Home Tìm Ca Dao Trợ Giúp Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
   

TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG - 4A

Trang 1A  1B  1C  1D   1E   1F   1G   1H   1I   1J   1K

Trang  2a  2b  2c  3a  3b  3c

 Trang  4a  4b  4c  4d  5a  5b  5c  5d 

QUYỂN BỐN  

 
THẦN THOẠI
Việt Nam – Trung Hoa

 
DOÃN QUỐC SỸ
 
Sưu tập
 

 

 

LỜI CẢM TẠ

Xinh chân thành cảm tạ Giáo sư Nguyễn Văn Nha đã giúp soạn giả nhiều trong phần tham khảo các tài liệu chữ Hán khi viết về thần thoại Trung Hoa.

Xin chân thành tri ân :
Ông Hoàng Trọng Miên – tác giả Việt Nam Văn Học Toàn Thư,
Giáo sư Lê Hữu Mục – dịch giả Lĩnh Nam Chích Quái và Việt Điện U Linh Tập,
Giáo sư Trần Ngọc Ninh, về những bản văn đúc kết và trích dẫn.

THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ MIỀN NÚI

TỔNG LUẬT VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM

Có thể coi thần thoại Việt Nam là một thành phần của gia đình thần thoại lớn gồm cả các sắc tộc miền núi như Mường, Mèo, Thái, Mán, Khả, Lô lô … nghĩa là tất cả những sắc dân quy tụ trong khoảng địa bàn từ miền nam núi Ngũ Lĩnh đến cao nguyên Trấn Ninh, phía nam Hoành Sơn.

Nhìn vào thần thoại Việt Nam và so sánh với thần thoại của đồng bào miền núi, chúng ta thấy phần sáng tạo vũ trụ của ta dường như có bị hao hụt và lai với thần thoại Trung Hoa khá nhiều. Trong Việt Nam Văn Học Toàn Thư, quyển I, Thần Thoại, tác giả Hoàng Trọng Miên cũng đã cố gắng sưu tầm và sắp xếp rất hợp lý thần thoại Việt Nam từ thuở sáng lập vũ trụ đến các huyền thoại dật sử, nhưng trong phần “Vũ trụ và muôn loài”, chúng ta thấy hầu hết phần sau các huyền thoại đều bị pha màu Trung Hoa. Tỷ như truyện “Trời” thì vợ Trời là bà Tây Vương Mẫu (Trung Hoa) ở núi Côn Lôn (địa danh Trung Hoa). Truyện “Thần Nam và thần Nữ” thì thần Nữ la` Nữ Oa (Trung Hoa). Đến những truyện khác như thần Tài, thần Phúc, thần Thọ, thần Lộc đều là những khuôn mặt du nhập tự Trung Hoa.

Đã đành có sự giao lưu giữa các thần thoại trên thế giới, nhưng dù có chịu ảnh hưởng hỗ tương, thì huyền thoại của mỗi nước vẫn phải mang con dấu của riêng mình, không nên chấp nhận những gì chỉ là sự vay mượn hay vá víu đơn thuần.

Trước khi chọn lọc, giới thiệu thần thoại Việt Nam và thần thoại các sắc tộc miền núi, chúng tôi muốn thoạt hãy trình bày một đồ biểu để chúng ta có được ngay cái nhìn tổng quát và những nét tương đồng tương dị giữa các thần thoại đó (xem trang 19-21). Mấy nét huyền thoại chính dùng làm tiêu điểm trong đồ biểu là : Thượng đế sáng tạo vạn vật, hay đấng thủy tổ; nạn Hồng thủy; anh em lấy nhau; cây, cột hay tháp nối liền trời đất.
Nhìn vào đồ biểu (trang 19-21), chúng ta rút ra một số nhận xét :

1. Hầu hết các thần thoại đều có nạn Hồng thủy trừ thần thoại Việt, Mường và Phủ Nội *.
2. Thần thoại Việt, Mường và Mèo thuộc dòng huyền thoại sinh ra trứng rồi nở ra các giống người; còn thần thọai Thái, Khả, Mán, Lô-lô, Phủ nội thuộc dòng huyền thoại trái bầu, rồi tự đó chui ra các giống người.
3. Thần thoại Thái và Phủ nội không có truyện anh em sống sót sau nạn Hồng thủy, buộc lòng phải lấy nhau để duy trì nhân loại.
4. Thần thoại Mán, Khả, Lô lô không thấy nói tới huyền thoại cây hay cột chống trời, nối liền trời đất.
5. Riêng thần thoại Lô lô, theo bản văn của Hoàng Trọng Miên (VNVHTT, Quyển 1, Thần thoại, trang 135-36) chỉ thấy nói người em út và người chị sống sót sau nạn Hồng thủy, mà không nói thêm có buộc lòng phải lấy nhau như những thần thoại Khả, Mán, Mèo, Mường không. Sự thiếu sót này có lẽ vì vào thời khởi thủy, Thượng đế Kết Dơ đã dùng đất nặn ra thần Nam và thần Nữ, và hai thần này cũng đã tự coi nhau như anh em buộc lòng phải lấy nhau rồi, nên không muốn nhắc lại một lần nữa ở sự tích hai chị em sống sót chăng ?
6. Sau cùng, nếu đọc kỹ bản văn (cũng của Hoàng Trọng Miên), chúng ta thấy thần thoại Mán thuở khởi thủy cũng có Bàn Cổ (giống Trung Hoa), hơn nữa con Bàn Cổ là Bàn Vũ lại lấy công chúa thứ ba của Hoàng đế Trung Hoa. Thần thoại Phủ Nội thì có nhắc đến thần Indra của Ấn độ và những tu sĩ từ Hy mã lạp sơn xuống. Đó là những nét giao lưu được ghi nhận giữa các thần thoại láng giềng.

(*) Tức P’u Noi (xem chú thích trang 21 sau đây)

Ý NGHĨA CỘT CHỐNG TRỜI

Đặc biệt những dân ngày nay đã thành dân Đại Dương, họ tin rằng khởi thủy của vũ trụ có một cái cây là trung tâm của cả Trời Đất, lá cây phát ra những tiếng vi vu là lời của tổ tiên, do đó tạo ra ngôn ngữ để làm trật tự cho loài người.

Về vấn đề này, Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã viết, đại ý :
Trong tín ngưỡng của dân Lạc cổ, hay đúng hơn của những người thuộc nhiều sắc dân nhưng gần chung một văn hóa qua các huyền thoại ở khu vực nằm giữa Ngũ lĩnh và Hoành sơn, thì sau khi Trời Đất phân chia, vũ trụ đã được tổ chức quanh một cái cột thông liền ba cõi thế gian Trời-Đất-Người. Bốn phương được định, mặt đất được tổ chức, sự phân biệt đất sống và đất linh cho phép các bộ lạc làm ăn, sinh sống dưới bóng linh thiêng.

Thần thoại Việt nam có truyện “Thần Trụ Trời”. Núi Tản Viên là một nơi khác cũng được coi là một cột chống trời, đệ nhất cao sơn của Việt nam, nơi trời đất thông nhau, Sơn Tinh ngự ở đó. Trong huyền thoại Chử Đồng Tử ở đồng bằng ven sông, trên bãi không, cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên, thành biểu tượng của cột chống trời, linh thiêng hiển hiện, đất cấm trở nên ở được, trù phú.

Người Phủ Nội cho rằng cây chống trời là cây song Khưa-khao-cát mọc ở hồ Nong-khu (Điện Biên Phủ).

Thần thoại Thái có cây song Chuốc-khao-cát làm đường đi lại giữa trời và đất. Hai thiên sứ Tao Suông và Tao Ngân khi xuống mặt đất sau nạn Hồng thủy cũng có mang theo tám quả bầu và tám gậy đồng Sao-cam-pha (gậy chống trời).

Thần thoại Mèo thì dân chúng nhớ thiên đường Giu Giang Ka bèn rủ nhau xây tháp làm đường lên trời.

Thần thoại Mường kể rằng bộ hạ Lang-Đa-Cần đã phải vất vả lắm mới kiếm được cây Chu-đồng linh thiêng đem về làm trụ kình thiên cất cung điện *.

(*) Xin đọc Trần Ngọc Ninh, “Huyền thoại Việt nam”, Tân Văn, 14 (tháng 6, 1969), 23-36

VẤN ĐỀ THIẾU NẠN HỒNG THỦY TRONG THẦN THOẠI VIỆT NAM

Vẫn giáo sư Trần Ngọc Ninh trong thiên khảo luận “Huyền Thoại Việt Nam” đăng trong nguyệt san Tân Văn có nêu ý kiến về vấn đề này, xin tóm lược :

… Các nhà nho của ta xưa cũng như các triết gia Hy lạp cổ còn nhân danh một thứ luân lý hẹp hòi và hủ lậu mà chọn lọc hay sửa chữa lại các huyền thoại như Xénophone, Platon chê Homère, như Khổng Tử san định Thi, Thư, gọt rũa lại những truyện Nghiêu, Thuấn, Vũ, như Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp kể lại những sự tích u linh quái dị ở Việt Nam, nhưng chỉ ghi những vĩ tích được coi là “thông minh chính trực” theo quan niệm của nhà nho.

