| |
|
TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG
- 3B
QUYỂN BA
THẦN THOẠI
DOÃN QUỐC SỸ
Sưu tập
TRUYỆN ÔNG HOÀNG RÂMA
(Ramâyana)*
Kể lại theo : Ethel Beswick, Tales of Hindu Gods and
Heroes, Jaico, Bombay 1960
Mấy
Lời Nói Đầu
(Theo LÊ XUÂN KHOA sđd 174-79)
Thiên anh hùng ca Râmâyana cùng với thiên anh hùng ca
Mahâbhârata thường được ví với hai thiên trường ca của
Homère : Odysée và Iliade.
Trong sự hình thành cá tính dân tộc, những nhân vật truyền
kỳ trong văn chương bình dân và dã sử thường có ảnh hưởng
mạnh mẽ không kém gì những bậc anh hùng trong chính sử. Có
thể nói rằng tất cả các bậc vĩ nhân của Ấn Độ đều đã được
hun đúc nuôi dưỡng bởi những công nghiệp siêu phàm của các
nhân vật trong hai thiên anh hùng ca trên. Trong vòng ba
ngàn năm nay, những tác phẩm ấy thành cái di sản quí báu
của nhân dân Ấn Độ, món ăn tinh thần của người trí thức
cũng như người thất học nam hay nữ, giàu hay nghèo.
Một tác phẩm văn học sở dĩ trở nên bất tử và được truyền
tụng rất sâu rộng không phải chỉ nhờ ở tính cách lý tưởng
hay nội dung đạo đức của nó. Điều kiện quan trọng hơn là
nó phải thể hiện được những khía cạnh đặc biệt của đời
sống tình cảm, tư duy và sinh hoạt vật chất của con người
bằng nghệ thuật độc đáo.
Cả hai thiên anh hùng ca đều được diễn tả bằng những câu
thơ Sloka (câu thơ đôi : hai câu một vần) là điệu thơ giàu
nhạc điệu và phổ thông nhất trong Phạn văn, rất thích hợp
để diễn tả những tình cảm bi hùng trong lịch sử. Lời thơ
lại hồn nhiên giản dị, giàu vẻ tự nhiên hơn là những kỹ
thuật cầu kỳ. Anh hùng ca Râmâyana thể hiện đời sống tôn
giáo và những tình tự đạo đức của Ấn Độ cổ thời, làm sống
dậy tất cả những đức tính quý nhất của con người trên cả
hai phương diện thế gian và siêu thoát. Đối với nhân dân
Ấn Độ, ông hoàng Râma hóa thân thứ bảy của thần Vishnu, là
hiện thân của đạo đức, của tình thương yêu vô vàn. Theo
truyền thuyết thì truyện này do Nârada, một đạo sĩ thấu
thị (rishi), kể lại cho đạo sĩ Vâlmiki nghe. Ông này nhờ
có thần Brahmâ khuyến khích và giúp đỡ, đã tìm được nguồn
cảm hứng lạ kỳ để thuật lại sự tích Râma cho các môn đệ
nghe bằng những vần sloka tuyệt tác. Chính thần Brahmâ
cũng cảm thấy rung động vì lời giọng hát của Vâlmiki nên
đã phải thốt lên :
“Chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì anh hùng ca
Râmâyana còn làm say mê nhân thế và cứu giúp họ ra khỏi
vòng tội lỗi.”
Sử gia Pháp Michelet (1798-1874) sau khi đọc Râmâyana đã
không tiếc lời ca ngợi :
“Người nào đã từng hành động hoặc ham muốn quá nhiều, hãy
uống cạn ly rượu đầy sức sống và tuổi trẻ này … Ở Tây
phương, cái gì cũng chật hẹp : Hy Lạp nhỏ bé làm tôi ngột
ngạt; Do Thái khô khan làm tôi khó thở. Hãy để cho tôi
hướng về Á châu cao cả và Đông phương thâm trầm trong giây
lát. Chính nơi đó đã phát sinh ra bài thơ vĩ đại của tôi,
mênh mông như Ấn độ dương tràn ngập ánh mặt trời rực rỡ
tốt lành. Đó là một tác phẩm chứa chan hòa điệu thiêng
liêng, tạo nên một không khí thái hòa và tình thương vô
biên ngay giữa những cảnh tượng mâu thuẫn xung đột” *.
(*)
Trích dẫn theo : Jawaharlal Nehru, The Discovey of India,
Signet Press, Calcutta 1956.
Điều cần ghi nhớ là bản anh hùng ca Râmâyana được truyền
tụng đến ngày nay không phải là nguyên bản của Vâlmĩki, mà
là một thiên trường ca đã được khai triển rất nhiều bởi
biết bao thi sĩ vô danh trải qua nhiều thế kỷ. Hàng thế hệ
thì nhân đời nọ qua đời kia đã không ngừng phụ họa và bổ
túc những lời thơ tuyệt diệu.
Toàn bộ Râmâyana nguyên bản Phạn ngữ gồm bảy cuốn, nhưng
cuốn sau cùng chỉ là một phụ bản do đời sau thêm vào*. Phụ
bản này kể thêm một đoạn kết bi thảm cho tác phẩm, có dụng
ý vừa ca ngợi thêm đức tính vô song của nàng Sĩtâ, vợ
hoàng tử Râma, vừa gây cảm xúc mạnh mẽ tột độ cho người
đọc. Nhờ phụ bản này, chúng ta được biết anh hùng ca
Râmâyana gồm có 7 cuốn, 500 đoạn và 24.000 câu thơ đôi
sloka. Trong phần kết luận, phụ bản này còn cho biết thêm
rằng con và em của hoàng tử Râma đã tạo lập được một số đô
thị trong Vương quốc rất phồn thịnh vào khoảng thế kỷ thứ
VI, thứ V trước Công nguyên. Do đó, có thể tạm kết luận
rằng thiên hùng ca Râmâyana, sau mấy thế kỷ truyền tụng và
tăng bổ, đã được hoàn thành dưới hình thức hiện thời vào
khoảng hai, ba trăm năm trước Công Nguyên.
(*)
Sau này Râmâyana được chia thành 12 cuốn, cuốn thứ 12
chính là phụ bản của nguyên tác.
Vua Dasha-ratha đóng đô tại Ayodhyâ, ngự trị cả vương quốc
Koshala. Nhà vua có ba vợ mà không có con trai mặc dầu đã
nhiều lần cầu nguyện thần linh, và cách ăn ở của nhà vua
thì rất mực nhân đức. Sau cùng nhà vua định làm lễ cầu tự
thật lớn : hy sinh một con ngựa tế trước đàn tràng.
Vào thời này, trên thiên giới, các thần linh cũng đương
gặp khó khăn. Bị Quỷ vương Râvana quấy phá, các thần linh
tới cầu cứu thần sáng tạo Brahmâ. Thần Brahmâ cho hay Quỷ
vương đã được ân sửng của mình nên không một vị thần linh
nào có thể giết được nó*. Tuy nhiên, Quỷ vương đã quá kiêu
ngạo không thèm hạ mình xin ân sủng của người thế gian nên
nó có thể bị người thế gian giết chết.
(*)
Phải chăng đó cũng là ý nghĩa tượng trưng của cái nhìn đối
đãi, có tốt thì tất có xấu, hiểu cái này bằng chính cái
kia, nếu bỏ xấu đi thì tốt cũng không còn.
Vừa lúc đó thần Vishnu cưỡi thần điểu Gurada tới. Các thần
linh yêu cầu Vishnu hãy giáng sinh làm người lần nữa để
trừ khử Quỷ vương giúp. Vishnu nhận lời.
Vào lúc nhà vua Dasha-ratha đương làm lễ cầu tự thì Vishnu
hiện thành hình mãnh hổ giữa đám lửa khói và bảo nhà vua
hãy lấy một số gạo và sữa trong buổi lễ mà chia thành ba
phần cho ba người vợ ăn. Nhà vua tuân lệnh : hoàng hậu
Kaushalyâ được một phần, bà phi Kaikeyĩ một phần và bà phi
thứ ba trẻ đẹp nhất, được ân sủng nhất, bà Sumitrâ, được
những hai phần. Đúng kỳ hạn, hoàng hậu Kaushalyâ sinh hạ
Râma; bà phi Kaikeyĩ sinh ra Bharata, và bà phi trẻ đẹp
Sumitrâ là mẹ của cặp sinh đôi Lakshmana và Shatrughna.
Cũng vào lúc đó trên thiên giới các thần linh cũng hoạt
động dữ lắm. Các ngài tạo ra một đám khỉ rất đông để chúng
sẽ trợ lực Vishnu trong việc diệt trừ Quỷ vương sau này.
Rồi suốt mười sáu năm trường thần dân của vua Dasha-ratha
sống an bình hạnh phúc, con cái có hiếu với cha mẹ, anh em
trong một gia đình biết nhường nhịn lẫn nhau, mọi người cư
xử với nhau luôn luôn giữ được tín nghĩa. Bốn hoàng tử lớn
lên khôi ngô tuấn tú, tính tình khảng khái hào hùng, cả
bốn đều được thần dân mến phục. Trong bốn vị hoàng tử thì
Râma trội hơn cả về vẻ dĩnh ngộ cũng như về mọi đức tính
can trường dũng cảm.
Khi hoàng tử Râma vừa mười sáu tuổi, đạo sĩ Viswâmitra tự
chốn thảo lư trong rừng thẳm tới kinh đô, xin hoàng tử tới
tiêu diệt giúp một bầy quỷ vẫn thường đến quấy phá vào lúc
đạo sĩ toạ thiền. Sau khi đã xin phép vua cha và an ủi vua
cha đừng lo ngại gì cả, Râma theo đạo sĩ vào rừng. Hoàng
tử Lakshmana vốn rất quý mến và trung thành với anh cũng
xin được tháp tùng. Hai anh em đã giúp đạo sĩ diệt được
hàng trăm quỷ và đánh đuổi được hai con quỷ chúa là
Maricha và Shu-vahu.
Công việc xong xuôi, Râma hỏi đạo sĩ Viswâmitra còn cần gì
đến mình nữa không. Đạo sĩ cho chàng hay hiện nay tại
vương quốc Videha, vua Janaka đương làm lễ tuyên phu cho
công chúa Sĩtâ. Nhà vua có cây cung nặng và cứng đến thần
linh cũng khó mà giương nổi. Tương truyền thần Bão Rudra
đã trao cây cung đó cho một đạo sĩ thấu thị trong vương
triều. Vị đạo sĩ này dâng lên đức vua. Ngày nay nhà vua
công bố bất kỳ vị vương tôn nào giương nổi cây cung thần
sẽ được tuyển làm phò mã. Đạo sĩ khuyên Râma nên tới đó.
Còn về công chúa Sĩtâ, đạo sĩ nói rõ thật ra nàng không
phải là con đẻ của vua Janaka. Xưa vào ngày lễ hạ điền,
Janaka xuống đồng cầy ruộng, nhà vua thấy một hài nhi gái
hiện ra ở luống cày bèn đem về nuôi và đặt tên là Sĩtâ
(nghĩa là Luống Cày). Sĩtâ lớn lên vừa hiền thục, vừa xinh
đẹp lạ lùng.
