối với cả hai nước Pháp và Trung Hoa, Việt Nam không phải
là thuộc quốc của nước nào cả.
Do đó, việc "tiếp thu" hay "giải giới" của Quốc quân Trung
Hoa do Bành phẩm quang báo cáo kể trên, dù là để thi hành quyết định của
các quốc gia đồng minh trong trận Thế chiến thứ II, đúng là một hành vi bất hợp
pháp, trái với các nguyên tắc căn bản của luật quốc tế. Nó đã vi phạm đến chủ
quyền của nước Việt Nam độc lập.
c) Bản Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam hoàn toàn không đề cập tới
vấn đề trao hoàn cho Trung quốc hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa mà Nhật bản
cưỡng chiếm vào đầu trận thế chiến thứ IỊ Sự thiếu sót này có phải là do các
nhà lãnh đạo đồng minh sơ ý hay quên không? Lẽ d nhiên là không. Trái lại,
chúng ta phải giải thíchlà các vị ấy đã không quan niệm hai uần đảo này là phần
lãnh thổ của Trung quốc. Điểm đặc biệt đáng chú ý hơn nữa là chính Tổng thống
Trung Hoa Dân quốc, Đại Nguyên soái Tưởng Giới thạch, đã tham dự cả hai hội
nghị và đã ký vào cả Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam, chứ không phải một
người đại diện nào khác để bảo là có thể đã không thi hành đúng chỉ thị của
Chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Nếu hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa thực sự
thuộc chủ quyền của Trung quốc thì không có lý gì họ Tưởng chỉ đòi trao hoàn có
Mãn châu, Đài loan và Bành hồ thôi mà lại không đòi luôn Hoàng sa và Trường sa.
Hơn nữa, trong bản văn của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam chúng ta cũng
không thấy từ "vân vân" để có thể nói là vấn đề đã
dược bao hàm trong hai văn kiện này.
Mười hai năm sau khi tham dự Hội nghị Cairo và ký bản Tuyên cáo, gày 8.2.1955
Tưởng Giới thạchổ vẫn còn nhắc lại là:
"Trong thông cáo công bố vào lúc bế mạc hội nghị, chúng tôi đã tuyên
bố là tất cả các lãnh thổ do Nhật bản 'cướp' của Trung Hoa, kể cả Đông tam
tỉnh, Đài loan và Bành hồ phải được trao hoàn lại cho Trung Hoa Dân quốc. Lời
tuyên bố này đã được bản Tuyên ngôn Potsdam công nhận và Nhật bản chấp nhận khi
nước này đầu hàng."(21)
Một lần nữa, ông hoàn toàn không nói gì đến việc phải trao hoàn hai quần đảo
Hoàng sa và Trường sa cho Trung quốc. Vào lúc ông nói lời trên ông không
phải là không biết có sự tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo này mà cả
chính phủ của ông lẫn chính phủ của Mao Tra.chổ đông đang đòi.
d) Giải giới
quân đội Nhật bản ở Hoàng sa và Trường sa không thể hiểu là tiếp thu hay thu
hồi được. Hai hành động này có bản chất khác nhaụ Giải giới chỉ có nghĩa
là tước bỏ tất cả vũ khí của một đội quân nào để cho đội quân đó không thể dùng
vào việc chiến tranh được nữa. Dù việc giải giới đó được thực hiện trên
phần lãnh thổ của một nước khác vớI nước có phận sự giải giới nó cũng không thể
là lý do để cho nước giải giới chiếm lãnh thổ đó được, trừ phi trong hiệp định
ủy thác việc giải giới đó có qui định thêm cho phép nước giải giới được chiếm
lấy lãnh thổ đó. Ngược lại, tiếp thu ay thu hồi ngụ ý chỉ nước làm công việc
này tiếp nhận lạI phần lãnh thổ của mình trước đó đã bị một nước khác chiếm
đoạt.
Như chúng ta được biết, cả Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam chỉ cho phép
Trung Hoa Dân quốc giải giới quân đội Nhật bản ở quần đảo Hoàng sa thôi, chứ
không hề cho phép Trung Hoa Dân quốc thu hồi quần đảo này cùng là giải giới
quân đội Nhật bản ở quần đảo Trường sa hay thu hồi quần đảo đó. Vì thế việc
chiếm đóng và thu hồi hai quần đảo này của Trung Hoa Dân quốc là bất hợp pháp
và vi phạm trầm trọng luật quốc tế vì đi trái với quyết định của Tuyên cáo
Cairo và Tuyên ngôn Potsdam.