Nhưng các huyền thoại, công trình sáng tác chung của dân tộc từ thuở sơ khai, đâu có thể cho một vài cá nhân phán xét và sửa chữa được ? Huyền thoại chính là lịch sử linh thiêng của dân tộc, là lý do của nền văn hóa, là chân lý tối cao của cuộc sống, là di ngôn của tổ tiên để lại cho muôn đời về sau. Những người sửa lại huyền thoại không những đã làm mất một sự bi hùng chứa đựng trong những huyền thoại, mà còn phá hủy những cơ cấu khả dĩ giúp ta hiểu được một phần nào những ký hiệu và tượng trưng mà người xưa muốn truyền lại cho ta.

Khi sưu tầm những huyền thoại do dân gian truyền lại để viết Lĩnh Nam Chích Quái Trần Thế Pháp, vào khoảng thế kỷ thứ XIV, XV đã tự ý bỏ bớt đi tất cả những truyện của thời khai thiên lập địa và không nói gì đến trận Hồng thủy, chỉ vì vào thời ấy thì các nhà nho của ta đã hoàn toàn tin theo những thuyết của Trung hoa ghi lại trong kinh Thư và kinh Thi mà cho rằng miền Nam Ngũ Lĩnh không bị nạn Hồng thủy. Lại sửa chữa lại một vài điểm trong thần thoại cho văn vẻ, trái bầu thì đổi là cái bọc hay “bào” theo chữ Hán, và dùng những chữ “quân”, chữ “cơ” để nói rằng người thần đất Lạc là một người lãnh đạo (quân), đã lấy một cô gái đất Âu (cơ). Nhưng rồi đời sau người ta tưởng rằng đây là những tên người thật ! Cứ theo những thần thoại cổ thì Lạc Long, hay vị tổ đời thứ nhất của dân tộc, tất phải là một người đầy trí đức, đã được Trời cứu khỏi nạn Hồng thủy để lập nên một nước mới. Theo truyền thuyết của Trung hoa thì trận Hồng thủy xẩy ra cuối đời vua Nghiêu đến đời vua Thuấn thì ông Vũ mới bình trị được. Kinh Thư còn có câu : “Hồng thủy ngất trời ! Mênh mông bọc núi, trùm gò ! Dân dưới mê man chìm đắm”. Như vậy thì nói rằng Lạc Long Quân cùng thời với vua Nghiêu, và là cháu của Thần Nông cũng không phải là sai lắm”

(*) Trần Ngọc Ninh, “Huyền Thoại Việt Nam”, Tân văn 13 (tháng 5, 1969), 2-5.

Chúng ta không phủ nhận những nhận xét tổng quát của giáo sư Trần Ngọc Ninh. Quả thực dân tộc ta khi đi xuống miền đồng bằng, gần bờ biển mở rộng vòng tay đón nhận nhiều dòng văn hóa dị biệt, và đặc biệt chịu áp lực nặng nề văn hóa Trung quốc trong suốt ngót một ngàn năm Bắc thuộc.

Trong khi đó kho tàng thần thoại của đồng bào miền núi vẫn giữ được trọn vẹn bản sắc khởi nguyên không bị pha trộn. Sở dĩ vậy, nguyên do vì :
- Vị trí núi cao rừng rậm cách biệt.
- Nếp sinh hoạt của đồng bào miền núi cho đến nay cũng không khác mấy với thời đại đồ đá; nhưng sắc thái tập tục tín ngưỡng vẫn còn nguyên vẻ đơn sơ chất phác.
- Hầu hết dân tộc miền núi cho đến nay vẫn không có chữ viết, thần thoại đều do những bài ca truyền tụng lại bằng tiếng nói cổ truyền có vần, có điệu dễ nhớ, và được quý trọng như những sản phẩm thiêng liêng. Người ta hát thần thoại trong những buổi tế lễ, ca ngợi những lực lượng siêu nhiên, kể lại những sự tích xa xưa của các vị thần, các anh hùng dũng sĩ, không ai dám thêm bớt, sửa đổi một tiếng.

Hãy trở lại với thần thoại Việt nam với lời “kết tội” các nhà nho xưa của giáo sư Trần Ngọc Ninh. Liệu có thực tác giả tiền nhân Trần Thế Pháp đã tự ý lược bớt phần khai thiên lập địa trong có truyện Hồng thủy? Thực ra nhìn và đồ biểu, chúng ta thấy thần thoại Mường và thần thoại Phủ nội cũng không kể nạn Hồng thủy. Đặc biệt thần thoại Mường rất gần với Việt nam (cùng một dòng trăm trứng chia đôi, nửa xuống xuôi, nửa ở lại miền ngược), lại thêm phần đảm bảo giữ được mục diện cổ sơ, vì là thần thoại miền núi. Có phải vì đồng bào Mường ở miền cao hơn nên hình ảnh nước chỉ thoi thóp rất nhẹ trong huyền thoại Lang Đa Cần trong cuộc du hành có gặp con gái thần Nước, yêu cầu nàng theo mình làm vợ, xong thình lình nàng biến mất. Còn người Việt ở dưới đồng bằng, nên có huyền thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh. Nạn nước lớn trong huyền thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh chỉ là nhắc nhở nạn lụt hằng năm tại miền châu thổ sông Nhị, cũng như huyền thoại vua Vũ trị thủy (cũng là trị lụt) miền trung châu sông Hoàng Hà vào thuở nhân gian đương được ổn định, chớ không phải thứ hồng thủy thuở khai thiên lập địa. Loại hồng thủy này, thần thoại Trung Hoa cũng không có.

VẤN ĐỀ HUYỀN THOẠI ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÀ

Ông Hoàng Trọng Miên, tác giả “Việt Nam Văn Học Toàn Thư ”, xếp truyện này vào loại truyện cổ tích, nhưng giáo sư Trần Ngọc Ninh chủ trương đây chính là di tích một thần thoại tiền sử của ta. Trước hết chúng ta hãy đọc qua nội dung truyện :

Ông Đùng Bà Đà *

Ngày xưa, ở làng Đậu An, huyện Tiên Lữ, thuộc tỉnh Hưng Yên, có một nhà kia sinh ra một người con trai và một người con gái thân hình to lớn khác thường, tên là Đùng và Đà. Hai anh em, cha mẹ mất sớm, đến tuổi lập gia đình không lấy được ai vì cơ thể khổng lồ của hai người. Một hôm, hai anh em bảo nhau bỏ nhà ra đi, hễ ai gặp ai đầu tiên thì lấy người đó làm vợ, làm chồng. Người anh trai và người em gái đi mãi không gặp không gặp được ai, rồi lại quanh quẩn lại gặp nhau, nghĩ ý trời định thế bèn kết làm vợ chồng.

Hai người ăn ở với nhau được ít lâu thì làng xóm hay, cho là đôi lứa loạn luân, phạm đến phong tục cổ truyền, rồi đập chết cả đôi vợ chồng anh em ruột. Tương truyền rằng hồn hai người chết cứ hiện ra quấy rối làng xóm, gây nhiều tai ách liên tiếp làm cho mọi người đều sợ hãi. Dân làng bèn lập đền thờ để chuộc tội đã làm thiệt mạng hai anh em. Chỗ thờ Ông Đùng Bà Đà có vẽ hình sinh thực khí to lớn ** của hai người, ngày nay còn vết tích ở địa phương nói trên. Mỗi năm cứ đến ngày mồng tám tháng tư âm lịch, dân làng Đậu Anh làm lễ rước ông Đùng, bà Đà tượng hình thành hai người đàn ông, đàn bà với cơ thể khổng lồ bằng tre đan.

Đám rước chia ra hai phe, một bên rước ông Đùng, một bên rước bà Đà, dân làng đi rước đều cầm đuốc, vác gậy, bắt đầu ra đi vào lúc xế chiều rồi vòng quanh làng cho đến gần đền thờ thì trời vừa tối, đôi bên gặp nhau, nổi tiếng hò reo xung đột. Cuộc ẩu đả diễn ra, đến khi đập phá nát hai hình thể ông Đùng bà Đà, người ta bèn chất lên rồi châm lửa đốt. Đèn đuốc trong đền thờ đều tắt ngấm khi hai phe rước ông Đùng và bà Đà gặp nhau. Tục lệ cho phép những trai gái dự trong đó được tự do đùa nghịch với nhau. Người ta tin rằng có như thế thì trong làng năm ấy mùa màng mới tươi tốt và tránh được các thiên tai.

Có thuyết cho là trước đây dưới thời đô hộ của quân Tàu, trai gái trong làng này phần lớn bị giết hoặc bị bắt đi, mới sinh ra nạn trai thiếu gái thừa. Sợ dân làng rồi tuyệt giống, người ta bày ra tục cho phép tự do chung chạ trong lễ rước ông Đùng, bà Đà để làng chóng có đông dân số.


Nhìn vào đồ biểu (tr 19-21), hầu hết các thần thoại đều có lối hôn phối chẳng đặng đừng này để duy trì nhân loại. Nhìn rộng ra thần thoại Trung Hoa có Nữ Oa kết hôn cùng anh (Phục Hy ?), rồi dùng đất hoàng thổ nặn ra người; thần thoại Hy Lạp, thần Zesus, đứng đầu chư thần, kết hôn với Hera là em gái; thần thoại Polynêsie Tane và Hine trầm trọng hơn : thần Sáng tạo Brahmâ đã phối hợp vớ Ushas (Rạng Đông) mà sinh ra Manu, tổ của loài người và muôn vật; Ushas chính là con gái của Thần !