Hai anh em ông hoàng (Râma và Lakshmana) nghe chuyện lấy
làm thích thú lắm bèn yêu cầu đạo sĩ Viswâmitra đưa đi.
Thế là cả ba cùng lên đường tới kinh đô vương quốc Videha
là Mithilâ. Vua Janaka tiếp đón họ nồng hậu. Đạo sĩ
Viswâmitra ngỏ ý xin nhà vua hãy cho mang chiếc cung thần
ra để hàng tử Râma ướm sức. Lập tức nhà vua hạ lệnh đoàn
binh tướng coi kho, và năm ngàn người đẩy tới một chiếc xe
sắt đúc, tám bánh đồ sộ, bên trên có cây cung.
Râma cúi đầu lễ phép xin nhà vua cho mình thử, rồi nhẹ
nhàng nâng nắp xe, nhấc cung lên, thẳng tay giương cung
theo thế bắn. Cánh cung cong chĩu dưới sức mạnh của cánh
tay thần. Chợt như có tiếng sét cực lớn làm đất trời rung
chuyển muốn sụp đổ : cây cung bị gãy làm đôi.
Giây phút kinh hoàng qua mau, ai nấy hân hoan kính phục
sức mạnh thần dũng của Râma và lễ cưới bắt đầu sửa soạn.
Một đoàn sứ giả được cử đi gấp trong vòng ba ngày tới
Ayodhyâ báo tin mừng và mời Vua Dasha-ratha tới dự lễ
cưới. Vua Dasha-ratha lập tức cho họp đội trào, thông báo
cùng các quan trong triều tin mừng về hoàng tử Râma, đồng
thời hạ lệnh quan coi kho thu thập một số vàng bạc châu
báu, chuẩn bị voi ngựa, rồi ngay hôm sau hoàng gia cùng
một số quan đại thần và một đội quân tinh nhuệ thẳng đường
ngày đi đêm nghỉ tới vương quốc Videha. Hai đấng phụ vương
gặp nhau tay bắt mặt mừng; hai vương quốc trở thành đồng
minh do duyên trời đôi trẻ. Không những vậy, vua Janaka
còn gả một công chúa khác cho Lakshaman và gả hai ái nữ
của một vị hoàng đế cho Bhrata và Satru-ghna.
Sau khi lễ thành đôi của những cặp “người quốc sắc, kẻ
thiên tài” đó hoàn tất, hai cặp vợ chồng Bharata và
Satru-ghna còn tiếp tục những cuộc thăm viếng khác; hai
cặp Râma và Lakshamana và vợ thì theo vua cha trở về
Ayodhyâ. Thần dân trong khắp vương quốc tưng bừng treo đèn
kết hoa ăn mừng tiệc hỉ.
Tuy ân ái tình nồng nhưng anh hùng không hề khí đoản, nhất
là với hoàng tử Râma. Đã tới lúc vua Dasha-ratha cảm thấy
mệt mỏi và muốn rút lui, nhường ngôi báu cho Râma trị vì.
Ngài cho họp các triều thần bày tỏ ý mình. Tuy nhiên, ngài
cũng nói quyết định tối hậu vẫn là ý của các quan đại
thần, nếu các vị thấy trong các vị hoàng tử còn người tài
đức hơn Râma. Các quan đại thần đều đồng thanh công nhận
không ai văn võ song toàn, tài đức song toàn hơn hoàng tử
Râma. Tin đó được loan truyền. Thần dân từ chốn kinh thành
tới khắp hang cùng ngõ hẻm vương quốc Koshala lại một phen
tưng bừng chuẩn bị ngày đăng quang của Râma, vị hoàng tử
muôn phần kính mến của họ. Vẻ náo nhiệt của toàn thể vương
quốc chẳng khác gì tiếng sóng chập chùng của đại dương
trong những đêm trăng sáng triều dâng.
Râma và Sĩtâ cùng ăn chay và tụng niệm thần linh để chuẩn
bị ngày đăng quang. Bà phi Kaikeyĩ thoạt cũng hoan hỉ vì
từ xưa bà vẫn quý Râma như chính con bà là hoàng tử
Bharata. Bà tin rằng con người đức hạnh như Râma khi lên
ngôi thiên tử thì phú quý cùng hưởng với các em, và vẫn
quý trọng bà ngang với hoàng hậu thân mẫu như xưa.
Nhưng một áng mây đen đã kéo tới che rợp bầu trời hạnh
phúc của hoàng gia. Đó là mụ vú nuôi bà phi Kaikeyĩ. Xưa
mụ có công nuôi bà như con. Mụ có cái bướu lớn sau lưng,
tính tình xảo quyệt. Mụ tới tỉ tê với bà là nếu Râma lên
ngôi trời, thì không những con bà là hoàng tử Bharata phải
lép vế, mà chính bà vô hình chung cũng phải nép dưới uy
quyền của hoàng hậu Kausalyâ. Thoạt bà phi gạt lời mụ đi,
nói là không bao giờ có chuyện xấu xa đó với Râma, nhưng
rồi lời nói tỉ tê tiêm dần nọc độc nghi kỵ vào lòng
Kaikeyĩ. Sau cùng bà phi này hoàn toàn siêu lòng. Bà trút
bỏ lại y phục lụa là cùng các nữ trang quý giá mà tự ý
lánh vào lãnh cung trong rừng sâu. Vua Dasha-ratha hay tin
vội tới thì thấy bà sủng phi của mình đầu bù, tóc rối,
quần áo lem luốc, nằm khóc lóc thảm thiết trên sàn gỗ dơ
dáy. Vua bảo bà có điều chi bất mãn hãy nói cho vua hay,
vua sẽ giải quyết mau lẹ để mối sầu của bà sẽ như tuyết
tan dưới ánh dương quang.
Bà nói mối bất mãn của bà chính là ở việc nhà vua đã chọn
Râma lên ngôi trời. Bà yêu cầu vua hủy lệnh đó đi, truyền
ngôi cho Bharata và lưu đầy thái tử Râma vào rừng trong
thời gian mười bốn năm.
Vua kinh ngạc tưởng có thể chết giấc và khuyên bà phi đừng
yêu cầu mình làm công việc thất nhân tâm đó. Bà Kaikeyĩ
nhắc lại chuyện xưa bà từng săn sóc nhà vua bị thương tại
chiến trường. Ngày đó vua có hứa sẽ thực thi hai điều
thỉnh nguyện của bà. Từ đó đến nay bà chưa hề cầu xin điều
gì! Vua Dasha-ratha hiểu luật danh dự của đẳng cấp chiến
sĩ, đã hứa thì không thể nuốt lời.
Râma với tư cách thái tử có thể chống lại quyết định độc
đoán và phi lý ấy, nhưng Râma không hề tỏ ý oán hờn. Trái
lại chàng vui lòng nhận lấy cuộc lưu đầy, giúp cha thực
hiện lời đã hứa xưa kia.
Râma muốn vợ mình, công chúa Sĩta, ở lại vương quốc để
khỏi phải chịu đựng những nỗi gian khổ của cuộc đày ải
trong rừng. Nhưng Sĩta cương quyết theo chồng. Nàng bác bỏ
tất cả những lý lẽ của Râma và trả lời bằng những luận
điệu vô cùng cảm khái.
Thiếp không thể tuân lời đấng phu quân đã thốt lên trong
giây phút nông nổi.
Vì lời khuyên của chàng không thích hợp với một chiến sĩ
và với danh phận một hoàng tử,
Vì một thiếu phụ trung trinh bao giờ cũng theo chồng đi
bất cứ nơi nào.
Khi Râma bị lưu đầy thì Sĩta cũng tự đầy theo.
Một thiếu phụ không thể bỏ chồng để ở lại, dù vương quốc
do con hay em thân mến của mình cai trị.
Cùng với chồng, nàng sẽ đồng cam cộng khổ, số phận nàng
ràng buộc với số phận chồng.
Nếu người con chính trực của Raghu (Râma) tiến bước vào
rừng sâu tốn tăm và ảm đạm, Sĩta sẽ tiến lên trước chồng
nàng để dọn dẹp những quãng đường gai góc hoang vu*.
(*)
Đoạn in chữ nghiêng : bản dịch của Lê Xuân Khoa theo bản
Anh văn của R. Dutt.
Xin đọc : Lê Xuân Khoa, Nhập môn triết học Ấn Độ, tr.
180-181.
Romesh C. Dutt., The Râmâyana and the Mahâbhârata, London,
1961, p.34.
Lakshmana, em trai của Râma, cũng không chịu tuân theo lời
thái tử mà ở nhà. Chàng đòi theo để giúp anh phá rừng, đốn
cây, và trông nom chị dâu.
Buổi tiễn đưa vang tiếng khóc than của thân quyến và thần
dân. Đặc biệt đám thần dân còn lẽo đẽo theo tiễn sau xe
thái tử suốt ngày hôm đó. Họ dừng lại ngủ qua đêm trên bờ
sông dưới ánh sao tò mò thầm lặng. Hôm sau thái tử Râma
lẳng lặng cùng vợ, em và người đánh xe ra đi thật sớm,
trong khi đám thần dân còn thiêm thiếp giấc nồng bên bờ
sông. Hôm ấy họ đi lạc đường, tối đến phải dừng lại ngủ
qua đêm bên bờ sông Hằng hà. Hôm sau, thái tử Râma cho
người đánh xe trở lại kinh đô, còn ba người vượt sông
Hằng, tiến về núi Chitra-Kuâta, rồi xuyên qua rừng tới
sông Yamuâna. Ba người tự làm lấy bè gỗ để qua sông rồi
tiếp tục đi bộ tới thảo lư, vị ẩn sĩ nổi danh đương thời
là Bharadwâya. Ông tiếp đón họ nồng hậu vì cũng đã biết
nỗi oan khiên họ đương phải chịu đựng và giúp đỡ họ dựng
lều cư ngụ. Giữa chốn rừng sâu này, cỏ cây muông thú phồn
tạp, suốt ngày đêm suối tuôn róc rách, chim kêu, vượn hót,
ve ngâm …
Trong khi đó tại kinh đô Ayodhyâ, vua Dasha-ratha hoàn
toàn xa lánh bà phi Kaikeyĩ, chỉ để riêng hoàng hậu
Kausalyâ được săn sóc mình vào lúc nhà vua cảm thấy gần
đất xa trời. Tuy nhiên, khi hoàng hậu tỏ lời ai oán thái
quá, nhà vua lại khuyên nhủ không nên phiền trách hờn giận
Kaikeyĩ hơn nữa. Điều bất hạnh mà nhà vua đương gánh chịu
là hậu quả một hành vi thất đức trước đây. Hồi đó người là
một hoàng tử nổi danh về tài thiện xạ. Người có thể ngắm
bắn hoặc nghe bắn bách phát bách trúng. Một hôm vào rừng
người nghe có tiếng gì như tiếng một con voi đương lấy vòi
hút nước sau một lùm cây, liền lắp tên vào cung bắn. Ngờ
đâu có tiếng người kêu thương. Người chạy vội tới, thì ra
đã bắn lầm phải một ẩn sĩ trẻ tuổi đương vục bình xuống
suối lấy nước. Chàng ẩn sĩ cho hay chàng về thăm cha mẹ mù
cũng sống mai danh ẩn tích gần đây. Chàng yêu cầu hoàng tử
hãy tới gặp cha mẹ, nói rõ sự tình. Hoàng tử tới, xin lỗi
hai ông bà già mù. Hoàng tử đưa họ tới bờ suối. Họ ôm lấy
xác con, rồi lập dàn hỏa cùng tự thiêu với xác con. Trước
khi chết, người cha già nói : “Nhân nào, quả ấy. Hoàng tử
giết chết con ta, sau này người cũng mất con, và chết
trong sầu muộn!”.