Vì các lý do vừa kể trên, chúng ta phải nhìn nhận rằng lờI tuyên bố ngày
15.8.1951 của Châu Ân lai đã mâu thuẫn với lờI tuyên bố ngày 4.12.1950 cũng của
họ Châụ Một đằng Trung Cộng đòi các quốc gia phải tuân theo hai văn kiện quốc
tế này và các chính sách căn bản đối với Nhật bản sau khi nước này đầu hàng,
trong đó việc chia đôi Đông dương để giải giới quân đội Nhật bản đóng tại đây
cũng là một chính sách căn bản, một đằng lại cho việc tiếp thu hai quần đảo
không hề được qui định trong hai văn kiện quốc tế là một hành vi hợp pháp.
Thứ ba, Trung Cộng coi bất cứ một hòa ước nào ký với Nhật Bản mà không có sự
tham dự của Trung Cộng vào việc chuẩn bị, soạn thảo và ký kết là bất hợp pháp
và vô hiệụ Hòa ước Cựu kim sơn ngày 8.9.1951 ký với Nhật bản có phải là một hòa
ước bất hợp pháp và vô hiệu không?
Theo định nghĩa của luật quốc tế, một hiệp ước bị coi là bất hợp pháp khi nào
nó nhằm theo đuổi một đối tượng vô luân, khi nào nó tạo ra những nghĩa vụ
bất hợp pháp trái với các nguyên tắc của luật quốc tế đã được mọi quốc gia
công nhận, trái với nhân quyền, trái với các nguyên tắc căn bản của Hiến chương
Liên hiệp quốc, hoặc giả một hiệp ước mà sự thi hành sẽ tạo nên một
bất công pháp lý cho một quốc gia đệ
tam, hoặc khi nó được được ký kết bất xứng hay mâu thuẫn với các nghĩa
vụ của hiệp ước có trước mà tất cả hay một trong các nước kết ước đã ký (22).
Chính Trung Cộng cũng chấp nhận giải thíchnày và quan điểm của Trung Cộng được
hai học giả luật quốc tế nổi tiếng là Thiệu Kim phủ và Trần Thể cường trình bày
trong hai bài biên khảo
Khi bàn về Hòa ước Cựu kim sơn, Trần Thể cường đã nhắc lạI định nghĩa của
luật quốc tế là "một quốc gia có bổn phận không được ký các hiệp ước nào
không phù hợp với các nghĩa vụ của các hiệp ước có trước. Việc ký kết những
hiệp ước như vậy là một hành vi bất hợp pháp không thể tạo nên những kết quả
hợp pháp có lợi cho quốc gia vi phạm luật.(23)
Mặt khác, trong bài "'Lưỡng Cá Trung Quốc' Mậu Luận Hòa Quốc Tế Pháp
Nguyên Tắc"(24), Thiệu Kim phủ đã viện dẫn lời của L. Oppenheim cho rằng
"Hiệp ước phải phù hợp với luật pháp, biểu hiện trong các nguyên tắc của
luật quốc tế được công nhận một Cách phổ biến cũng như trong các tập tục của
các quốc gia"(25) và "các nghĩa vụ mâu thuẫn với các nguyên tắc
của luật quốc tế đã được mọi quốc gia công nhận thì không thể là đối tượng của
một hiệp ước được."(26) Ngoài ra, ông cũng viện dẫn điều 103 của Hiến
chương Liên hiệp quốc nói rằng khi có sự phân tranh giữa các nghĩa vụ của
một quốc gia hội viên Liên hiệp quốc theo Hiến chương này và các nghĩa vụ
do hiệp ước quốc tế khác tạo nên, nghĩa vụ theo Hiến chương Liên hiệp
quốc sẽ ưu thắng. Rồi ông kết luận là hiệp ước nào không phù hợp với Hiến
chương Liên hiệp quốc sẽ bị coi là vô hiệu không thể chấp hành được.