Kín đáo hơn thì như thần thoại Lô lô, Thượng đế dùng đất nặn ra thần Nam và thần Nữ nhưng chính hai vị thần này cũng đã coi nhau như anh em, và khi muốn lấy nhau đã phải bốn lần thử lòng giời, bằng cách lăn đá, lăn sàng, tung giày và đốt lửa.

Thần thoại Do Thái thì Eva được tạo ra bằng một cái xương sườn của Adam.

Văn vẻ hơn cả là cách giải thích của triết học Upanishad :

“Lúc khởi thủy, thế giới này chỉ là Ngã mang hình người. Nhìn xung quanh mình, Ngã không thấy có gì khác hơn là mình. Ngã bèn nói lời đầu tiên : “Ta hiện hữu”. Do đó có danh xưng ngôi thứ nhất là Ta …

“Ngã lúc ấy thực không được vui. Bởi vậy người cô độc không bao giờ vui. Ngã muốn có người thứ nhì. Ngã bèn lớn lên bằng một người đàn bà và một người đàn ông ôm chặt lấy nhau. Do đó có chồng vợ và ra loài người.

“ Người đàn bà nghĩ : “Chàng tự phân mình làm ra ta, làm sao chàng có thể chung đôi với ta. Vậy ta hãy ẩn thân đi”. Nàng biến thành con bò cái. Chàng biến thành bò đực… do đó sinh sản ra loài bò. Nàng biến thành ngựa cái, chàng biến thành ngựa đực, do đó động vật một móng sản sanh. Nàng biến thành dê cái, chàng biến thành dê đực. Nàng biến thành cừu cái, chàng biến thành cừu đực, và do đó sinh ra loài dê, cừu. Cứ như thế Ngã tạo ra muôn loài có đôi cho đến tận loài kiến.

“Ngã tự nhủ : Quả thật là ta sáng tạo vì ta tạo ra muôn vật. Bởi thế Ngã là sáng tạo. Người nào biết điều đó cũng trở thành đấng sáng tạo” ***

Nhìn qua khía cạnh triết học của Upanishad thì hành vi sáng tạo nguyên thủy đó cao quý như vậy, nhưng nhìn vào thần thoại của hầu hết các nước, hành vi hôn phối đó vẫn để lại những dấu bẽ bàng của tội lỗi nguyên thủy.

Trong truyền thuyết của ta, ông Đùng, bà Đà là hai anh em có tầm vóc khổng lồ, đúng là giống người của thời huyền thoại. Chính vì vậy mà giáo sư Trần Ngọc Ninh coi huyền thoại này như một trong những mảnh vỡ còn sót lại của thần thoại tiền sử dân tộc.

Chúng tôi xin “nghi dĩ truyền nghi”.

Sau khi đã nêu và giải quyết tổng quát một số vấn đề, giờ đây chúng ta hãy thực sự du ngoạn vào thế giới thần thoại của ta và một số thần thoại của đồng bào miền núi.

Kể lại những thần thoại ấy, soạn giả đã căn cứ vào những tài liệu :
- Việt Nam Văn Học Toàn Thư , 2 quyển, của Hoàng Trọng Miên (lược bỏ những phần rõ rệt mang dấu vết lai Trung Hoa)
- Việt Điện U Linh Tập, bản dịch Lê Hữu Mục.
- Lĩnh Nam Chích Quái, bản dịch Lê Hữu Mục.
- Nam Hải Dị Nhận, của Phan Kế Bính.

Trong phần chú thích và bình luận, soạn giả sẽ nhắc nhở nhiều đến thiên khảo luận “Huyền thoại Việt nam” đã dẫn của giáo sư Trần Ngọc Ninh.

Đây chính là chủ trương của soạn giả. Căn cứ vào tình hình tài liệu in của nước nhà, một nước miền nhiệt đới, nắng mưa làm mục nát sách vở; một nước ở ngã ba đường văn hóa, chịu cảnh đầu sóng ngọn gió, chiến tranh liên miên thiêurụi biết bao kho tàng văn hóa, nên những tài liệu in đi sau nên đúc kết tất cả tinh hoa những tài liệu in đi trước. Với những nước thái bình thịnh trị, thư viện nhiều, giữ gìn cẩn thận, việc làm đó còn chưa hẳn là một việc thừa, huống chi lại ở vào hoàn cảnh nước nhà. Chính tác phẩm này soạn giả cũng mong sẽ được là bực thang để những tác phẩm biên khảo sau dẫm lên mà đúc kết được đầy đủ hơn. Chiến thuật biên khảo của hoàn cảnh xứ sở mình nên như vậy, một mặt mỗi công trình biên khảo vẫn giữ một cá tính riêng; mặt khác, đứng ở một phương diện nào, công trình biên khảo đó nên là hình ảnh một trái banh tuyết – boule de neige – lăn cuộn với thời gian và cùng lớn lên với thời gian.

Một lần nữa soạn giả ghi lời tri ân tới các tác giả và dịch giả Hoàng Trọng Miên, Lê Hữu Mục, Trần Ngọc Ninh mà tác phẩm của các vị là nguồn nguyên liệu đúc kết của tác phẩm này.

Thần thoại Thượng Đế Sáng Tạo Vũ Trụ hay Thủy Tổ Giòng Giống Hồng Thủy Anh em lấy nhau Tháp, Cây, Cột chống trời
Việt Lạc Long Quân + bà Âu Cơ. Bọc 100 trứng nở ra 100 con. Không có (nhưng có truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh). Ông Đùng bà Đàn Thần Trụ Trời. Núi Tản Viên.
Mường Đôi chim thành người Ay và Ua. Đẻ 100 trứng , nửa về đồng bằng (Kinh), nửa ở lại (Thượng) Không có (nhưng có truyện Lang Đa Cần muốn lấy con gái thần Nước) Lang Đa Cần lấy em là Nường Kịt Huyền thoại cây Chu Đồng cao tới trời, mọc ở phương Tây.
Mèo Chữ Làu là Thượng đế sáng tạo ra trời đất trong 7 ngày, lấy đất nặn ra 2 người đầu tiên. Hồng thủy Hai chị em sống sót, lấy nhau sinh ra một quả trứng đem cắt, mỗi miếng thành một người. Dân chúng định xây tháp cao để lên vườn thiên đàng Giu giang Ka trên trời.
Phủ nội **** (một sắc dân ở khoảng địa bàn Điện Biên Phủ) Con trai và 2 con dâu Ngọc Hoàng xuống trần. Chặt cây Ton-Hai có 2 quả bầu. Từ những quả bầu ra các giống người. Không có Không có Cây song Khưa-khao-cát nối liền trời đất
Thái Tao Suông và Tao Ngân được trời gửi xuống sau Hồng Thủy mang theo 8 trái bầu và 8 gậy đồng Sao-cam-pha (gậy chống trời). Trong ruột những trái bầu có 330 giống người và 330 giống lúa. Hồng thủy Không có Cây song lớn Chuốc-khao-cát thông liền trời đất.
Mán Nhiêu vương (Ngọc Hoàng) Bàn Cổ. Loài người do tâm của Bàn Cổ sinh ra. Hồng thủy Hai anh em Phu Hay sống sót sau nạn Hồng thủy, lấy nhau, sinh ra 1 quả bầu, mỗi hạt gieo xuống thành 1 người. Không có
Khả Hai anh em lấy nhau sinh ra quả bầu, là thủy tổ các giống người. Hồng thủy Hai anh em sống sót sau Hồng thủy, lấy nhau, sinh ra 1 quả bầu.Từ đó chui ra các giống người. Không có
Lô lô Kết dơ (Thượng đế) tạo ra đất, rồi cũng Ga-gie mượn đất của thần Đất nặn ra người Nam và người Nữ. Hai người tự cho là anh em nhưng vẫn phải lấy nhau sinh ra một quả bầu đầy hột; mỗi hột thành một giống người. Hồng thủy Một nhà có ba anh chị em. Người em út và người chị sống sót sau nạn Hồng thủy (Chắc rồi cũng lấy nhau như thần thoại trên) Không có

(*) Theo Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư II, Cổ tích (Saigon, 1959), tr 78.
(**) Liệu có chịu ảnh hưởng gì về nghi lễ thờ hai vợ chồng thần Shiva và Parvâti của Ấn độ, thờ dưới hình thức hai sinh thực khí linga và yoni?
(***) Bridád-âranyaka, I,4 (xin đọc : Lê Xuân Khoa, Nhập Môn Triết Học Ấn Độ, Saigon : Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1965, chương “Upanishad”, tr 124-73).
(****) Phủ nội cũng viết là P’u Noi. Tên đầy đủ là Kha P’ai P’u Noi. Tiếng Lào P’u Noi có nghĩa là “núi nhỏ”. Về sau người ta có khuynh hướng muốn hiểu chung là “những người ở miền núi nhỏ”. (Xin đọc Colonel Henri Roux, “Quelques Minorités Ethniques du Nord Indochine”, France-Asie 92-93 (Janvier-Février, 1954.)