Lời đó đã mờ phai với thời gian nhưng đến nay vang lên rõ
hơn bao giờ hết.
Kể xong chuyện, vua Dasha-ratha băng hà.
Hoàng tử Bharata, trong thời gian qua, tới thăm vương quốc
của người cậu, cũng vừa được triệu gấp về nhà. Bà phi
Kaikeyĩ hoan hỉ báo tin mừng cho Bharata hay là chàng sẽ
được nối ngôi báu. Ngờ đâu Bharata kịch liệt phản đối mẹ,
trách mẹ đã làm vua cha chết trong sầu hận. Riêng chàng,
không bao giờ chàng ngồi vào ngai vàng thuộc quyền chính
thống của thái tử Râma. Đoạn chàng tới an ủi hoàng hậu
Kausalyâ.
Lễ an táng vua Dasha-ratha cử hành. Vào dịp này, hiền giả
Vasishtha nhắc nhủ mọi người rằng ai rồi cũng đến ngày,
đến số phải từ bỏ cõi đời, nhưng bổn phận người sống là
phải làm đầy đủ trách vụ của mình.
Sau đó Bharata cùng các bà hoàng hậu với một số hiền giả
thân hành tới khoảng rừng sâu, khẩn khoản mời Râma trở về
ngôi báu, nhưng Râma vẫn một mực chối từ. Chàng chỉ thấy
cần phải thi hành bổn phận làm con và bảo toàn lời hứa
danh dự của vua cha.
Trước tinh thần dũng cảm và ý chí sắt đá của Râma, Bharata
đành phải nhượng bộ. Tuy nhiên, chàng chỉ nhận giữ quyền
nhiếp chính trong thời gian Râma vắng mặt. Chàng xin Râma
cho chàng đôi dép để mang về đặt lên ngai vàng. Tuy trị
quốc thay anh nhưng Bharata không sống cuộc đời vương giả
ở hoàng cung mà sống một đời khổ hạnh của ẩn sĩ. Chàng nói
nếu trong mười bốn năm nữa, Râma không về, chàng sẽ lên
dàn hỏa.
Sau khi Bharata trở về vương quốc Koshala nhiếp chính,
Râma, Lakshmana và Sĩtâ tiến sâu hơn nữa vào rừng thẳm;
vừa để tránh mọi tiếp xúc với thế nhân, vừa để tránh loài
quỷ Râkshasas thường lui tới quấy phá các ẩn sĩ tham thiền
nơi đây.
Vào năm cuối cùng thời gian lưu đầy, Râma bỗng gặp phải
tai họa vô cùng đau đớn gây ra bởi một nữ yêu (rakshasi)
tên là Suârapa-nakhâ. Nữ yêu này là em gái của Quỷ vương
Râvana khi ấy đương trị vì xứ Lankâ (đảo Tích Lan).
Suârapa-nakhâ gặp Râma liền say mê chàng, biến nguyên hình
xấu xí thành một cô gái trẻ đẹp, quyến rũ chàng hãy lấy
mình rồi về Lankâ hưởng mọi hạnh phúc trần gian. Râma chỉ
Sĩtâ, nói là mình đã có vợ, rồi lại chỉ Lakshmana, nói
hiện em mình không mang theo vợ, nên nàng có thể ướm hỏi
chàng chuyện đôi lứa.
Suârapa-nakhâ liếc nhìn Lakshmana, thì ông hoàng này cất
giọng riễu cợt : “Ta làm nô lệ cho thái tử đây. Liệu cô
nàng có ưng làm cô dâu của một tên hầu cận chăng?”.
Phần vì quá say mê Râma, phần vì phẫn uất về giọng nói
riễu cợt của Lakshmana, nữ yêu xông vào định giết Sĩtâ.
Râma đứng ra che chở cho Sĩta và bảo Lakshmana hãy chống
lại. Lakshmana đánh bại Suârapa-nakhâ, cắt hết tai mũi của
nữ yêu. Từ đấy bắt đầu một giai đoạn chiến tranh giữa anh
em Râma và loài ác quỷ; song những trận tấn công ác liệt
liên tiếp của chúng đều bị thần lực của Râma hóa giải để
chuyển bại thành thắng. Suârapa-nakhâ phải cầu cứu đến Quỷ
vương Râvana, khích động ông anh bằng cách nói về nhan sắc
chim sa cá lặn của Sĩtâ. Râvana thoạt sai một thủ hạ đắc
lực của y là Mârĩcha lẻn đến gần am thất của Râma. Mârĩcha
biến thành một con nai tuyệt đẹp, cổ vàng, mình trắng,
sừng lấp lánh như thanh ngọc. Sĩtâ mê thích quá, yêu cầu
Râma hãy cố bắt sống con nai để làm bầu làm bạn với nàng
trong thời gian còn ở rừng; nếu không bắt sống được, lỡ
phải bắn chết thì Râma hãy lột lấy da, thuộc làm thảm, để
sau này khi trở lại kinh đô vương quốc, tấm da đó sẽ là
một kỷ vật quý giá nhắc nhở ba người những ngày sống lưu
đày giữa rừng thẳm.
Khi bắt đầu cuộc săn đuổi, Râma đã cảm thấy nghi ngờ và
dặn bảo Lakshmana phải canh chừng Sĩtâ kỹ lưỡng. Theo nai
sâu vào rừng, Râma rút cung tên ra bắn chế con quỷ trá
hình. Trước khi chết, nó nhái giọng Râma và thét lên: “Hỡi
Sĩtâ, Lakshmana, hãy tới cứu ta!”. Lakshmana ngờ đó là
gian kế của quỷ, không chịu rời Sĩtâ, nhưng bị Sĩtâ thúc
dục quá gắt, Lakshamana phải nghe lời nàng vào rừng kiếm
Râma.
Khi ấy quỷ vương Râvana xuất hiện, giả dạng thành một đạo
sĩ, bước vào am thất của Sĩtâ. Y thấy quả như lời em gái y
ca tụng, Sĩtâ đẹp hiền thục như vừng trăng rằm vằng vặc
tỏa ánh ngân quang trên vòm trời khuya. Tưởng đó là một
đạo sĩ thật, Sĩtâ theo đúng tập tục, mời y vào thảo am. Y
nói thật y là Quỷ vương Râvana, ngự trị cả xứ Lankâ và
khuyên Sĩtâ nên ưng ngôi hoàng hậu y dành cho nàng. Sĩtâ
khinh bỉ khước từ và cảnh cáo quỷ vương là y đoạt mặt trời
mặt trăng trên vòm không còn dễ hơn là đoạt vợ của thần
dũng Râma. Râvana bèn bắt cóc Sĩtâ lên xe, bay về xứ
Lankâ. Sĩtâ kêu cứu, nhưng làm sao mà Râma và Lakshmana
nghe thấy cho được! Qua một đỉnh núi kia, tiếng kêu cứu
của nàng làm thần điểu Jatâyu thức giấc. (Jatâyu là vua
loài chim kền kền). Thần điểu Jatâyu bèn lao vút tới như
một tia chớp định phá vỡ chiếc xe của Râvana nhưng bị quỷ
vương đâm trúng, máu chảy đầm đìa, rơi ngã xuống đất. Khi
xe bay qua đồi khỉ, Sĩtâ thả khăn quàng cổ cùng đồ nữ
trang xuống để gián tiếp đánh dấu đường. Sau cùng, Quỷ
vương đã đưa nàng về tới đảo Lankâ xanh màu ngọc bích,
sóng biển vờn lượn quanh đảo màu xanh lợt hơn như sa-phia.
Cung điện Râvana ở quả là thềm bạc, mái vàng, cửa ngọc cực
kỳ lộng lẫy, xung quanh trăm hoa đua nở, quả chín chĩu
cành. Sĩtâ bị giam trong cung cấm, đợi kỳ tới khi nàng ưng
chịu lấy Quỷ vương.
Râma trở về, đau đớn và tức giận vô cùng vì mắc mưu gian
và mất người vợ thân yêu. Chàng cùng Lakshmana lên đường
tìm kiếm Sĩtâ, gặp Jatâyu hấp hối. Trước khi hắt hơi thở
cuối cùng, Jatâyu bảo hai người hãy cứ thẳng đường hướng
về Nam. Trên đường đi, hai anh em gặp một quái vật xông ra
chặn đường nhưng bị hạ. Con quái vật xin được hỏa thiêu.
Rồi từ đống tro tàn, hiện ra một ca công (gandharva) của
thần Indra. Thì ra trước đây Kabandha (tên ca công đó) bị
yểm bùa cho thành quái vật. Nay nhờ hai anh em Râma hỏa
táng cho mà được hiện nguyên hình. Kabandha nói cho hai
anh em hay là Sĩtâ đã bị bắt đưa về xứ Lankâ rồi và khuyên
nếu hai người muốn chiến thắng Quỷ vương Râvana thì phải
tìm tới Vua khỉ Su-grĩva nhờ trợ lực. Vua khỉ hiện ngụ tại
vùng đồi Nilgiri. Khi hai anh em gặp Su-grĩva thi` Vua khỉ
cũng đang đau đớn vì bị một đứa em cùng cha khác mẹ tên là
Bâlĩ cướp mất cả vợ lẫn ngai vàng. Nhờ Râma giúp sức,
Su-grĩva trả được hận thù. Để đền ơn, Su-grĩva bèn sai cận
thần Hanuman, con của thần gió Vâyu lên đường thăm dò tung
tích của Sĩtâ. Hanuman có tài đi nhanh như gió, gặp thần
điểu Sampâti là em của thần điểu Jatâyu.
Tương truyền cả hai anh em thần điểu này đều là con của
thần điểu Garuda (Vishnu cưỡi). Xưa đã có lần Jatâyu cùng
em bay lên gần mặt trời, vì vậy mà Sampâti bị cháy rụi mất
đôi cánh từ ngày ấy. Lần này gặp Hanuman, Sampâti xác nhận
đã thấy Râvana bắt cóc Sĩtâ về Lankâ. Vì sự xác nhận này,
Sampâti được thần linh tưởng thưởng, đôi cánh bị cháy mọc
lại, và Sampâti lại có thể thỏa thuê bay lượn trên không
trung như xưa.