Đem áp dụng các định nghĩa nêu trên vào Hòa ước Cựu kim sơn, chúng ta
thấy các quốc gia ký hòa ước với Nhật bản là để chấm dứt tình tra.ng chiến
tranh có từ khi xảy ra trận Thế chiến thứ II, khôi phục địa vị của Nhật trên
trường quốc tế, làm giảm tình tra.ng căng thẳng trên thế giới ngõ hầu xúc tiến
việc tạo dựng và duy trì hòa bình trên thế giới, v.v... Như vậy các quốc gia
này đã tuân thủ các nguyên tắc căn bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và theo
đuổi một đối tượng cao quý, chứ không phải là vô luân. Riêng đối với Trung
Cộng, nếu muốn, nước này có thể viện cớ không được mời tham dự hòa hội Cựu kim
sơn để coi hoà ước không thể chấp hành đối với mình thôi, chứ không thể coi nó
là hòa ước bất hợp pháp và vô hiệu được.
Ngược lại, đứng về phương diện hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa, chính Trung
Cộng đã có hành vi bất hợp pháp khi nhà cầm quyền Bắc kinh cổ võ và biện minh
cho việc Trung Hoa Dân quốc đem quân đến chiếm hai quần đảo Hoàng sa và Trường
sa dưới danh nghĩa tiếp thu.
Thực vậy, điều 2 của Hoà ước Cựu kim sơn sau khi đã nói về việc Nhật từ bỏ mọi
quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với tất cả các lãnh thổ nào không phải
là lãnh thổ chính của Nhật bản mà nước này đã chiếm được từ khi có trận Thế
chiến thứ I cho đến khi chấm dứt trận Thế chiến thứ II đã qui định thêm trong
đoạn (f) như sau:
"Nhật bản khước từ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi trên quần
đảo Trường sa và quần đảo Hoàng sa."
Các qui định trong điều 2 như vậy đã theo đúng với quyết định của Hội
nghị Cairo năm 1943 được diễn tả trong bản Tuyên cáo Cairo mà Trung Cộng vẫn
luôn đòi phải được coi là căn bản chính cho một hòa ước ký với Nhật bản đã nói
ở bên trên. Nói Cách khác, chính Trung Cộng đã coi quyết định của các đại cường
là hợp lý, hợp tình và hợp pháp.
Về giá trị của bản Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam, cả hai phe Quốc Cộng
Trung Hoa đều nhìn nhận là có hiệu lực. Chúng ta có thể nêu ra vài thí dụ.
Về phía Trung Hoa Dân quốc, ngày 8.2.1955, khi duyệt xét tình hình thế giới,
Tổng thống Tưởng Giới thạch, đã nói như sau:
"Tôi còn nhớ rằng năm 1945, cố Tổng thống Hoa kỳ Roosevelt và đương kim
Thủ tướng Anh Churchill đã cùng tôi họp hội nghị ở Cairo để thảo luận về các
vấn đề liên quan tới việc tiến hành chiến tranh chống Nhật bản và hậu quả của
nó. Trong thông cáo công bố vào lúc bế mạc hội nghị, chúng tôi đã tuyên bố là
tất cả các lãnh thổ do Nhật bản 'cướp' của Trung quốc kể cả Đông Tam tỉnh, Đài
loan và Bành hồ phải được trao hoàn cho Trung Hoa Dân quốc. Lời tuyên bố này đã
được bản Tuyên ngôn Potsdam công nhận và Nhật bản chấp nhận khi nước này đầu
hàng. Như vậy giá trị của nó, tức là của bản Tuyên cáo Cairo, dựa trên một số
thỏa thuận và không ai có thể hoài nghi được ...........
"Có ngưới phủ nhận giá trị của bản Tuyên cáo Cairo ... Nếu người ta có thể
phủ nhận giá trị của bản Tuyên cáo Cairo, thì bản Tuyên ngôn Potsdam và tất cả
các hiệp ước, thỏa ước quốc tế được ký kết từ khi chấm dứt Thế chiến thứ II sẽ
ra saỏ Có thể phủ nhận giá trị của những văn kiện này được không? Nếu như các
nước dân chủ không thừa nhận bản Tuyên cáo Cairo mà chính họ đã ký kết thì làm
thế nào mà bây giờ hay trong tương lai họ có thể chỉ tríchổ khối Cộng sản xâm
lăng xé bỏ các hiệp ước, thỏa ước được?..."(27)
|