THẦN THOẠI VIỆT NAM

TRỜI

Ngày xưa, trước tất cả mọi sự, đã có ông trời. Trời là một bậc quyền phép vô song ở trên cao, làm ra tất cả : trái đất, núi non, sông biển, mưa, nắng. Trời sinh ra tất cả loài người, muôn vật, cỏ cây …

Trời thấy tất cả, biết hết mọi sự xảy ra ở thế gian. Trời là cha đẻ muôn loài, xét đến muôn việc, thưởng phạt không bỏ ai, không ai tránh khỏi lưới trời, mọi việc đều do trời định. Do đó, mà con người tin có đạo Trời, và thường nói Trời sinh Trời dưỡng và đến khi chết thì về chầu Trời.

Trời cũng có vợ, gọi là bà Trời và mỗi khi hai ông bà giận dỗi nhau là lúc trời vừa mưa vừa nắng. Mỗi lúc Trời giận loài người lầm lỗi ở thế gian, thì giáng xuống thiên tai : bão táp, lụt lội, hạn hán …

Giang sơn của Trời là từ mặt đất lên đến trên cao, có chín tầng trời.

Từ sau khi chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc, ông Trời Việt nam cũng được gọi là Ngọc Hoàng cho văn vẻ.

MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG

Mặt Trời và Mặt Trăng là hai chị em, con của Trời. Công việc của Trời giao phó cho hai cô con gái là hàng ngày phải thay phiên nhau đi xem xét thế gian. Cô chị Mặt Trời ngồi kiệu có bốn người khiêng đi. Bọn khiêng kiệu gồm có hai lớp già và trẻ thay phiên nhau. Gặp phải bọn khiêng kiệu già đi chậm, cô Mặt Trời phải ngồi lâu, ngày ở dưới trần hóa dài ra. Đến lượt bọn trẻ khiêng kiệu đi mau, cô Mặt Trời được chóng công việc về sớm thì ngày ngắn lại.

Cô em Mặt Trăng tính tình nóng nảy không kém gì cô chị làm cho thiên hạ ở mặt đất suốt cả ngày đã phải nóng bức vì cô chị , đến đêm lại cũng phải khó chịu vì cô em. Loài người than thở đến tai nhà Trời. Bà mẹ mới lấy tro trát vào mặt cô Mặt Trăng.Từ đó cô em đổi tính ra hết sức dịu dàng, khác hẳn với cô chị, nên được người dưới trần ai cũng thích. Mỗi khi cô ngoảnh mặt xuống trần là lúc đó trăng rằm. Ngoảnh lưng lại là ba mươi; ngoảnh sang phải, sang trái là trăng thượng huyền hay hạ huyền. Hôm nào trăng quầng là lúc vết tro trát mặt hiện ra.

Người ta nghe nói rằng chồng của hai nữ thần Mặt Trời và Mặt Trăng là một con gấu. Mỗi lần Gấu đến với vợ là sinh ra nguyệt thực hay nhật thực. Lúc đo người dưới trần làm ầm ĩ lên, đánh trống, khua chiêng, gõ mõ, để cho gấu ra xa vì gấu đi lại với vợ, che lấp Mặt Trời, Mặt Trăng, làm hại cho mùa màng.

THẦN TRỤ TRỜI

Thuở trời đất còn mịt mù hỗn độn, tự nhiên hiện lên một vị thần to lớn khác thường, đầu đội trời, chân đạp đất, đào đất, vác đá đắp thành một cái cột to cao để chống trời lên, mà phân chia ra trời đất. Trời như một cái vung úp, đất bằng như một cái mâm vuông, chia ra làm bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Chỗ giáp giới trời đất gọi là chân trời.

Khi đã chống trời lên cao rồi, thần phá bỏ cột trụ đi, ném tung vãi đất và đá khắp tứ phía làm thành những đồi, núi, đảo khiến mặt đất hóa ra chỗ cao chỗ thấp. Còn chỗ thần đào đất để đắp cột chống trời về sau đầy nước thành biển.

Dấu vết cột chống trời ngày nay người ta cho là ở núi Thạch Môn thuộc về tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt, cũng gọi là núi Không Lộ (đường lên trời), hay Kình Thiên Trụ (cột chống trời).

Dân chúng còn có câu hát lưu hành nhắc nhở đến công việc của ông Trụ Trời vào thuở khai thiên lập địa :

Nhất ông đếm cát,
Nhì ông tát bể,
Ba ông kể sao,
Bốn ông đào sông,
Năm ông trồng cây,
Sáu ông xây rú,
Bảy ông trụ trời.

Chú thích : Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh (Bài báo đã dẫn), thì bài đồng dao trên đây là nói ông Trời hay đấng tạo hóa của người Việt đã làm ra cõi thế với bảy công trình được tuần tự thực hiện trong bảy ngày như vậy.

SÁNG TẠO VẠN VẬT

Sau lúc dựng xong vũ trụ, ông Trời bắt đầu tạo ra vạn vật. Tương truyền rằng ban đầu Trời dùng những chất cặn còn sót lại trong trời đất mà nặn ra đủ mọi giống vật, từ những con to lớn đến những con bé nhỏ như sâu bọ. Sau đó, Trời mới gạn lấy chất trong để nặn con người. Do đó mà loài người khôn hơn các giống vật.

Về công việc nặn ra người, Trời giao cho mười hai nữ thần khéo tay mà hạ giới vẫn gọi là mười hai bà mụ. Mười hai bà mụ mỗi người làm một công việc khác nhau. Bà nặn tay nặn chân, bà nặn tai, bà nặn mắt, bà nặn cơ quan sinh dục, bà dạy bò dạy lật, bà dạy nói dạy cười. Vì có bà mụ đãng trí nên giống người có kẻ á nam, á nữ vì thiếu mất sinh thực khí.

Khi sáng tạo ra loài người, Trời có ý định cho họ sống mãi khỏi phải chết, hễ đến già rồi thì nằm yên một nơi trong ít lâu tự nhiên lớp da ngoài thay đổi, bỏ lốt già đi mà hóa lại trẻ, trái hẳn với giống rắn, vì bản chất độc ác nên chỉ sống đúng tuổi rồi phải chết. Một vị thần được phái xuống hạ giới để thi hành việc đó không ngờ lại gặp nhằm loài rắn trước. Lũ rắn biết được sứ mạng của thần là xuống tuyên án chết cho loài chúng nên mới rủ nhau lại hàng vạn con xúm vây lấy sứ nhà Trời, nhất quyết bắt thần phải nói lại : “Rắn già rắn lột, người già người tuột vào săng”. Nếu không thì lũ rắn quyết một mất một còn với thần. Thấy lũ rắn dữ tợn chỉ chực hại mình, thiên sứ đành phải nghe lời chúng. Do đó mà loài rắn được lột xác sống mãi, còn loài người đến khi già phải chết.

Khi Trời hay tin, giận thiên thần đã làm trái với ý định của mình, mới đày xuống hạ giới làm kiếp bọ hung.

TU BỔ CÁC GIỐNG VẬT

Sau khi đã tạo ra vạn vật và con người, Trời thấy còn có sự thiếu sót ở các giống vật nên sai ba vị thần xuống hạ giới để bù đắp cho các giống vật nào cơ thể còn chưa được đầy đủ. Các giống vật hay tin đua nhau đến để xin thần nhà trời tu bổ cho các chỗ thiếu sót cần thiết.

Khi đã phân phối mọi vật liệu cho các giống vật vừa hết thì có con chó và con vịt cùng đến một lần xin mỗi con một cẳng thiếu, vì chó mới có ba chân, vịt chỉ mới có một từ lúc Trời sinh ra. Thần hết cả vật liệu, kiếm cách từ chối. Song thấy hai con vật van nài quá, thần mới bẻ tạm chân ghế chắp cho chân sau con chó bị thiếu và lấy que cây chắp cho chân con vịt rồi dặn chó và vịt khi nào ngủ nhớ giơ cẳng chắp lên, chớ để xuống đất sợ hư đi. Chó và vịt lạy tạ ra về. Tuân theo lời thần dặn, từ đó lúc nào đi ngủ, hai giống vật này cũng đều co một cẳng lên trên không.

Các thần đang sửa soạn về trời thì bỗng có mấy loại chim chiền chiện, chìa vôi, ốc cau, mỏ nhác … cùng đến một lúc kêu nài vì nỗi Trời đã nặn chúng thiếu mất cả hai chân. Ba thần thoạt cũng từ chối, lấy cớ là đã hết vật liệu đem theo, song lũ chim một mực nài nỉ, bảo rằng vì chúng không có chân nên đến chậm, cố khẩn cầu thần giúp cho. Một vị thần thấy gần đó có bình hương mới bẻ lấy một nắm chân hương làm cho mỗi con chim một cặp chân. Thấy đôi chân mong manh quá, chim kêu lên : “Trời ơi ! Trông que nhang thế này thì đậu làm sao được!”. Thần bèn khuyên bảo : “Không việc gì đâu, cứ chịu khó giữ gìn một chút là được. Khi nào muốn đậu thì hãy đặt nhớm chân xuống đất xem có vững không đã rồi hãy đậu.” Do đó mà về sau các giống chim này cứ chới với nhún hai ba lần thử đặt chân trước rồi mới đậu.