Khi tới đảo Lankâ, Hanuman gặp một con trăn mẹ định nuốt
chửng mình. Hanuman bèn hóa phép lớn vồng lên, con trăn
cũng hóa phép lớn theo. Chợt Hanuman thu hình cho bé lại
chỉ bằng ngón tay cái, rồi chạy thẳng vô miệng con trăn mẹ
và chui lọt ra phía tai trái. Sau đó một nữ yêu rình, chợp
lấy bóng và kéo Hanuman vào miệng để ăn (nữ yêu này có tài
chợp bóng mà kéo được con mồi như vậy). Hanuman để nguyên
cho nữ yêu nuốt mình, rồi mới bất chợt lớn phồng lên làm
vỡ bụng nữ yêu mà chui ra.
Tới cung điện Râvana, Hanuman bèn hóa thành con mèo đi
khắp đây đó. Khi qua khu nhà các cung phi của Râvana, nàng
nào cũng đẹp ngà ngọc như bông sen trắng. Nhưng Hanuman
không thấy Sĩtâ trong đám mỹ nhân đó. Nàng bị nhốt ở vườn
Ashoka canh giữ bởi các nữ yêu hình dung rất cổ quái. Ngày
ngày, Râvana tới dụ, nhưng đều bị nàng cự tuyệt. Đợi lúc
thuận tiện, Hanuman xuất hiện, giơ chiếc nhẫn của Râma cho
Sĩtâ tin. Sĩta vui mừng khôn xiết. Nhưng khi Hanuman đề
nghị để mình cõng về thì Sĩtâ từ chối vì nàng nghĩ vợ của
Râma không thể để cho khỉ cõng về được. Nàng chỉ ân cần
nhờ Hanuman trở về cho Râma hay là Quỷ vương đã quyết định
nếu trong hai tháng nữa mà nàng vẫn khăng khăng khước từ,
nó sẽ giết nàng.
Trước khi ra về, Hanuman nghĩ phải tàn phá một phần giang
sơn, cung điện của Râvana cho bõ ghét, bèn vươn mình cho
cao lớn rồi biến thành một cơn bão lốc tung hoành. Một số
cung điện đổ xụp, rất nhiều cổ thụ quanh vùng bị tróc rễ.
Indrajit, con của Râvana, bắn trúng Hanuman và trói ghì
lại bằng dây lòi tói mang lại nộp cha. Râvana coi Hanuman
như sứ giả của Râma nên tha cho về, nhưng buộc vào đuôi
một miếng giẻ tẩm dầu rồi châm lửa đốt. Hanuman bèn nhảy
từ nóc nhà này sang nóc nhà khác, gió bùng to ngọn lửa,
các mái nhà đều bốc lửa, thế là thêm một số cung điện nữa
của Râvana ra tro.
Khi Hanuman đem tin về tới doanh trại của Râma, ai nấy hò
reo vui mừng, và đại quân chuẩn bị vượt khoảng biển rộng
sáu mươi dặm từ đất liền tới đảo Lankâ. Vidhĩshana, em Quỷ
vương Râvana, cũng tới quy thuận vì y không đồng ý với anh
về thái độ gây hấn với người là hiện thân của đức hạnh như
Râma. Y đã nhiều lần khuyên anh cải tà quy chánh, không
những Râvana không nghe, còn đuổi y ra khỏi Lankâ nữa.
Cuộc tấn công vào Lankâ chỉ còn gặp một trở ngại lớn cuối
cùng : biển! Râma đã dùng bửu bối làm động đất, làm sụp
núi mà cũng không lấp được khoảng biển ngăn cách Lankâ với
đất liền. Râma định dùng bửu bối hút cạn nước biển thì
thần biển uy nghi hiện lên, ôn tồn bảo Râma là theo luật
của tạo hóa, không thể lội biển bằng chân được, hãy tìm
người làm cầu mà qua.
Râma bèn triệu Nala tới (con kiến trúc sư thần thông
Viswa-karmâ.) Nala dùng những tảng đá tròn cực lớn, quẳng
xuống biển, tảng nọ cách tảng kia một quãng ngắn đủ để
đoàn quân khỉ nhảy chuyền cho tới khi lên được đảo Lankâ.
Hanuman cắp Râma; Angada con Bali â, cháu thần sét Indra,
cắp Lakshamana cùng bay qua biển. Đám quân khỉ này nhảy
chuyền vượt biển trông rất kỳ dị, đặc biệt các tướng quân
khỉ lại càng kỳ lạ : Su-grĩva màu sáng loáng như bạc,
Angada màu trắng tinh khiết như cánh sen, Hanuman lấp lánh
màu vàng. Một tướng quân khác mình đen, đuôi vàng, mặt đỏ,
một tướng quân khác màu xanh lá cây … Thành thử toàn thể
đại quân lúc vượt biển trông tựa một chiếc cầu vồng muôn
màu.
Khi Râvana thấy đại quân Râma đã vây quanh bèn cho mở cửa
thành nghinh địch. Đoàn quân của Râvana cưỡi những gấu,
chó sói, voi, sư tử, lạc đà, lừa, lợn rừng … Chúng vừa
xông ra, vừa rú lên những tiếng rùng rợn để nhát đối
phương. Đoàn quân khỉ nhổ cây, ném đá và dùng nanh vuốt
của chính mình làm khí giới. Cuộc giáp chiến kéo dài hai
ba ngày bất phân thắng bại. Một lần Indra-jit (con của
Râvana) đã tung bửu bối trói chặt cả hai anh em Râma và
Lakshmana bằng những con rắn nối kết lại, nhưng thần gió
Vâyu đã kịp thời sai thần điểu Garuda tới giải cứu. Lũ rắn
chỉ mới thoáng thấy bóng Garuda tự chân trời đã vội lủi
mình tẩu thoát tức khắc.
Khi Râvana xông vào định giết Râma, y bị bắn bay mất cả
mười cái vươn miện trên mười đầu. Y xấu hổ quá, bèn cầu
cứu đến người em tên là Kumbha-karna.
Trước đây Kumbha-karma cũng đồng quan điểm với em mình,
Vibhĩshana, khuyên Râvana hãy trả nàng Sĩtâ về với Râma,
nhưng khác với Vibhĩshana ở chỗ cương quyết trung thành
với anh, dù biết việc làm của anh là trái. Vì bị lời
nguyền của Brâhma, Kumbha-karma mắc tật ngủ li bì trong
sáu tháng liền, chỉ thức giấc một ngày để ăn ngốn ăn ngấu,
rồi lại ngủ tiếp sáu tháng khác. Lần này bị đánh thức giữa
chừng, y cũng ăn một bữa thịnh soạn rồi xông ra chiến
trường giáp chiến với Râma. Đôi bên quần thảo trong một
thời gian ngắn Râma đã chém y bay đầu, thân hình đồ sộ của
y ngã xuống làm nghẽn cả dòng nước chảy.
Indra-jit tàng hình bay lên cao bắn trộm, lần này cả hai
anh em Râma và Lakshmana đều ngã bất tỉnh. Nghĩ rằng con
mình đã hạ được kẻ địch, Râvana cho mang nàng Sĩtâ tới
chứng kiến cảnh chồng và em chồng chết. Nàng Sĩtâ vật vã
khóc than, không phải cho số phận của Râma và Lakshmana,
vì theo nàng đã là chiến sĩ thì việc da ngựa bọc thây là
chuyện khó tránh; càng không phải khóc than cho số phận
chính nàng, vì sinh ra tự lòng đất, nàng chấp nhận mọi số
phận hẩm hiu của cuộc đời cho đến ngày nàng được trở về
trong lòng đất mẹ. Nàng khóc thương đây là khóc thương cho
số phận của hoàng hậu Kaushalyâ đã góa chồng nay lại mất
con, cái cảnh tháng ngày thì tàn lụi, sầu thương thì ngút
ngàn xanh của hoàng hậu hỏi còn gì thê thảm cho bằng.
Đêm tới, chiến trường ngưng hoạt động, Hanuman và
Vidhĩshana đốt đuốc đi soi. Hanuman buồn lắm vì thấy các
chiến sĩ khỉ tử thương la liệt, nhưng viên ngự y đi theo
thưa rằng tại một ngọn núi thuộc dãy Hymalaya có một thứ
cỏ đặc biệt có thể cải tử hoàn sinh cho những chiến sĩ tử
thương này. Hanuman bèn hóa phép cao lớn vồng lên rồi đằng
vân thẳng lên ngọn núi đó, cúi xuống nhìn thấy cây cỏ phồn
tạp không biết thứ nào mới đích thật là thần dược, bèn nhổ
cả ngọn núi mang về cho viên ngự y tìm lấy, rồi xách núi
trở lại chỗ cũ. Quả nhiên thần thảo đã cải tử hoàn sinh
tất cả những chiếc sĩ tử thương, kể cả hai anh em Râma và
Lakshmana. Sớm hôm sau, khi Indra-jit xuất hiện, liền bị
Lakshmana dùng chiếc cung của thần sét Indra cho bắn chết.
Râvana hay tin, lồng lộn lên rồi đi thẳng tới nơi giam
Sĩtâ để giết nàng. Nhưng suốt trong thời gian bị giam, đức
hạnh của Sĩtâ đã cảm hóa được đám nữ yêu, nên lần này nàng
được chính những nữ yêu đó che chở, dấu kín vào một nơi an
toàn, do đó thoát chết. Râvana ra thẳng chiến trường quyết
cùng Râma sống mái một trận cuối cùng. Thần linh trên cao
chứng kiến trận thư hùng này. Thoạt tên bay rợp trời, rồi
đôi bên tuần tự dùng đến trùy, dùi, chĩa ba và mác, sát
khí đằng đằng đến gió cũng như nín thở theo rõi, mặt trời
cũng như lợt lạt, lao đao. Một mũi tên của Râma vụt bay
tới cắt đứt một đầu của Râvana, lập tức đầu mới mọc lên và
cuộc thư hùng vẫn tiếp diễn bất phân thắng bại. Sau cùng,
Râma dùng thứ tên khủng khiếp của Brâhma cho, ngắm bắn
Râvana. Mũi tên bay vút, xuyên qua bộ giáp vào tim, thoát
phá ra đằng lưng, vút thẳng ra khơi trùng dương rồi lại
quay trở về túi đựng tên của Râma. Râvana chết tức khắc.
Cả vũ trụ vang lừng nhã nhạc, gió hiền dâng lên man mác,
hương hoa ngào ngạt không gian, ánh dương lồng lộng với
biển trời một màu xanh biếc. Râma thắng trận, cử
Vidhĩshana đức hạnh lên ngôi báu Lankâ. Nhưng mọi người
đều lấy làm ngạc nhiên khi thấy Râma không tiếp nhận Sĩtâ.
Chàng nói sở dĩ phải giết Râvana và giải thoát cho nàng là
vì bổn phận và danh dự thế thôi. Để chứng tỏ lòng đoan
chính của mình, Sĩtâ cương quyết lên dàn hỏa thí. Khi lửa
bốn bề bùng cháy, nàng được thần lửa Agni đỡ lấy, đem trả
lại cho Râma và minh oan cho nàng. Khi ấy Râma cho biết sự
thực chàng không hề ngờ vực Sĩtâ. Sở dĩ chàng để nàng phải
chịu hỏa thí vì cần chứng tỏ cho mọi người thấy rõ sự
trong trắng của Sĩtâ. Hai vợ chồng lại xum họp và lên
đường trở về kinh đô.