LÚA VÀ CỎ

Một hôm Trời ngự giữa lưng trời, phán hỏi loài người muốn điều gì trước nhất. Tổ tiên chúng ta xin một ngày hai bữa cơm.

Trời bèn hóa phép cứ mỗi ngày có một hạt lúa khổng lồ lăn qua khắp các cửa nhà. Các bà chỉ việc đưa tay ra hứng là có số gạo đủ ăn trong ngày. Sau mỗi ngày làm xong phận sự, hạt lúa được Trời hóa phép trở lại lớn như cũ. Người ta chỉ cần quét dọn nhà cửa sạch sẽ để tiếp rước hạt ngọc của Trời lăn đến cửa.

Có một người đàn bà kia tính tình lười biếng không nghe lời dặn của Trời. Khi hạt lúa lăn đến cửa không thấy chủ nhà quét dọn tiếp rước mình, bèn quay sang nhà khác. Người chủ nhà tức giận cầm chổi rượt theo, đập một cái thật mạnh làm cho hạt ngọc vỡ tan từng mảnh. Loài người phải nhịn đói một thời gian, bèn đi thưa với Trời. Trời bảo rằng : “Các người không kính nể hạt ngọc của ta, từ đây các ngươi phải làm hết sức mình để cho hạt ngọc được sống dậy. Mỗi người phải đi tìm mảnh gạo vỡ của ta đem về, xới đất, tưới nước, săn sóc cho đến khi trổ bông sinh hạt. Ta sẽ giúp các ngươi làm việc. Ta sẽ làm mưa và nắng…

Từ đó loài người bắt đầu trồng lúa.

Cũng vào lúc sinh ra lúa, Trời sai một thiên thần đưa xuống hạ giới một số hạt giống lúa và một số hạt giống cỏ vãi ra khắp mặt đất để nuôi người và vật. Ban đầu thần gieo tất cả giống cỏ trong tay trái. Cỏ mọc rất nhanh, lan tràn rất mạnh đến nỗi hôm sau, Thần chỉ mới gieo hết một số hạt giống lúa ở trong tay phải thì không còn một khoảng đất nào để gieo nữa. Thần đành đem nửa số hạt giống lúa về trời. Do đó mà ở trên mặt đất cỏ mọc nhiều mà lại rất khỏe còn lúa thì ít lại mọc rất khó khăn, nếu không chăm bón làm cỏ thì bị cỏ át mất.

Khi biết rõ việc ấy, Trời liền nổi giận đày thần xuống trần hóa làm con trâu, ăn cỏ đời này qua đời khác và phải kéo cày cho loài người trồng lúa. Trời đặt ra một vị thần để trông nom về lúa. Thần Lúa là một cụ già râu tóc bạc phơ, thường hay chống gậy đi đó đây.

THẦN SÉT

Trong số các thần nhà trời, thần sét là một vị hung dữ, mặt mũi nanh ác, quát tháo dữ dội, mình mảy đen thui, chỉ vận một cái khố, lưng đeo trống, tay cầm một lưỡi búa đá. Thần Sét chuyên thi hành lệnh Trời đã xử công việc ở trần gian theo luật thiên đình. Hành động của thần biểu lộ sự thịnh nộ của Trời. Theo lệnh Trời, thần Sét xử phạt những người làm tội ác có hại đến nhân mạng mà khéo che đậy, hoặc luật pháp trần gian không xét xử tới. Thần Sét cũng đánh những ma quỷ , loài vật, cây cỏ tu luyện thành tinh rồi tìm cách hãm hại người trần …

Mỗi lần xử án, thần Sét thường đánh trống đeo bên mình làm thành tiếng sấm (cho nên người ta cũng gọi thần Sét là ông Sấm), rồi thần tự trên trời nhảy xuống tận nơi trỏ ngọn cờ vào đầu tội nhân và bổ ngay búa vào. Có khi thần bỏ luôn lưỡi búa đã đánh tội nhân vì bận việc phải đi một nơi. Do đó, thỉnh thoảng người ta nhặt được lưỡi tầm sét của thần Sét quẳng lại trên mặt đất.

Thần Sét thường ngủ về mùa đông, vào khoảng tháng hai, tháng ba mới thức dậy đi làm việc.

Tính tình thần Sét cực kỳ nóng nảy, hễ được lệnh Trời sai là đi ngay; hễ thấy là đánh liền. Cho nên cũng có lúc đánh lầm làm cho người, vật chết oan. Vì thế mà thần Sét có lần bị Trời phạt vì đánh lầm người vô tội, nằm yên không được cựa quậy ở một góc rừng trên trời. Con gà thần của Trời thỉnh thoảng lại đến mổ một cái đau điếng mà thần Sét đành phải nằm im. Cho nên sau khi được tha rồi, thần Sét phải thói quen hễ nghe thấy tiếng gà là giật mình. Do đó mà mỗi lầy có sấm chớp, sợ thần Sét xuống, người ta thường bắt chước tiếng gà để dọa thần Sét tránh đi nơi khác.

THẦN MƯA

Thần mưa là thần hình rồng, thường xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời cao phun nước ra làm mưa cho thế gian có nước uống và cầy cấy, cây cỏ trên mặt đất được tốt tươi. Thần Mưa thường theo lệnh Trời đi phân phác nước cho các nơi. Thần Mưa có tính hay quên nên có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán; có vùng lại đến luôn làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới cóc phải lên kiện Trời vì thần Mưa vắng mặt lâu ngày quá.

Công việc một mình phân phối nước khắp mặt đất rất là nặng nề. Thần Mưa có khi không làm hết nên có lần Trời mở một cuộc thi chọn các giống thủy tộc có tài trở nên thành rồng hút nước phun mưa, giúp sức thần Mưa. Cuộc thi rồng đó, Trời chọn lấy địa điểm ở cửa Vũ (Vũ môn) thuộc Hà Tĩnh ngày nay. Do đó mà trong dân gian đã có câu hát về việc cá gáy hóa rồng :

Mồng ba cá đi ăn thề,
Mồng bốn cá về cá vượt Vũ môn.

THẦN GIÓ

Thần Gió là một vị thần không đầu có một cái quạt thần để theo lệnh Trời mà làm ra gió hay bão ở thế gian. Thần gió thường hợp sức với thần Mưa, hoặc thần Sét. Cũng như thần Sét, thần Gió biểu lộ sự giận dữ của Trời đối với loài người bằng các gây nên bão táp để trừng phạt.

Mỗi lúc đồng bằng đang yên tĩnh tự nhiên bỗng nổi lên một trận gió xoáy, đó là lúc thần Gió đi chơi và người ta gọi là thần Cụt Đầu.

THẦN ĐẤT

Thần Đất trông nom khắp mặt đất, thường hiện dưới hình một cụ già to béo, biết hết mọi việc ở trần gian, cứ đến bảy ngày cuối năm là lên thượng giới để chầu Trời, cũng như thần Bếp. Trong mấy ngày Thần vắng mặt, mặt đất ngừng hoạt động, đến ba mươi tháng chạp, Thần trở về, muôn vật bừng tỉnh dậy. Cũng trong khoảng đó, người ta không dám động vào đất của Thần, phải đợi đến mùng hai đầu năm sau khi làm lễ động thổ cúng thần Đất rồi người ta mới lại đào xới đến đất, hoặc cày bừa.

THẦN NÚI

Thần Núi có nhiểu tên như ông Chon Von, ông Cao Các, hoặc là Cao Sơn Đại Vương hay đức Thượng Ngàn. Cũng như mỗi vùng có một ông thổ địa, mỗi núi cũng có một vị sơn thần. Thần thường hiện thành một ông già râu tóc bạc phơ, cai quản mọi cây cối thú vật thuộc vùng núi non của thần.

THẦN BIỂN


Có sự tích kể thần Biển đội lốt một con rùa khổng lồ, ở ngoài khơi biển Đông, thường chỉ có công việc thở nước ra và hít nước vào để làm mức thủy triều lên xuống, ngày này qua ngày khác. Thỉnh thoảng thần làm sóng to nước lớn. Ấy là những lúc biển động, có những ngọn sóng cao như núi mà người miền biển vẫn gọi là sóng thần.

Cũng có sự tích rất cảm động kể rằng trước khi làm thần Biển, nữ thần này là một thiếu nữ ở trên đảo, nổi tiếng là thương yêu anh em. Nàng có bốn người anh em đều là người chài lưới, quanh năm sống trên thuyền ở ngoài biển cả.

Một hôm trong lúc bốn người anh em đi biển, cô gái tự nhiên chết giấc rất lâu. Người chung quanh tưởng là cô bị ngộ gió chết mới đổ thuốc cho tỉnh lại. Nhưng khi sống lại, cô trách sao lại gọi mình tỉnh dậy quá sớm. Sau đó, ba người anh kể lại rằng trong lúc đi biển, họ gặp phải một cơn bão lớn giữ dội, được cô em hiện hồn lên cứu họ thoát khỏi tai nạn hiểm nghèo. Người anh thứ tư đi trên một chiếc thuyền khác mất tích luôn, không thấy trở về, chỉ vì cô gái đã bị gọi khỏi cơn đồng thiếp trước khi cứu được anh.

Sau việc lạ lùng đó ít lâu thì cô gái chết. Cô từng hiện ra nhiều lần cứu các thủy thủ bị nạn hoặc giúp bắt bọn cướp biển, cùng làm mưa cứu mùa màng bị hạn nắng. Ngọc Hoàng thấy thế mới phong cô làm thần Biển.

Người ta hình dung thần là một người con gái ngồi trên đầu ngọn sóng, đầu đội mũ triều thiên, tay cầm hốt ngọc.

THẦN BẾP


Thần Bếp, cũng gọi là Táo Quân, có nhiệm vụ ghi chép những hành vi và lời lẽ của mọi người ở trong gia đình thần trông nom. Mỗi năm đến ngày hai mươi ba tháng chạp, thần lên trời để tâu mọi việc với Ngọc Hoàng và cũng do lời trong sớ của thần mà gia đình thần ở trong năm tới sẽ gặp sự lành hay sự dữ .

Bộ hạ của thần Bếp có có chép (cá gáy) để thần cỡi lên trời và nhện để giúp thần báo tin cho người.

Thần Bếp gồm có bộ ba, một vợ hai chồng, theo sự tích sau đây :

Ngày xưa có hai vợ chồng chú tiều kia rất nghèo khổ, lấy nhau đã lâu mà không con. Người vợ rất thương yêu chồng, nhưng người chồng lại có tính hay rượu chè và đánh đập vợ. Ban đầu người vợ còn cắn răng chịu sự hành hạ, nhưng sau người chồng hà hiếp quá, một hôm vác cây đuổi vợ, vợ mới trốn đi.

Chị tiều trốn vào rừng thấy có một túp lều tranh, đến gõ cửa xin ở đậu. Chủ nhà là một người thợ săn. Sau khi nghe chị tiều kể sự tình, bằng lòng cho ở đậu. Được ít lâu sau, hai người lấy nhau, chồng rất thương yêu vợ.

Về phần chú tiều, sau khi vợ bỏ đi, đâm ra hối hận, mới quyết đi tìm vợ về. Chú tiều cũng đi vào rừng, gặp túp lều tranh trong lúc người thợ săn đi vắng chỉ có vợ ở nhà. Chú tiều gõ cửa xin vào nghỉ chân, ngạc nhiên lại thấy vợ mình ở đây, mới khóc lóc năn nỉ vợ trở về. Người vợ cũng khóc theo tỏ ý còn thương chồng cũ.

Hai người đang nói chuyện thì có tiếng người thợ săn về. Người vợ hoảng hốt bảo chồng cũ trốn vào đống rơm. Người thợ săn vào đến cửa bảo vợ :

- Bữa nay tôi săn được con thỏ. Vậy mình hãy lấy lửa đốt rơm trước nhà để thui con mồi.

Người vợ rụt rè một lúc. Người chồng xách thỏ ra lấy rơm đốt, lửa cháy bắt qua đống rơm, chú tiều rãy rụa một hồi rồi chết trong đó. Người vợ đau lòng quá thương chồng cũ hóa ra giết chồng, mới nhảy vào đồng lửa đang cháy. Người thợ săn thấy vợ chết thương quá, tưởng mình làm điều gì trái nghĩa cũng nhảy vào đống lửa chết theo.

Trời cảm vì tình yêu của ba người cho hóa thành ba ông táo, chụm đầu vào nhau trong bếp lửa.

THẰNG CUỘI VỚI CUNG TRĂNG

Những đêm trăng sáng, nhìn lên mặt trăng, người Việt như nhìn thấy hình ảnh một anh chàng ngồi dưới bóng một cây đa tươi tốt. Người ta gọi đó là “thằng Cuội ngồi gốc cây đa”. Sự tích thằng Cuội như sau đây :

Một hôm Cuội vào đốn củi ở trong rừng, lớ rớ gặp một ổ bốn con hổ con, tiện tay cầm rìu, Cuội đập chết liền, nhưng chợt nghe tiếng hổ rống ở đàng xa, Cuội biết hổ mẹ đã tới, sợ quá, vội leo tót lên ngọn cây ở kề bên. Cuội đã yên thân, mới dám cúi xuống, thì thấy hổ mẹ đang lồng lộn gầm lên rùng rợn. Rồi hổ im và đi về phía suối ở bên trái. Cuội ráng hết sức mình nhìn theo thấy hổ mẹ đến gần một cây giống như cây đa nhỏ. Hổ nhảy lên mấy bận đớp được một ít lá, sau ngậm lá đem về ổ, nhau dừ mớm cho con, chỉ một lát sau sống lại cả bốn. Xong xuôi, mẹ con đàn hổ cùng dắt díu nhau đi.

Cuội vội vàng tụt xuống, ra bờ suối đào gốc cây quý ấy, giữ đủ cành lá, rễ con rễ cái vác về. Cuội trồng cây ấy ở vườn sau, và từ đấy trở đi làm thuốc cứu người, dù ai đã nhắm tắt hơi, Cuội chỉ nhai một ít lá mớm cho là y sống lại.

Lẽ cố nhiên Cuội quý cây hồi sinh ấy lắm, ngày nào trước khi vào rừng đốn củi cũng dặn vợ : “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Đông, cây giông lên trời”. Dặn đi dặn lại, dặn mãi làm cho người vợ bực mình phát cáu. Một buổi chiều kia, khi vợ Cuội ra vườn sau đi tiểu, trông thấy cây quý liền tự nghĩ : “Đã khỏe dặn bà, thì bà cứ đái xem sao”. Ai ngờ vừa phóng uế xong, cây bỗng long gốc lừng lững bay lên. Cuội vừa ở rừng về, thấy cây đã lên quá đầu người, hốt hoảng không nói năng gì, chỉ kịp lấy rìu móc vào rễ cây, chực kìm cây ở lại với mình, nhưng cây vẫn cứ bay thẳng, mà Cuội cũng nhất định không buông. Do đó, cây lên đến cung trăng và từ đấy cho tới bây giờ Cuội còn ngồi lại gốc cây ở trên cung Quảng.

Trẻ con Việt Nam vẫn có câu ca :

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cỡi ngựa đi chơi cầu vồng.

ĐỊA NGỤC VÀ DIÊM VƯƠNG

Thế giới phía dưới mặt đất của loài người gọi là cõi âm do một vị thần được Trời giao cho cai quản gọi là Diêm Vương. Thế giới địa ngục chia ra làm thập điện, do mười vị thập điện Diêm Vương xét xử. Trong mười vị vương ở cõi âm, Diêm Vương là chúa tể trên hết. Những hồn chết khi xuống cõi âm, trước tiên phải qua Diêm Vương xét xem lúc sinh thời, nếu có nhúng tay vào tội ác thì Diêm Vương mới giao cho chín vị kia trừng phạt. Vị thứ nhất trị những kẻ cho vay nặng lãi, những thầy lang dốt nát làm chết oan người ta; vị thứ hai trị những tham quan ô lại, những kẻ ác khẩu, vu khống; vị thứ ba trị những kẻ hà tiện, những kẻ làm vàng bạc giả, những con buôn bất lương, những kẻ nguyền rủa trời đất; vị thứ tư trị những kẻ sát nhân, trộm cướp, dâm dật; vị thứ năm trị những kẻ tà bậy lộng ngôn; vị thứ sáu trị những kẻ đào mồ mả người khác, ăn hoặc bán thịt người; vị thứ bảy trị những kẻ bất hiếu; vị thứ tám trị những kẻ đốt nhà cùng coi những người chết vì tai nạn rủi ro; vị thứ chín có nhiệm vụ trông nom cho hồn người chết đầu thai.

Thế giới cõi âm là một thành trì lớn, những hồn người chết phải qua cửa Ngạ quỷ (Quỷ môn quan). Vào đây, con sông Nại-hà bọc quanh thành, có ba cái cầu. Cầu bằng vàng cho những hồn hóa thành thần thánh. Cầu bằng bạc cho những hồn nhân đức. Còn cầu dành cho những hồn tội lỗi bề ngang chỉ có ba bước, không có thành cầu. Cầu dài nhiều dặm, hồn qua cầu khó tránh khỏi rơi xuống sóng nước cuồn cuộn chảy bên dưới làm mồi cho rắn đồng chó sắt tranh nhau cắn xé. Hồn người chết chẳng những phải chịu trách nhiệm về những hành vi trong đời sống vừa qua, mà còn ở các đời trước nữa. Hồn không thể nhớ được vì đã ăn cháo lú để quên hết , qua mỗi lần ra khỏi địa ngục. Song ở thập điện có sẵn một cái gương lớn gọi là gương tội ác. Hồn nhìn vào trong gương sẽ thấy rõ hình dáng mình trong các kiếp trước cùng những tội lỗi đã gây nên. Diêm Vương căn cứ vào các tội lỗi hiện ra trong gương mà kết án, chịu các cực hình rồi đầu thai thành thú vật.

Còn những hồn đã làm điều tốt lành thì được đưa về thế giới Tây phương cực lạc, hoặc đầu thai kiếp khác thành thần hay thành người.