Nhân dân Koshala hân hoan đón mừng Râma. Sau đó ít lâu, dư
luận lại ngờ vực tiết hạnh Sĩtâ và e ngại rằng nền đạo đức
của phụ nữ trong nước có thể vì vậy mà bị đe dọa.
Râma muốn dân chúng không thể chê trách chàng về bất cứ
điều gì, nhân dịp Sĩtâ vừa có mang và nàng ngỏ ý muốn hành
hương tới những am thất của các vị ẩn sĩ sống bên bờ sông
Hằng, Râma ưng thuận, cử Lakshmana tháp tùng, dặn em khi
tới nơi thì nói thực quyết định của chàng là muốn Sĩtâ ở
lại nơi đó, đừng trở về nữa.
Khi tới bờ sông Hằng, gần am thất của đạo sĩ Vâlmiki,
Lakshmana ứa lệ, nói thực với chị dâu điều quyết định của
anh mình.
Sĩtâ đau đớn sững sờ, sau cùng nàng cũng nói là nàng hiểu
vì Râma có trách vụ cai trị cả một vương quốc nên bất đắc
dĩ phải có thái độ đó để thần dân không thể chê trách
chàng vào đâu được. Nàng chỉ hờn oán sao thần dân đã chứng
kiến cách ăn ở của nàng trong bao nhiêu lâu mà vẫn còn nỡ
nghi ngờ lòng nàng như vậy.
Sĩtâ trú ngụ tại am thất của đạo sĩ Vâlmiki, và mấy tháng
sau sinh hạ được hai đứa con sinh đôi là Kusa và Lava. Năm
tháng trôi qua, hai đứa trẻ lớn lên, được Vâlmiki nhận làm
đệ tử, đồng thời Vâlmiki cũng bắt đầu sáng tác thiên anh
hùng ca Râmayana này.
Đến một ngày kia, Râma tổ chức một lễ giết ngựa tế thần
(Ashva-medha) rất long trọng. Vâlmiki đem theo hai đệ tử
tới dự.
Trước sự hiện diện của Râma, Kusa và Lava đã hát bản anh
hùng ca Râmâyana gồm 500 đoạn, dài 24.000 câu thơ đôi, mỗi
ngày hát được hai mươi đoạn và hát liền trong hai mươi lăm
ngày mới hết.
Râma nhận ra chúng là con mình. Chàng không thể cầm được
hai hàng lệ chứa chan và thương nhớ nàng Sĩtâ hiền thục
đoan chính. Ramâ nhờ đạo sĩ Vâlmiki đưa nàng về triều. Khi
tái ngộ, Râma chỉ yêu cầu nàng một lần nữa công khai phát
thệ về lòng ngay thẳng của nàng để yên lòng toàn thể nhân
dân.
Giữa cảnh hoàng cung lộng lẫy, trước sự chứng kiến của
thần linh và đại diện thần dân tự khắp các miền trong
vương quốc, Sĩtâ âu yếm nhìn chồng con ngời sáng như những
vì sao mới mọc, nhưng cũng chua chát lòng tự nhủ lòng :
“Hoàng hậu Râma mà phải hạ mình cầu xin thần dân chứng
giám ư? Một hiền phụ lòng vằng vặc như trăng rằm đâu cần
phải ai chứng giám!”
Hai hàng nước mắt chứa chan, nàng quỳ xuống gục đầu trên
mặt đất:
Tự lòng đất mẹ sinh con,
Ở ăn vằng vặc lòng son tột vời.
Đinh ninh trăng sáng biển trời,
Thần linh chứng giám những lời con thưa.
Cuộc đời não gió sầu mưa,
Mẹ ơi xin đón con thơ mẹ về.
Cùng với lời cầu xin não nề của nàng, lòng đất mở ra, một
chiếc ngai vàng dâng lên : “Mẹ ơi xin đón con thơ mẹ về”,
đúng như lời nàng ước nguyện. Nàng Sĩtâ hiền thục ra đi
vĩnh viễn!
Râma kinh hoàng đau đớn van nài thần Đất đem trả lại Sĩtâ,
nhưng thần Brâhma hiện ra, an ủi cho biết sau này chàng sẽ
gặp nàng ở cõi trời.
Quả vậy, sau đó chàng nhường ngôi báu cho con, về trời,
trở lại với bản thân nguyên thủy là thần Vishnu và xum họp
với nàng Sĩtâ, chẳng phải ai khác chính là nữ thần Tài Lộc
Lakshmĩ vậy.
MAHÂBHÂRATA *
(*)
Kể theo bản Anh Văn : Ethel Beswick, Tales of Hindu Gods
and Heroes, Jaico, Bombay 1960.
Mấy
Lời Nói Đầu
(Theo LÊ XUÂN KHOA sđd tr. 189-99)
Mahâbhârata là một tác phẩm vĩ đại, có thể coi là một bộ
toàn thư về đời sống văn hóa, chính trị và xã hội Ấn độ
thời xưa. Tác phẩm ấy kết hợp tất cả những tín ngưỡng,
truyện tích và tập tục cổ truyền của toàn thể dân tộc Ấn
độ suốt từ chân núi Hi-Mã cho tới vịnh Bengale. Nội dung
phong phú ấy đã được xác nhận trong một câu tục ngữ Ấn:
“Cái gì không thấy ở trong Mahâbhârata thì cũng không thể
thấy ở Ấn độ”. Khuynh hướng và khả năng kết hợp của
Mahâbhârata chứng tỏ được sự thống nhất về tinh thần của
một dân tộc rất phức tạp về thành phần cấu tạo ở trên một
lãnh thổ rất sai biệt về hoàn cảnh địa lý.
Tác giả Mahâbhârata theo truyền thuyết là đạo sĩ Vyâsa.
Nguyên bản của tác phẩm trong giai đoạn đầu gồm có 24.000
câu thơ đôi (sloka), và sau tăng lên 6.000.000. Hiện giờ
chỉ sưu tầm được 110.000 sloka, chiếm 220.000 dòng, tức là
dài bằng bảy lần tổng số câu thơ trong cả hai tác phẩm
Odyssée và Iliade của Homère hợp lại.
Thời gian tác phẩm xuất hiện tuy chưa thể xác định được
nhưng có nhiều bằng chứng khiến các học giả tin rằng anh
hùng ca Mahâbhârata được biên soạn khoảng thế kỷ thứ V
trước C.N rồi được liên tiếp tăng bổ và sửa đổi cho mãi
đến thế kỷ thứ V sau C.N mới chấm dứt.
Châm ngôn đạo đức của tác phẩm có thể tóm tắt trong câu
“Cái gì mình không ưa thì chớ làm cho người khác”; đúng
như lời đức Khổng Tử khuyên : “kỷ sở bất dục vật thi ư
nhân”. Mahâbhârata cũng nhấn mạnh về sự xây dựng hạnh phúc
trong xã hội, điều này chứng tỏ sự thỏa hiệp giữa hai thái
độ xuất thế và nhập thế trong triết học nhân sinh truyền
thống Ấn độ. “Chớ làm cái gì không có ích lợi cho xã hội
hoặc điều gì mà mình cảm thấy hổ thẹn.” “Bổn phận của một
Kshatriya là đem sức ra giúp nước chứ không phải là xuống
tóc đi tu.” “Có bất mãn mới thành công.” (Bất phẫn bất
phát). Đó là một vài châm ngôn khác biểu thị thái độ nhập
thế của Mahâbhârata.
Với một giá trị nghệ thuật độc đáo, lại là một kho tài
liệu phong phú về văn minh cổ Ấn độ, Mahâbhârata quả xứng
đáng được xưng tụng là đệ ngũ vê-da.
Vua Dushyanta vào một hôm đi săn hươu, nai vô tình qua một
thảo am và gặp một thiếu nữ đẹp tuyệt vời, bận đồ vải thô
của ẩn sĩ. Hỏi ra thì tên nàng là Shakuntalâ, nàng hiện
được hiền sĩ Kanwa nuôi nấng như con.
Nguyên cha nàng trước đây là hiền sĩ Viswâmitra. Thấy hiền
sĩ sống một cuộc đời quá ư cằn cỗi khắc khổ, thần sét
Indra bèn cử tiên nữ Menakâ có sắc đẹp mê hồn xuống trần
làm bạn với hiền sĩ. Tiên nữ đã thành công và có với hiền
sĩ một đứa con gái, chính là nàng Shakuntalâ vậy. Từ lúc
sơ sinh, Shankuntalâ chỉ được các loài chim trong rừng
thay phiên nhau săn sóc cho đến khi Kanwa thấy vậy bèn
mang về nuôi như con.
Ngay buổi đầu vua Dushyanta gặp nàng Shakuntalâ vừa tới
tuổi xuân rờ rỡ, đã “đôi bên cùng liếc, đôi lòng cùng ưa”,
và đồng lòng ưng thuận kết ngãi nhân duyên ngoài mọi nghi
lễ phiền phức triều đình. Nàng Shakuntalâ nũng nịu đòi nhà
vua phải hứa là nếu nàng có con trai với nhà vua, thì đứa
con trai đó phải đương nhiên là đông cung thái tử. Cuộc
tình duyên đẹp, nhưng phút giây xum họp ngắn ngủi, vua
Dushyanta phải trở về triều chính.
Đủ ngày tháng, nàng Shakuntalâ sinh hạ được đứa con trai
khôi ngô, tuấn vĩ. Sáu năm qua, nàng dắt con đến xin ra
mắt vua cha. Nhà vua nghe vẳng có tiếng nói huyền bí,
khuyên hãy niềm nở nhận con và định ngôi thái tử. Đứa bé
được mang tên Bharata, mở đầu cho dòng họ lớn này. Bharata
lên ngôi, tiếp tục mở mang bờ cõi. Đến đời cháu là vua
Shantanu, một hôm nhà vua tản bộ bên bờ sông Hằng, bất
chợt gặp một nàng con gái mặt hoa da phấn, tóc mây buông
lơi ngồi sát bờ nước. Nhà vua hỏi chuyện, tiếng nàng đáp
trong như ngọc và giọng cười của nàng vui như tiếng suối
reo. Nhà vua cảm thấy say mê nàng tột, ngỏ ý muốn cưới
nàng làm vợ. Nàng ưng với điều kiện : thứ nhất là nhà vua
phải hứa không bao giờ được nói nặng với nàng; thứ hai là
không bao giờ tìm cách cản ngăn điều nàng muốn làm. Vua
hứa. Nàng hẹn ngày giờ sẽ tới. Nàng đã từ phương Bắc – nơi
có ngọn nguồn sông Hằng – tới với nhà vua trên một con
đường lồng lộng ánh vàng; tháp tùng nàng là cả một đám
rước tưng bừng; nào hồng hạc, nào bạch hạc, nào bạch nga.