Sau khi ăn cháo lú rồi, nếu hồn phải hóa kiếp làm loài vật, thì quỷ thập điện khoác lên vai hồn lớp da con thú sẽ đầu thai rồi đưa qua cầu khổ ải ở trên một dòng sông sâu nước đỏ màu máu. Hồn bị đẩy xuống sông cho dòng nước cuốn trôi đi qua kiếp khác. (Cũng có thuyết cho rằng hồn phải bước lên bánh xe pháp luân để bánh xe quay đẩy lên cõi trần.)

Còn những hồn chết oan uổng trước ngày giờ đã ghi trong sổ sinh tử, dù tự sát hay chết vì tai nạn đều bị dẫn vào thành Oan Hồn Uổng Tử hóa thành quỷ đói, quỷ khát. Muốn đầu thai lại, hồn phải kiếm được hồn khác thay thế. Muốn được như thế, sau một thời gian ở âm phủ, những hồn này được phép về trần, đến tại nơi đã chết trước kia, làm cách nào cho ai đi qua đó bị cám dỗ chết theo như họ, thì họ mới đầu thai lại được.

Đi lại chín tầng địa ngục để cứu độ những linh hồn tội lỗi là Địa Tạng Bồ Tát . Thuở sinh thời, Địa Tạng là một nhà sư trẻ tuổi có phát lời nguyền như vậy và được Phật tổ giao phó cho việc ấy. Địa tạng có dáng một nhà sư, tay phải cầm gậy sắt, tay trái cầm hòn ngọc chiếu sáng đường đi dưới cõi âm.

TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC

Những hồn người hiền đức ở cõi Tây phương Cực lạc, có cây lá ngọc cành vàng, hồ sen hoa nở muôn đời, cát bằng vàng ròng dưới đáy nước, ven hồ cỏ lấp lánh bảy sắc ngọc. Các loài chim đều có lông ngũ sắc, tiếng hót lên thành lời ca đạo đức. Mưa tòan bằng hoa phủ lên mặt đất.

Ở cõi Cực lạc, người ta sống một đời đều đặn như tu hành. Mỗi buổi sáng hừng đông, đem hoa đi tặng tất cả chư Phật ở các thế giới khác, đến trưa mới về ăn. Tai luôn luôn nghe những lời chim hót, gió thổi qua cây ngọc, khiến người ta nghĩ đến Phật pháp và chư Phật, không còn luân hồi khổ ải nữa.

Những người hiền đức, đến giờ chết, lòng sẽ không bị vẩn đục, vì Phật sẽ hiện ra đưa linh hồn họ theo vào tòa sen, cho đến khi sạch hết bụi trần, hồn sẽ từ trong hoa nở ra, bay về cõi Tây phương Cực lạc.

TRUYỆN LẠC LONG QUÂN

Lạc Long Quân là thủy tổ của giòng giống Lạc Việt nhà.

Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ), gặp một nàng tiên lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân.

Diệt Ngư Tinh:

Hồi bấy giờ dân cư ở miền duyên hải đang bị một con cá to lớn đã sống không biết bao nhiêu đời thành tinh, phá hoại khủng khiếp. Mình nó dài hơn năm mươi trượng, có nhiều chân giống như chân rết, biến hóa vô cùng, linh dị khó dò được; mỗi khi đi đâu thì nổi cơn mưa gió, hay ăn thịt người, ai cũng đều sợ hãi. Chỗ ở của nó là một cái hang lớn thông xuống đáy biển, bên trên là một dãy núi đá ngăn vùng duyên hải ra làm hai. Ngư tinh lấy đá lấp ngang làm cho eo biển hẹp lại. Dân chúng đôi bên muốn qua lại với nhau phải đi thuyền theo con đường độc nhất đó. Ngư tinh nằm ở hang đá, đánh thấy hơi người là làm nổi sóng lên cho thuyền lật để ăn thịt.

Lạc Long Quân thương dân bị hại mới làm một con thuyền lớn, ra lệnh cho Thủy Dạ Xoa cấm Thần Biển không được làm gió xoắn, rồi chèo thuyền đến núi Ngư Tinh, giả đem một người đến cho Ngư Tinh ăn. Ngư Tinh há miệng toan nuốt thì liền có một khối sắt nướng đỏ liệng vào trong miệng. Ngư Tinh vùng vẫy nhảy đến đánh thuyền. Đôi bên chiến đấu suốt ba ngày đêm. Long Quân chém được khúc đuôi, lột da căng lên một hòn đảo giữa biển, nay gọi là đảo Bạch Long Vĩ. Đầu Ngư Tinh hóa thành một con hải cẩu, bị Lạc Long Quân rượt theo chém chết, vứt đầu lên núi đá, nay gọi là núi Đầu Chó (Cẩu Đầu Sơn). Khúc mình của Ngư Tinh bị sóng đẩy trôi dạt vào xứ Man Cầu. Vì vậy mà ngày nay người ta còn gọi là Cẩu Man Cầu.

Diệt Hồ Tinh :

Bấy giờ ở đất Long Biên (Hà Nội ngày nay) về mạn phía Tây, sát sông Hồng Hà, có một hòn núi đá có hang sâu rộng, người ta vẫn gọi là động Con Cáo (Lỗ Hồ Đỗng). Đó là con cáo chín đuôi, sống hơn một nghìn năm thành ra yêu quái, có phép thuật biến hóa ra nhiều hình trạng, có lúc hóa người, lúc hóa khỉ, đi khắp cả nhân gian. Tới đâu, cáo quấy phá lộng hành tới đó, dân chúng ngày đêm nơm nớp lo sợ hoang mang. Quanh vùng hang nó ở, dân chúng phải bỏ đất đai, dời nhà cửa đi nơi khác. Lúc bấy giơ,ụ ở dưới chân núi Tản Viên có giống người Mán biết cày ruộng, dệt vải, may áo trắng mà mặc, nhân đó gọi là Bạch Y Man (Mán áo trắng). Con cáo chín đuôi cũng từ miền xuôi lên tới đó hóa ra người áo trắng nhập bọn, cùng những người Mán ca hát, dụ dỗ được người con trai con gái nào thì đem về nhốt ở hang đá.

Lời ta thán của dân đến tai Lạc Long Quân. Thần mới tìm đến động huyệt Hồ Tinh. Một cuộc giao chiến khủng khiếp diễn ra. Hồ Tinh giở hết các pháp thuật biến hóa những mong hại đối phương, song gặp phải tay địch thủ cao cường mưu trí, con quái vật sau cùng thấy mình đuối thế đành bỏ chạy. Lạc Long Quân đã cho bao vây kín chặt quanh cửa hang, nổi lửa làm hàng rào chặn Hồ Tinh lại, dùng gươm sắt chém chết quái vật, xác hiện nguyên hình là một con cáo lớn có chín đuôi. Những người bị bắt giữ trong hang đều được Lạc Long Quân giải thoát cho về. Động con quái vật thì bị Lạc Long Quân cho dẫn nước sông Cái vào phá hủy. Nước tràn vào mấy ngày đêm, xoáy mạnh vào hang, đào sâu thành cái hồ rộng, làm mất tích cả hòn núi đá, người ta gọi là đầm Con Cáo (Lỗ Hồ Đàm), hay đầm Thây Con Cáo (Thi Hồ Bạch), về sau đổi là Hồ Tây.

Đám dân cư bấy lâu trốn tránh nạn Hồ Tinh được gọi về ở trên khoảng đất cao cạnh hồ, trồng trọt làm ăn ở cánh đồng phẳng bờ phía Tây hồ Con Cáo, ngày nay còn giữ tên là làng Hồ.

Diệt Mộc Tinh

Sau khi trừ xong hai con quái vật ở nước và ở đồng bằng, Lạc Long Quân lại nghe đến sự phá hoại của con yêu quái khác ở đất Phong Châu.

Nguyên nơi đây có một cây cổ thụ đã mấy ngàn năm, vô cùng cao lớn, um tùm che khuất cả vùng, gọi tên là cây Chiên Đàn, một thứ cây gỗ thơm. Sau một trận bão to, cây bị trốc gốc, tinh cây hóa thành một con yêu quái thích bắt người ăn sống, giết hại dân gian vô kể. Người ta gọi tên nó là Mộc Tinh.

Lạc Long Quân quyết ra tay trừ hại, song đánh nhau mấy ngày đêm vẫn chưa hạ được con yêu. Sau Lạc Long Quân phải cậy đến cha là Kinh Dương Vương, hai cha con mới đánh cho Mộc Tinh bị trọng thương, phải tìm đường bỏ chạy về phía Tây Nam rồi hóa thành quỷ Xương Cuồng.

Quỷ Xương Cuồng ẩn náu trong rừng núi được ít lâu rồi lại quấy nhiễu dân chúng, rình mò tại các nơi hẻo lánh bắt người ăn thịt. Dân cư ở thượng du hàng năm phải lần lượt nộp mỗi nơi một người sống để cho nó đỡ phá hoại.

Tương truyền đến đời Đinh Tiên Hoàng, có một pháp sư Tàu tên Dũ Văn Mâu tới bày kế mở một một hồi lớn làm trò cho quỷ Xương Cuồng đến ăn và xem, rồi niệm bí chú tuốt gươm chém được quỷ cùng tất cả bộ hạ của nó. Từ đó miễn được cái họa dâng người hàng năm và sinh hoạt của nhân dân mới được bảo toàn.