Đám cá chắm, cá chép, kéo một hình vỏ trai nạm sà cừ, với
những cánh chuồn chuồn óng ánh muôn màu bao quanh lấy cô
dâu ngồi nghiêm trang ở giữa.
Một năm qua, thần dân hay tin hoàng hậu vừa sinh hoàng tử
nhưng khi vua Shantanu tới vén màn mở nôi nhìn con thì
chẳng thấy gì. Sáu lần hoàng hậu hạ sinh, sáu lần đứa con
mất tích một cách bí mật như vậy, mà nhà vua thì không dám
hỏi duyên cớ vì đã chót hứa với nàng như vậy. Tới lần thứ
bảy, nhà vua kín đáo quan sát thì thấy nàng bế đứa trẻ sơ
sinh tới khoảng bao lơn nhô ra sông Hằng, dừng lại một
chút rồi quẳng đứa trẻ qua bao lơn xuống sông. Tới lần thứ
tám, nhà vua càng theo rõi cẩn mật và tới khi nàng sắp bế
con tới bao lơn thì bất thần nhà vua xuất hiện, giằng lấy
con và nguyền rủa nàng thậm tệ. Nàng khóc lóc thê thảm vì
như vậy là nhà vua đã bội ước nặng lời với nàng. Do đó
nàng không thể ở lại được nữa. Nàng nói cho vua hay nàng
là nữ thần sông Hằng. Bảy đứa trẻ mà nàng quăng xuống sông
chính là bảy thánh nhân, kiếp trước họ đã tu gần tới mức
hoàn bị để thoát vòng sinh tử, nàng đã tình nguyện hạ sinh
họ vào lần chót này, giúp họ được tắm gội trong dòng sông
linh thiêng mà đạt được niềm mong ước thoát vòng sinh tử,
chứ đâu phải nàng là kẻ sát nhân! Còn đứa trẻ thứ tám này,
nàng đặt tên cho nó là Shântavana (có nghĩa là tặng vật
của thần linh), nàng bảo nhà vua hãy để nàng mang con đi
và nuôi dạy xứng đáng cho đến tuổi trưởng thành sẽ đem lại
trả vua.
Nàng đã giữ đúng lời hứa. Ngày vua Shântanu nhận thái tử,
cũng là ngày cuối cùng nhà vua chiêm ngưỡng dung nhan nữ
thần sông Hằng. Vua cảm thấy cô đơn lạ lùng. Một hôm vua
đi dọc theo bờ sông Yamunâ, gặp một thiếu nữ đẹp như tiên
giáng trần, tự nàng tỏa ra một làn hương thanh quý. Vua
hỏi tên, nàng xưng danh là Shatyavatĩ, con nuôi một người
đánh cá, hiện là cô lái đò chở khách qua sông. Trước đây
hình như ông lão đánh cá, cha nuôi nàng, có bắt được con
cá đã nuốt vào bụng hai đứa trẻ sơ sinh của một ông hoàng
Ấn độ, một trai, một gái. Ông lão gửi trả ông hoàng đứa
trai, còn giữa lại đứa gái là nàng. Nàng lớn lên xinh đẹp,
nhưng tự người vẫn toát ra mùi cá tanh tưởi.
Một hôm, nàng chở một vị bà la môn sang sông. Vị này ngỏ ý
nếu nàng chịu hạ sinh cho một đứa con trai thì sẽ làm phép
rửa sạch giúp nàng mùi cá tanh tưởi để có được mùi hương
thanh quý mới. Nàng ưng thuận. Lập tức có đám mây hạ xuống
phủ kín con đò và nàng sinh hạ được đứa con trai. Đứa con
trai lớn lên tức thì, cúi chào từ biệt nàng để vào thẳng
trong rừng sâu tham thiền. Trước khi đi, cậu nói sau này
nàng cần điều gì, chỉ cần nghĩ đến cậu, là cậu sẽ trở về
trợ giúp tức thì.
Vua Shantanu cảm thấy yêu thương nàng, bèn ngỏ ý muốn cưới
nàng làm vợ. Ông lão đánh cá – cha nuôi nàng – ưng thuận
với điều kiện nhà vua phải lập con trai nàng làm thái tử.
Điều này nhà vua không thể hứa được vì ngôi thái tử đã
dành cho Shântavana rồi.
Thấy vua cha suốt ngày mặt ủ mày chau, Shântavana gắng tìm
ra nguyên cớ, và thưa lại với vua cha là mình tự ý từ
khước địa vị đông cung thái tử, không những vậy còn nguyện
suốt đời không lấy vợ để tránh mọi tranh giành ngôi báu về
sau. Đó là một hy sinh cực lớn. Lời phát thệ của
Shântavana vừa thốt ra, có tiếng reo vui từ cõi trời vang
xuống, và hoa rụng lả tả quanh chàng. Từ đấy Shântavana
được mệnh danh là Bhĩshma (người thực hiện một lời thề
khó).
Shatyavatĩ nhận lễ thành hôn với nhà vua, sau đó có được
hai con trai; Chitrângada và Vichitra-vĩrya. Khi vua
Shantanu băng hà, chính Bhĩshma trông nom săn sóc hoàng
hậu Shatyavatĩ và hai con của bà. Thoạt Chitrângada lên
ngôi báu, đi chinh phạt một bộ lạc miền Tây Bắc Ấn độ, và
tử trận ở đó. Vichitra-vĩrya, lúc đó còn nhỏ tuổi, vẫn lên
ngôi thay anh, Bhĩshma làm nhiếp chính.
Dưới quyền nhiếp chính của Bhĩshma, vương quốc thịnh vượng
lắm. Chẳng bao lâu thiếu quân đã đến tuổi trưởng thành,
Bhĩshma, một hôm ruổi rong sang vương quốc láng giềng, bắt
gặp ba chị em gái vừa tới tuổi xuân hơ hớ, bèn bắt cóc
mang về cho em mình. (Thuở đó lệ luật cho phép như vậy).
Hoàng thái hậu Shatyavatĩ vui mừng tiếp nhận ba cô dâu
mới, nhưng ba cô cùng thất vọng, vì truớc các cô tưởng sẽ
được làm vợ Bhĩshma, ai ngờ lại chỉ bị bắt cóc để mang về
cho một cậu trẻ tuổi. Cô lớn tuổi nhất lúc đó mới nói
thiệt cô đã hứa hôn với ông hoàng Sâlwa. Bhĩshma bèn gửi
trả nàng cho vị hôn phu, nhưng ông Hoàng từ chối, cho rằng
nàng đã phạm lỡi cư ngụ dưới mái nhà của một người đàn ông
khác rồi. Nàng cầu khẩn Bhĩshma hãy lấy nàng. Bhĩshma đáp
việc đó quyết không thể được và khuyên nàng nên tới nói
với ông hoàng Sâlwa một lần nữa. Nàng nghe theo nhưng
Sâlwa vẫn cương quyết từ hôn. Nàng mang nặng oan cừu với
Bhĩshma từ đây và đi thẳng vào rừng tu luyện khổ hạnh.
Nàng được thần chiến tranh Kârttikeya (con của thần Shiva)
trao cho một vòng hoa kết bằng những bông sen không bao
giờ tàn. Kẻ nào chịu choàng vòng hoa này sẽ thành địch thủ
với Bhĩshma. Nàng đã nhọc công nói với hết chiến sĩ này
tới chiến sĩ khác mà không ai muốn làm địch thủ với
Bhĩshma cả. Sau cùng nàng quàng đại vòng hoa lên cửa ngọ
môn ngay trước hoàng cung của vua Drupada rồi trở lại chốn
rừng sâu tiếp tục tu luyện khổ hạnh thêm một thời gian
nữa.
Nơi đây, nàng gặp một người bạn đồng đạo khác. Người này
khuyên nàng nên tới cầu cứu Parasu-râma (Râma cầm dìu, hóa
thân thứ sáu của thần Vishnu). Nhưng chính Parasu-râma
cũng khuyên nàng nên giảng hòa với Bhĩshma là hơn cả. Nàng
không chịu, và lặn lội tới Hy mã lạp sơn cầu xin thần
Shiva giúp nàng. Shiva hứa kiếp sau nàng sẽ giết được
Bhĩshma. Nàng sung sướng quá, lập ngay một dàn hỏa để được
chết tức khắc và đầu thai thành con gái của vua Drupada.
Khi biết chạy, biết nhảy, nàng tới cửa ngọ môn, gỡ vòng
hoa của Kârttikeya xưa và quàng lên cổ. Vua Drupada không
muốn gây hấn với Bhĩshma bèn đuổi nàng vào rừng. Nơi đây
nàng lại tu khổ hạnh và biến thành đàn ông lấy tên là
Shikhandin.
Trở lại chuyện hai người em gái nàng, Ambikâ và Ambâlikâ.
Hai nàng sống với chồng (ông vua trẻ Vichitra-vĩrya),
nhưng chẳng bao lâu thiếu quân băng hà, không con nối dõi.
Hoàng thái hậu Shatyavatĩ khuyên Bhĩshma hãy quên lời
nguyền cũ mà lấy hai nàng để duy trì dòng họ. Bhĩshma
cương quyết khước từ. Lúc đó Hoàng thái hậu mới sực nhớ
tới đứa con đầu – Vyâsa – mình sinh ra hồi còn là cô lái
đò. Lập tức Vyâsa hiện tới như đã hứa. Hoàng thái hậu nói
rõ đầu đuôi câu chuyện và nỗi thắc mắc của bà. Vyâsa nhận
lời giúp bà bằng cách sống vợ chồng với hai hoàng hậu góa
bụa. Nhưng chết nỗi sau một thời gian dài tu luyện khổ
hạnh, hình thù Vyâsa nay trở thành xấu xí quái đản đến nỗi
khi nàng Ambikâ thoạt thấy chàng vội nhắm nghiền mắt lại
và đứa con trai nàng sinh, Dhrita-râshtra, bị mù ngay tự
thuở vừa lọt lòng. Còn nàng Ambâlikâ cũng kinh hồn, tảng
đởm không kém khi trông thấy ông chồng mới, và đứa con
trai nàng sinh da mặt lợt lạt đến nỗi nàng đặc cho cái tên
là Pându. Hoàng thái hậu cũng không hài lòng về dung nhan
hai đứa cháu đầu lòng, bèn ướm hỏi nàng Ambikâ có ưng thêm
đứa con nữa không. Nàng đáp là ưng, nhưng trong lòng thì
ngán ngẩm vô cùng, nên sau đổi ý, bắt một thị tì vào thay
mình việc đó. Tới ngày tới tháng, người thị tì sinh ra một
đứa trai, đặt tên là Vidura, đó chính là thần Chánh pháp
Dharma giáng sinh.
Vì sao thần Chánh pháp phải giáng sinh như vậy? Nguyên do
có một đại hiền giả nọ, vào lúc tham thiền nhập định thì
một tên trộm bị lính nhà vua truy nã phải lẩn vào thảo am
và cất dấu báu vật trong đó. Đại hiền giả đương lúc xuất
thần, nhập hóa đâu có hay biết điều đó. Khi quân lính vào
thảo am, khám thấy báu vật, bèn ném ngọn dáo xuyên qua
người hiền giả. Hiền giả vẫn ngồi nguyên thế tham thiền mà
không chết. Việc đó đến tai vua. Vua bèn đến quỳ gối hôn
chân hiền giả để xin lỗi và ra lệnh rút mũi dáo ra. Một
ngày kia hiền giả tới gặp thần Chánh pháp Dharma hỏi vì
sao mình phải thụ nạn đó thì Dharma trả lời rằng hồi hiền
giả còn là đứa trẻ nhỏ hay hành hạ loài ong và loài chim.
Vì nhân kia mà có quả này. Hiền giả cho đó là một điều bất
công, vì không thể xử nghiêm khắc như vậy đối với hành
động của trẻ thơ, nên phát độc thệ đòi Dharma phải giáng
sinh làm kiếp người. Thần Dharma đã thể nhập vào thân xác
Vidura là vì vậy!
Bhĩshma trông nom cho ba đứa trẻ lớn lên. Dhrita-râshtra
mù, Vidura là con một thị tì, vì vậy cả hai không thể lên
nối ngôi trời. Chỉ còn Pându.
Pându là một vị quân vương vừa anh minh, vừa dũng cảm. Ông
có hai vợ, hoàng hậu là bà Prithâ, sủng phi là bà Mâdrĩ.
Hoàng hậu Prithâ còn có tên Kuntĩ và là em gái Vashu-deva
(cha của Krishna). Khi còn là một thiếu nữ mới lớn lên,
nàng đã khéo léo cư xử đến nỗi hiền giả Durvâsa rất cảm
mến và truyền cho một câu thần chú, nói rằng khi niệm câu
đó lên thì quyến rũ được thần linh. Lần đầu tiên nàng đã
quyến rũ thần Mặt Trời và có với thần một đứa con trai.
Nàng không dám để tiết lộ việc sinh nở này, bèn đặt đứa
con khôi ngô đó vào một cái rỏ rồi thả cho xuôi theo dòng
sông Hằng, cầu nguyện thần linh hãy che chở cho hài nhi.
Râdhâ, vợ người đánh xe của hoàng thân Dhrĩta-râshtra, vớt
được đứa trẻ. Cặp vợ chồng người đánh xe này (Shântananda
và Râdhâ) vì không con nên nuôi đứa trẻ như con đẻ và đặt
tên là Karna. Kuntĩ không hề biết con mình trôi nổi về
đâu, mà Karna cũng chỉ biết có nghĩa mẫu làRâdhâ mà thôi.
Còn bà sủng phi Mâdrĩ cũng là do Bhĩshma đem đổi vàng bạc,
châu báu và voi mà mua về tự Madra (Kashmir bây giờ) cho
Pându.
Hoàng hậu Kuntĩ chính thức có với Pându ba con trai, sủng
phi Mâdrĩ có hai. Sau đó Pându không thể có con được nữa,
bèn cho phép hai bà sử dụng lời thần chú mà có thêm con.
Bà Kuntĩ đã lần lượt gặp thần Chánh pháp Dharma, thần Gió
Vâyu và thần sét Indra mà có ba con trai : Yudhi-shthira,
Bhĩma và Aruyna.
Bà Mâdrĩ gặp cặp anh em sinh đôi Aswins (con của thần Mặt
trời và là những thần y trong thế giới thần linh), sinh hạ
được cặp sinh đôi Nakula và Shahadeva.
Năm người con trên đây vì có nguồn gốc thần linh nên đều
có điểm khác người. Yudhi-shthira vừa là một chiến sĩ cừ
khôi, vừa có tinh thần công minh chính trực vì là con của
thần Chánh pháp Dharma. Bhĩma cực kỳ dũng mãnh và dễ nổi
giận vì là con của thần Gió Vâyu. Aryuna là con thần Sét
Indra đứng đầu chư thần, nên cũng nhiễm tinh thần dũng
lược và thông minh thánh trí. Nakula và Shahadeva đều dũng
lược nhưng không dự phần quan trọng cho lắm như các anh
khác trong cuộc chinh chiến sau đây.
Về việc Pându tự nhiên không có con nữa, hình như có duyên
do tự một cuộc săn rủi ro nọ. Lần đó, Pându vào rừng, bắt
gặp một đôi nai đương nhởn nhơ đùa rỡn, bèn bắn chết con
đực. Truớc khi tắt thở, con nai đực nói thực sự đây là một
đôi vợ chồng Bà la môn đương trá hình để đùa rỡn, và vì
việc bắn lầm này, Pându rồi đây cũng chết trong tay vợ như
nạn nhân của Pându vậy.
Pându hối hận lắm, bèn tự nguyện diệt dục, nhường ngôi báu
lại cho Dhrita-râshtra (vị hoàng thân mù) rồi mang hai vợ
vào sống ẩn dật trong rừng. Ít năm sau, Pându chết trong
tay Mâdrĩ. Chính Mâdrĩ tự nguyện lên dàn hỏa với chồng. Bà
Kuntĩ mang năm con trở về triều đình Hastinâ-pura của
Dhrita-râshtra. Năm con bà (vẫn được gọi là anh em nhà
Pândavas) sống xum họp trong nhiều năm với trăm người con
của Dhrita-râshtra (vẫn được gọi là anh em nhà Kauravas
hay Kurus).
Nguyên do Dhrita-râshtra cưới con gái vua Gândhâra là công
chúa Gândhârĩ làm vợ; công chúa Gândharĩ có lần đã tỏ ra
rất tốt với Vyâsa nên được Vyâsa hứa ban cho một phép lạ;
Gândaharĩ bèn ước có trăm con trai. Sau khi lấy
Dhrita-râshtra, Gândharĩ mang thai hai năm rồi sinh ra một
khối thịt. Vyâsa bèn cắt khối thịt ấy thành một trăm lẻ
một miếng nhỏ, bỏ vào từng chum cho lớn. Đủ ngày đủ tháng,
Dur-yodhana ra khỏi chum trước tiên, đồng thời trong vương
quốc có nhiều điềm xấu đến nỗi thần dân yêu cầu vua hãy bỏ
thí cho Dur-yodhana chết đi nhưng vua không nghe. Sau đó
99 người con trai khác và một cô gái duy nhất lần lượt ra
khỏi từng chum. Hai đám anh em Pândavas và anh em Kauravas
tuy cùng máu mủ thân thích, nhưng vì chung sống lúc còn
trẻ người non dạ trong một bầy quá đông nên nhiều xích
mích nảy mầm từ đó.
Đám anh em Kauravas âm mưu hạ độc thủ Bhĩma trước, rồi sẽ
giết cả năm mẹ con còn lại sau. Hôm đó, bầy trẻ lập tiệc
vui bên bờ sông Hằng. Anh em Kauravas biết Bhĩma háu ăn
nên đã bày sẵn những món trân cam rất nhiều. Ăn no căng
bụng, Bhĩma thấy buồn ngủ, bèn một mình vào nằm nghỉ tại
căn buồng nhìn xuống sông Hằng. Đám anh em Kauravas lại
khéo mời Bhĩma ăn thêm vào lúc đó một số kẹo có tẩm thuốc
ngủ. Khi biết chắc Bhĩma đã ngủ say li bì rồi, họ quẳng
Bhĩma xuống sông. Mấy anh em Pândavas còn lại vẫn tiếp tục
vui chơi vì yên chí là Bhĩma buồn ngủ, đã về ngủ.
Nói về Bhĩma khi bị quẳng chìm xuống sông, liền bị một đám
rắn độc tới mổ, nọc rắng tác động vào thuốc mê làm Bhĩma
vùng tỉnh và đánh rạt đám rắn. Bhĩma lúc đó thấy mình sống
giữa triều đình rắn của vua Vâsuki, lại gặp cả vị tằng tổ
phụ của mình là Aryaka tại đó nữa. Vâsuki chào mừng Bhĩma
và hứa tặng cho một phép lạ. Tằng tổ Aryoka đề nghị hãy
tặng Bhĩma sức mạnh của một ngàn con rắn. Thế là sau khi
uống tám bát đầy xà lực, Bhĩma lăn ra ngủ tám ngày liền
rồi mới trở về khỏe mạnh lạ thường. Mẹ và các anh em reo
vui hết sức, vì còn ai ngờ Bhĩma thoát chết mà trở về nữa.
Cố nhiên đám anh em Kauravas rất đỗi ngạc nhiên khi gặp
Bhĩma. Bhĩma ngỏ lời cám ơn họ đã dìm mình xuống sông vì
chính nhờ dịp này mà sức lực được tăng lên vạn bội. Bhĩma
lại nói thêm là sẵn sàng chiến đấu với họ từng người một
hay cả đám một lúc. Nhưng Bhĩshma khuyên lũ cháu hãy xếp
mọi vấn đề quan trọng sang một bên, đợi ít năm nữa tất cả
cùng trưởng thành hãy hay.
Chính vì đề nghị khôn ngoan đó mà triều đình Hastinâ-pura
của Dhrita-râshtra còn giữ được bề ngoài thanh bình thêm
một thời gian nữa.
Ngày lũ trẻ sắp tới tuổi thành niên, Bhĩshma lo tìm thầy
luyện võ cho chúng. Nhưng tìm thầy ở đâu bây giờ?
Một hôm lũ trẻ đương chơi banh thì trái banh rớt xuống một
cái giếng sâu đã bỏ lâu không dùng. Cả lũ đương loay hoay
không biết làm sao lấy banh lên được thì chợt nhận thấy
một ông già Bà la môn nằm nghỉ cạnh đó. Cả bọn bèn đến hỏi
xem ông ấy có cách gì lấy giúp trái banh lên không. Ông
lẳng lặng đến bờ giếng, rút một chiếc nhẫn ở ngón tay ra
ném theo xuống, rồi cười nói không những ông có thể lấy
trái banh lên mà còn lấy được cả chiếc nhẫn vừa ném xuống
nữa.
Nói đoạn ông ngắt những lá cỏ lớn mũi nhọn cứng, rồi liên
tiếp ném xuống đáy giếng, đầu nhọn của lá cỏ nầy đâm xuyên
qua cuống của lá cỏ kia, sau cùng ông làm thành chiếc
thừng dài bằng cỏ, kéo lên thì dưới cùng là trái banh. Lần
sau ông cũng làm như vậy, kéo lên chiếc nhẫn. Lũ trẻ khoái
lắm, hỏi ông ta là ai. Ông ta bèn bảo chúng hãy về thưa
với tổ phụ là có Drona ở đây.
Khi Bhĩshma nghe lũ cháu về thưa lại như vậy, vội vã đi
chào mừng Drona và khẩn cầu ông hãy ở lại luyện tập võ
nghệ cho lũ trẻ. Drona nhận lời với điều kiện khi lũ trẻ
thành tài, chúng phải giúp Drona hạ Drupada, vua xứ
Pânchâla.