Gặp gỡ Âu Cơ – Truyện Trăm Trứng và Chia Con :

Sau khi trừ được các mối họa lớn cho dân, Lạc Long Quân thay cha trị dân, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần tôn ti, có luân thường về phụ tử phu phụ; hoặc có lúc đi về Thủy phủ nhưng trăm họ vẫn được yên ổn. Dân lúc nào có việc cần thì kêu Lạc Long Quân : “Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng con!”. Tức thì Lạc Long Quân đến ngay, uy linh cảm ứng, không ai có thể trắc lượng được.

Thuở ấy tại phương Bắc, Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai. Nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh Nam Tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn khiến Xi Vưu tạm coi việc nước để mình Nam tuần qua nước Xích Quỷ, tới nơi vào lúc Lạc Long Quân đã về Thủy phủ. Đế Lai bèn lưu ái thê là Âu Cơ ở lại hành tại còn mình thì tiếp tục chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thế, trông thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm, dị thú, tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị không thứ nào là không có, khí hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh. Đế Lai lấy làm ái mộ lắm, quên cả ngày về. Nhân dân khổ sở vì sự phiền nhiễu bèn kêu cứu đức Lạc Long : “Bố ở phương nào, nên mau về cứu chúng con !”. Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một mình, dung mạo đẹp lạ lùng, bèn hóa ra một chàng phong tư tài mạo, tả hữu thị tùng đông đảo, nhã nhạc vang lừng. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng, theo về núi Long Trang.

Đến khi Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai bộ hạ đi tìm kiếm mọi nơi, không được đành trở về Bắc.

Long Quân và Âu Cơ ở với nhau, cách một năm sinh được một bọc trứng, cho là điềm không hay nên bỏ ra ngoài đồng nội. Hơn bảy ngày, trong bọc trăm trứng nở ra trăm con trai. Âu Cơ đem về nuôi nấng, lũ trẻ chóng lớn, khỏe mạnh, trí dũng hơn người.

Long Quân thường ở Thủy phủ để Âu Cơ cùng các con trong cung điện trên đất. Xa chồng, Âu Cơ đâm ra nhớ quê cũ, bèn dẫn các con về thăm phương Bắc. Bấy giờ Đế Lai cùng giòng giõi đã bị Hoàng Đế tiêu diệt. Nghe tin Âu Cơ đưa một trăm con trai tới bờ cõi, Hoàng Đế sợ đến báo thù, bèn đem binh ra ngăn. Âu Cơ cùng các con quay trở lại phương Nam, gọi Lạc Long Quân đến. Vợ chồng cha con gặp nhau ở đồng Cổn. Âu Cơ nói :
- Thiếp ăn ở cùng chàng, sinh được trăm con trai. Nay chàng bỏ thiếp mà đi, khiến con không cha, vợ không chồng, thật là bi thương. Xin cho cùng theo chàng.

Lạc Long Quân nói :
- Ta thuộc giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khác nhau, người thích ở cạn, người ưa ở nước, tính tình đôi bên khác nhau, không cùng ở chung với nhau một nơi lâu được. Bây giờ một nửa các con theo ta về Thủy phủ, còn một nửa thì ở lại với nàng. Tuy đôi bên kẻ ở rừng, người ở biển, song đến khi có việc gì thì tin cho nhau, không được bỏ nhau.

Trăm con trai đều cùng nghe lệnh rồi chia tay nhau mà đi, năm mươi theo mẹ lên núi, năm mươi theo cha về biển, chi nhau cai quản khắp nơi. Âu Cơ cùng năm mươi con ở Phong Sơn, nay là huyện Bạch Hạc, tôn người con trưởng làm chúa, gọi là Hùng Vương.

BÌNH CHÚ :
1. Về Gốc Tích Dòng Giống

Dù có chịu ảnh hưởng ngoại lai nhiều hay ít, thì nguồn gốc dòng giống và văn hóa Việt vẫn rõ ràng biệt lập hẳn với dòng giống và văn hóa Hán tộc. Có thuyết cho rằng nền văn hóa của Hán tộc cũng chỉ là nền văn hoá của Viêm đế (Thần Nông) phát xuất từ phương Nam, nòi Hán chiếm đoạt lấy, sửa đổi đi.

Cho nên khi nói đến văn hóa, nhất là khi nói đến dòng giống mà gặp điều gì cứ muốn kéo mối liên hệ dòng giống Việt vào với dòng giống Hán là y như có dư luận phản ứng chống lại.

Cũng với ý trên, muốn giữ cho dòng giống một ngành độc lập đặc biệt và cố hữu, giáo sư Trần Ngọc Ninh viết :

Theo những thần thoại cổ thì Lạc Long hay vị Tổ đời thứ nhất của dân tộc phải là một người đầy trí đức, đã được trời cứu khỏi nạn Hồng thủy để lập nên một nước mới. Theo thuyết của Trung Hoa thì trận Hồng thủy xảy ra dưới đời vua Nghiêu, đời vua Thuấn, tới ông Vũ mới bình trị được. Kinh Thư còn có câu : “Hồng thủy ngất trời. Mênh mông bọc núi trùm gò ! Dân dưới mê man chìm đắm.” Như vậy thì nói rằng Lạc Long Quân cùng thời với vua Nghiêu và là cháu của Thần Nông cùng không phải là sai lắm. Nhưng sự ngửa cổ hướng về phương Bắc cho rằng dân Việt phải là dòng dõi Tam Hoàng qua sự liên hệ với Kinh Dương Vương Lộc Tục thì rõ ràng là một chuyện đặt ra khi nền văn hóa Trung Hoa đã bao trùm đất Việt. Đó là điều ta phải minh định lại để ý nghĩa nguyên thủy của huyền sử được rõ ràng.

(Trần Ngọc Ninh viết, “Huyền thoại Việt Nam”, Tân Văn số 13, tháng 5, 69, tr 5. Những dòng in ngả là do soạn giả)

2. Về Truyện Ngư Tinh :

Vẫn theo giáo sư Trần Ngọc Ninh trong bài báo thượng dẫn thì vĩ tích thứ nhất của Lạc Long Quân giết Ngư Tinh mở đầu cho sự tổ chức vũ trụ. Ngư Tinh là một con cá lớn đã thành tinh, sống ở biển ăn thịt người. So sánh với các huyền thoại khác, Ngư Tinh cũng như con rồng Tiamat hiện thân của Hỗn mang nguyên thủy trong thần thoại Babilon, và cũng như con rắn Naga hay con rồng Vaitha của dân Ấn, Âu … Nhìn qua khía cạnh cơ cấu pháp, có lẽ sự cầm cái lao nướng đỏ phóng vào họng con cá thành tinh là điều quan trọng nhất trong huyền thoại này. Cách nướng cá ngày nay của người Việt và nhất là người ven biển là một sự bắt chước thần Lạc Long để khắc phục Tinh Cá. Từ sự ăn sống, nuốt tươi, người dân cổ sơ của đất Việt đã chuyển sang một đời sống có văn hóa, dùng lửa để biến đổi thiên nhiên trong việc ăn uống.

Rồi mỗi năm vào ngày đầu năm, dân ta ngày nay còn giữ tục múa lân. Con “lân” đây thực ra là con quái vật hiện thân của Hỗn mang nguyên thủy mà thần Lạc Long đã chiến thắng bằng uy vũ. Mùa xuân mới là lúc vạn vật tái tạo, nên phải diễn lại huyền thoại cũ để đặt trật tự của vũ trụ trên những nền tảng được truyền lại từ đời Tiên Tổ.

Vẫn theo giáo sư Trần Ngọc Ninh, trò chơi “Rồng Rắn” của trẻ Việt cũng là trò chơi để nhắc nhở tới vĩ tích đầu tiên của thần Lạc Long. Sau lời đối đáp cuối cùng : . “Cho xin khúc đuôi …” – “Tha hồ mà đuổi”, ông thầy thuốc (hay pháp sư) đuổi bắt khúc đuôi, Rồng Rắn chống lại, nhưng trong cuộc giao tranh, khúc đuôi bị đứt và pháp sư rượt theo nắm được. Đó là tấn kịch diễn lại việc thần Lạc Long diệt Ngư Tinh.

Hai vĩ tích kế tiếp là diệt Hồ Tinh và diệt Mộc Tinh, tất cả những huyền thoại trên đều thuộc vòng Lạc Long Quân, mang theo những di ngôn căn bản cho dân tộc, nói chuyện khai phá hỗn mang, trừ các yêu quái, để tạo cho dân tộc một không gian sinh tồn, mở đầu chuyện tổ chức nhân gian. Những thần thoại từ đời Hùng Vương trở về sau, thuộc vòng Hùng Vương, ghi chép những nỗ lực xây dựng nếp sống thuần túy văn hóa của dân tộc: vũ trụ quan trời tròn đất vuông trong Truyện Bánh Dày, Bánh Chưng; lễ nghĩa, liêm sỉ, tình anh em, tình vợ chồng trong huyền thoại Trầu Cau v.vv (Xin đọc : Trần Ngọc Ninh, bài báo đã dẫn)
 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18