Nguyên Drona, con một vị Bà la môn và một nàng tiên nữ,
thuở nhỏ cùng ông hoàng Drupada là đôi bạn thân và cả hai
cùng được vị Bà la môn Bhâradwâja nuôi nấng, dạy dỗ tại
thảo lư bên ngọn nguồn sông Hằng trong Hy mã lạp sơn. Khi
vua cha băng hà, Drupada trở về kinh đô lên nối ngôi báu;
Drona thì vẫn tiếp tục cuộc đời tu luyện sau khi cha mất,
có được khá nhiều bửu bối do các thần linh ban cho. Về
sau, lại cưới Kripâ, cô em khác mẹ của Bhĩshma, và có được
con trai tên là Aswatthâma. Một lần tu sĩ khất thực Drona
tới triều đình thăm bạn cũ Drupada, nhưng bị Drupada hất
hủi, bèn nuôi chí phục hận từ đấy.
Cuôc tập luyện võ nghệ cho lũ cháu Bhĩshma bắt đầu. Các
vương tôn khác trong triều cũng tấp nập xin đến để thụ
huấn, kể cả chàng Karna, con nuôi của người đánh xe (Như
chúng ta đã biết, Karna chính là đứa con đầu lòng của bà
Kuntĩ có với thần Mặt trời, bị thả xuôi theo dòng sông
Hằng).
Trong cuộc luyện tập võ nghệ hàng ngày, luôn luôn Karna tỏ
ra xuất sắc ngang với Arjuna. Vì vậy đôi bên, anh em cùng
mẹ mà không hay, sinh lòng ghen ghét nhau.
Sau một thời gian huấn luyện, Drona thử tài lũ trẻ. Ông
cho làm một con chim gỗ đặt lên cành cây cao. Mỗi lần đến
phiên một môn đệ tới bắn, Drona hỏi ngoài con chim còn
thấy gì nữa. Anh thì đáp còn thấy cây, anh thì đáp còn
thấy người xung quanh. Drona lắc đầu bảo từng cậu là như
vậy thì đừng thử bắn làm gì, vô ích. Sau cùng đến lượt
Arjuna, khi được hỏi trông thấy gì, Arjuna đáp thấy con
chim. Drona lại hỏi ngoài chim ra còn thấy gì nữa. Arjuna
đáp là không thấy gì khác. Lại hỏi có nhận xết gì thêm về
con chim không. Arjuna đáp không vì lúc đó Arjuna chỉ hoàn
toàn chú mục vào đầu con chim. Drona gật đầu, hài lòng,
bảo Arjuna bắn đi. Arjuna đã bắn bay đầu con chim.
Đám anh em Kauravas càng nổi lòng ghen tức ngấm ngầm.
Ngày tất cả đám thiếu niên đã được huấn luyện đầy đủ và
thuần thục, Drona cho tổ chức một cuộc thi tài tối hậu. Dù
lòa Dhrita-râshtra cũng hiện diện. Hoàng hậu Gândharĩ tuy
mắt sáng nhưng từ ngày kết hôn với nhà vua cũng tự ý bịt
mắt. Trên khán đài còn hiện diện đủ mặt hoàng gia cùng
triều thần. Quanh đấu trường thì dân chúng tới xem, quây
vòng trong vòng ngoài tới hàng ngàn hàng vạn. Lúc các
chiến sĩ trẻ tuổi thi bắn cung, thì tiếng những mũi tên xé
vút không khí khiến khán giả cảm thấy rợn tóc gáy và mũi
nào cũng đều trúng đích. Đến lúc dùng vũ khí cá nhân đấu
với nhau từng cặp, Bhĩma và Dur-yodhana cùng nhau đấu
chùy, hăng hái đến một mất một còn như hai kẻ tử thù. Thấy
vậy, Drona vội cho lệnh ngừng lại. Đến lượt Arjuna vào đấu
trường uy phong lẫm liệt, giáp trụ rỡ ràng dát vàng nạm
ngọc, dân chúng quanh đấu trường nhất tề hò reo vang động
tưởng thấu trời xanh.
Dhrita-râshtra khẽ hỏi Vidura ngồi bên ai vừa xuất hiện
vậy. Vidura đáp đó là người con trai tuấn vĩ của Pritha :
Arjuna đẹp như thiên thần! Dhrita-râshtra lấy làm hài lòng
lắm vì nhà vua cho rằng chính anh em nhà Pândavas đã thánh
hóa vương quốc này.
Sau khi Arjuna biểu diễn xong những đường võ tuyệt luân
giữa những tiếng reo hò tán thưởng vang trời thì Karna vào
đấu trường hét lớn rằng Arjuna chớ nên lấy thế làm tự đắc
vì còn Karna này nữa. Lời nói đó làm Dur-yodhana hả lòng
hả dạ nhưng làm Arjuna tức điên người. Vừa lúc bà Prithâ,
do một dấu vết bí mật, nhận ra Karna, đứa con đầu lòng bà
đã phải bỏ rơi, thả xuôi dòng Hằng hà. Nhưng tới lúc đó bà
vẫn chưa đám nhận con mà lòng mẹ thì thương con đồng đều.
Bà đau đớn thấy lòng căm thù đã manh nha ngay giữa anh em
ruột thịt mà chúng không hay. Nỗi lòng bị vò xé bởi hoàn
cảnh trớ trêu đó, bà ngất xỉu. Vidura vội mang nước trầm
hương tới vẩy. Bà hồi tỉnh, nghe thoáng đâu đây tiếng ai
nguyền rủa Karna là “con nhà lê dân đê tiện”.
Rồi Karna bắt đầu biểu diễn đủ thập bát ban võ nghệ điêu
luyện không kém Arjuna mảy may. Dur-yodhana vỗ tay và lớn
tiếng hoan hô Karna như kẻ đã đoạt được vòng hoa chiến
thắng. Nhưng Karna cho rằng chàng chỉ xứng đáng lời đó khi
đã chính thức thắng Arjuna trong một cuộc tỉ thí tay đôi.
Arjuna cùng Karna trao đổi những lời hằn học. Indra thả
mây che chở cho con Arjuna. Sũrya, thần Mặt Trời, chiếu
rọi những tia sáng tưng bừng lên giáp trụ của con Karna.
Vì vậy, cả đấu trường khi đó lấp loáng những tia chớp chói
lòa.
Dur-yodhana và các em đứng bên phía Karna, Drona và
Bhĩshma đứng bên phía Arjuna. Nhưng theo quy luật đấu
trường thì một vị vương tôn như Arjuna không thể hạ mình
tỷ thí với một kẻ xuất thân chỉ là con một người đánh xe
của đức vua. Dur-yodhana bèn cắt đất phong cho Karna làm
vua một miền nhỏ mang tên Anga. Nhưng khi nghi lễ đó xong
thì trời cũng vừa tối. Cuộc tỉ thí phải hoãn đến hôm sau.
Karna kể từ đấy hoàn toàn gắn bó với phe anh em Kauravas.
Không ai rõ một cách minh xác cuộc tỉ thí hôm sau giữa
Arjuna và Karna, ai là kẻ đã nắm được ưu thế. Kẻ thì bảo
là Arjuna; kẻ thì bảo Karna. Đến chính Yodhi-shthira cũng
băn khoăn tự hỏi giữa Arjuna và Karan, ai nặng đồng cân
hơn ai.
Chỉ biết sau trận tỉ thí đó, tất cả môn đệ phải theo Drona
đi thanh toán mối thù với Draupada. Anh em Kauravas đột
nhập kinh thành Pâchâla của Drupada trước, nhưng bị đánh
bại. Tới phiên anh em Pândavas đột nhập thì Drupada bị
Arjuna bắt sống mang lại cho Drona. Anh em Kauravas muốn
thừa thắng xông lên, đốt phá cả kinh thành Pânchâla. Nhưng
anh em Pândavas không ưng vì biết Drona chỉ cần chiến
thắng có Drupada thôi.
Thật ra Drona đã không hề coi Drupada như kẻ thù. Vì trước
đây Drupada bảo là không thể có tình bạn giữa một quốc
vương với một tu sĩ khất thực. Thì nay Drona chiến thắng
Drupada chỉ để chia đôi giang san của Drupada cho có đủ
điều kiện nối lại tình bạn xưa.
Tuy nhiên Drupada vẫn hận Drona lắm và âm thầm mưu đồ phục
hận.
Dhrita-râshtra thấy rằng đã đến lúc công bố Yudhi-shthira
là đông cung thái tử, nối ngôi báu sau nầy. Danh tiếng anh
em Pândavas nổi dậy như sóng cồn, càng làm anh em Kauravas
uất hận và cương quyết tìm cách ám hại. Nhân có cuộc mở
hội lễ vía thần Shiva tại kinh thành Vâranâvata, đám anh
em Kurus bảo đám anh em Pandus nên tới đó dự hội rồi ở lại
xem kinh thành một ít lâu. Anh em Pandus biết đó là một
cách trục xuất gián tiếp, nhưng cũng làm bộ vui vẻ trảy
hội mang theo cả mẹ cùng đi. Bạn trong triều của anh em
Pandus chỉ có Vidura (hóa thân của thần Chánh pháp
Dharma). Vidura có tài đọc được ý nghĩ thầm kín của kẻ
khác nên mới khuyên anh em Pandus chuyến này ra đi phải
hết sức thận trọng, phải tập quen lối đi trong rừng, tập
định hướng đi bằng sao trên trời, tới ở nơi nào phải bí
mật đào hầm làm nơi trú ẩn an toàn, và luôn luôn phải
chuẩn bị nhiều lối thoát tự trong nhà ra.
Quả nhiên, khi anh em Pandus mang mẹ tới nơi thì người ta
đã dựng sẵn cho một căn nhà bề ngoài trông rất đẹp, nhưng
vật liệu xây cất thuần loại gỗ dầu thơm phức, rất dễ bắt
lửa. Vidura đã cử tới một thợ mỏ, phụ trách đào giúp anh
em Pandus một cái giếng sâu có lối thoát ra ngoài khi căn
nhà bị hỏa hoạn.
Một năm sau, căn nhà bị bốc cháy vào đúng hôm có gió lớn,
nhưng mẹ con nhà Pandus đã ra thoát bằng con đường dưới
giếng. Họ không ngờ rằng trong nhà khi đó có một bà mẹ ăn
mày và năm con vào ngủ nhờ, thảy đều bị chết cháy. Người
thợ mỏ đã tức khắc theo lệnh Vidura tới lấp phẳng giếng và
hầm bí mật. Khi anh em Kurus tới, thấy sáu đống xương tàn
thì không còn nghi ngờ gì về cái chết của sáu mẹ con nhà
Pandus nữa. Trong khi đó, anh em Pandus dắt mẹ xuyên rừng,
hành trình rất là vất vả, nhiều khi Bhĩma phải cõng mẹ.
Rồi họ cũng tới bờ sông Hằng, nơi đây đã có người do
Vidura cử tới đợi sẵn để chở họ qua sông. Họ tới thị trấn
Eka-chakrâ, cư ngụ tại nhà một người Bà la môn, y phục
theo đạo Bà la môn, khất thực như những tu sĩ Bà la môn.
Ít lâu sau, có tin Drupada làm lễ kén phò mã cho con gái
là Công chúa Draupadĩ. Năm anh em Pandus được mẹ khuyến
khích hãy tới triều đình của Drupada thử thời vận.
|
|
|
|
|
|