|
Lễ hội Đền Bà Tấm
Đền Bà Tấm nay thuộc xă Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, xưa thuộc
trang Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Dương Xá gồm ba
thôn là Dương Đ́nh, Dương Đá và Dương Đanh (Tam Dương), xa nữa là ba ngơ trong
một làng, đền Bà Tấm nằm trên đất của thôn Dương Đá . Trước đây riêng Dương Xà
là một xă, nhưng nay hợp với Thuận Quang và Yên B́nh thành xă Dương Xá mới.
Trong hậu cung đền có tượng bà Tấm (Nguyên Phi ỷ Lan) và sáu tượng nữ khác gọi
là lục bộ. Gian ngoài có đặt một số đồ thờ và chiếc ngai, trên ngai có bài vị
ghi "Lư triều đệ tam hoàng thái hậu" và một vài bia kư ở hai gian bên cạnh. Đặc
biệt có bộ khám long đ́nh rất đẹp mang niên đại thời Mạc.
Hàng năm ngày tiệc lệ chính là 19-2 âm lịch - ngày hội lớn là 25-7, tương truyền
là ngày giỗ bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày sóc vọng đều có lễ
trong đền.
"Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ
chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xă suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn
Lâm (Hảí Hưng) và những làng cấy ruộng hậu của đền. Trong đền c̣n giữ được tấm
bia ghi rơ tên các làng cấy ruộng hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá
lớn, nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ
của dân làng, được tổ chức vào năm 1939, nhiều người c̣n nhớ cả tên người được
giải cờ người năm đó là ông Trần Nhật Tân. Trước đây chính hội là từ 19 đến 22
tháng 2 âm lịch, nhưng thực chất người ta đă rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25
tháng 2 mới hết hội. Ngay từ tiệc đầu xuân dân làng đă tụ hội tại đền để chuẩn
bị hội xuân tế lễ cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các
tiên chỉ, tổng cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội.
Ngày 19-2 (âm lịch tương truyền là ngày sinh của bà Tấm. Ngày hội được mở đầu
bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên
tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước
là cờ ngũ hành, tiếp đến là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó
là long đ́nh rước bà ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch theo kiệu. Đường
đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên Sủi. Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng
lấy nước. Các cụ già c̣n nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ Nhật
Bản rất cao và to, nhưng nay đă bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn thuộc
Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền. Do vậy mà đám rước rất lớn và dài,
bởi v́ ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai, B́nh Trù, Liên Mỹ. . .
Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui mô của đám rước dài và lớn như vậy
nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng hồ mới rước được nước về tới đền.
Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, th́ từ các thôn cũng tiến hành rước lễ vật ra
đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, cuộc tế lễ bắt
đầu. Các bô lăo năm thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm
ngặt. Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Từ thượng cổ năm
nào cũng vậy có chăng thêm th́ chỉ có bánh gai, bánh mật mà thôi.
Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải dùng nước ở
giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đ́nh, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật
trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy mới đảm bảo độ tinh khiết.
Sau khi đă xem xét lễ vật một cách kỹ lưỡng, cuộc tế lễ bắt đầu. Trong "Lư triều
đệ tam hoàng đế” bản chữ Hán c̣n chép rơ bản văn tế Hoàng thái hậu về mùa xuân ở
đền. Chúng tôi xin ghi lại ở đây làm cứ liệu tham khảo:
"Rằng: Năm nay là. . . tháng . . . ngày mồng một.
Tỉnh-phủ-huyện-tổng-xă, toàn dân kính dâng lễ vật mong được chiếu cố.
Triều Lư, Hoàng đế thứ ba ỷ Lan linh ửng, dung mạo thơm tho, đức hạnh đoan trang,
trí ḥa hiền hậu, trinh tiết phép lành, lừng danh nhân hậu. . . giúp nước đầy
phúc, nghĩa đẹp, một mực hiền ḥa đôn hậu, dẹp hết nạn, yêu nước; đoan trang
điềm lành, cứu đời yên dân, giúp nước bảo vệ sự nghiệp, gây dựng cơ đồ, vun
trồng nền ơn, ban phúc, phát của. . . đức lớn lừng danh, hành vi tao nhă, giữ nề
nếp, yên dân giữ nước, ḷng nhân đức mở rộng kéo dài không nghỉ.
Rất linh Hoàng thái hậu ngôi trên, rằng có lễ tế trong mùa xuân.
Kính mong Hoàng thái hậu xét đến chỗ tối tăm, Đoan trang thuần túy công ơn ấy
ghi lại ức năm, muốn kỷ. Nay gặp thời lành, tế mùa xuân, lễ mọn, t́nh thâm, kính
cẩn, xin được chiếu cố, ban phúc, giúp nước thịnh vượng, giúp cứu vớt dân cư ấm
no.
Xin tâu tŕnh"
Chắc chắn văn tế này được làm về sau và tới nay không rơ vào ngày hội nội dung
bài tế có giống như trên không, song ít nhất đó cũng là cứ liệu để thấy được
niềm mong ước cầu xin của dân làng đối với Bà.
Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt là các cuộc
dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên kéo dài cho đến
khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc vui ngoài sân và khu
vực xung quanh. Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm
sau, lễ vật được chia ra làm đôi, riêng Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một
nửa, nửa kia mới được chia cho các thôn c̣n lại trong xă. Riêng ông chủ tế được
biếu 60 phẩm oản và 60 quả chuối. Những cụ già được chúng tôi hỏi đều khẳng định
hội xưa không có chi tiết về kiệu và vơng lọng của ông bán dầu trong đám rước
ngày hội (người mà theo truyền thuyết đă báo trước cho ỷ Lan biết sẽ trở thành
hoàng hậu). Tuy nhiên theo Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vĩ, (mục cổ tích)
khi nói về miếu Lư Thái hậu lại nhắc đến chi tiết này như sau:
“Người con gái làng Dương Xá hái dâu trong nương. Có một ông lăo bán dầu trông
thấy trên đầu cô có đám mây tía liền đến bảo cô ta đi gặp vua. Người con gái từ
chối nói: "Mẹ tôi sai tôi đi hái dâu chứ không sai đi xem vua" . Ông lăo nài
thêm, nói "sau này nếu quả cô được quí hiển th́ cho tôi vơng lọng đi trước". Đến
lúc đó, cô ta mới chịu nghe theo ông lăo đến chỗ vua ngự. . . Lư Nhân Tôn lên
ngôi, tôn làm hoàng thái hậu. Nhớ lời ông bán dầu, mỗi khi ngự giá lại cho vơng
lọng (của ông - LHL) đi trước. Nên về sau, dân vẫn giữ lệ cũ. Hàng năm ngày nhập
tịch mở hội, vẫn rước một cái kiệu đỏ để không và một đôi lọng xanh đi trước
kiệu thần, không dám thay đổi". Ngày 20 tháng 2 hội cũng bắt đầu bằng những cuộc
rước. Song lần này là rước Thành hoàng và lễ vật của các thôn thuộc Dương Xá và
những nơi ăn lộc ruộng của đền bái vọng dâng lễ. Trừ kiệu của bốn thôn thuộc
Dương Xá và Thuận Quang được vào trong đền, c̣n tất cả các kiệu của những làng
khác đều phải đứng bên ngoài cổng đền (chỗ đường 5 bây giờ) bái vọng vào. Lễ vật
được chuyển vào trong đền. Tại sân đền c̣n có tục phất cờ tổng, truyền rằng nhất
là vào những năm trời âm u, múa cờ là để xua tan mây ám cho trời quang mây tạnh.
Thuận Quang là làng được quyền lựa chọn tổng cờ cho hội hàng năm. Tổng cờ cũng
được lựa chọn cẩn thận, là người không
tang chế, đẹp người, khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Ngoài ra c̣n có hai thủ hiệu trống
và chiêng. Cả thủ hiệu cờ và thủ hiệu trống, chiêng đều mặc đẹp và phải tập
luyện từ trước. Các động tác và điệu múa của họ cũng giống như hiệu cờ, hiệu
trống và hiệu chiêng ở hội Dóng. Hiệu cờ cũng qú, nhảy múa ba lần như ba ván ở
hội Dóng.
Lá cờ cũng dài như ở hội Dóng, nhưng tổng cờ phải tập luyện cẩn thận, thuần thục,
tránh để cờ lùng nhùng mà cuốn vào cán, như vậy sẽ bị phạt vạ rất nặng và có lỗi
với Thánh. Do đó mà các tổng cờ luôn luôn phải chú ư trong khi luyện tập.. . .
Tại băi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát mẻ, là nơi
diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm tướng. Mỗi quân cờ đều
có một chiếc ghế đầu để ngồi. Riêng tướng cờ được che thêm một chiếc lọng. Người
chơi đánh nước nào th́ người đóng vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh. Cứ như
vậy ván cờ diễn ra căng thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại hấp dẫn
người xem không chỉ v́ các nước cờ tài ba mà c̣n bởi các màu sắc và sự thanh tú
của các nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch thủ kéo
dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rơ người thắng và trao
giải cho người nhất cuộc .
Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền, suốt từ
19-2 đến hết hội. Thường thường các phường hát đến xin, địa phương tín nhiệm
phường nào th́ cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến khi ră đám mới thanh toán
tiền cho họ. Ngoài ra các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm
sôi nổi.
Trong hội c̣n có các tṛ chơi khác như tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo
và thời pháp thuộc có cả hát cô đầu. . . Cứ như vậy lễ hội đền bà Tấm kéo dài
cho đến hết ngày 2l tháng 2 âm lịch. Ngày 22 tháng 2 là ngày tế ră đám và kết
thúc hội.
Cũng vào ngày đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nh́ và làm lễ trao
giải .
Qua khảo sát lễ hội ở Dương Xá và những làng có liên quan ta thấy một số điểm
sau:
l. Trong các làng thờ Nguyên phi ỷ Lan th́ hội ở Dương Xá có qui mô lớn nhất.
Hội có rước nước từ trên Sủi (Phú Thị) với đám rước lớn gồm cả tổng Dương Quang
xưa và các làng ăn lộc đền Bà Tấm. Nếu như ở Như Quỳnh (Hải Hưng) hay chùa Dạm
(Nam Sơn, Quế Vơ, Bắc Ninh), Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội) nhất mực mọi người đềucho
chỉ thờ Nguyên Phi ỷ Lan, th́ tại Dương Xá, bà Tấm và Nguyên Phi chỉ là một và
có một quá tŕnh lịch sử dài từ một h́nh tượng cô Tấm lam lũ và thông minh đến
vị Nguyên phi tài ba, tháo vát. Chỉ có Dương Xá kiêng chữ Tấm gọi là bổi, cám
gọi là đớn .
2. Vào dịp hội, cả Dương Xá, Như Quỳnh và Phú Thị đều rước giao hiếu và cả ba
nơi đều trân trọng yêu quí thần tượng Mẫu nghi thiên hạ của ḿnh. Cũng dễ nhận
ra điều đó v́ Thổ Lỗi trang xưa bao gồm đất đai suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới
Văn Lâm, Văn Giang, Hải Hưng ngày nay. Cả ba làng trên đều thuộc trang Thổ Lỗi
ấy. Do vậy không lấy làm lạ khi xuất hiện tâm thức kính trọng, cả ba làng đều
coi Nguyên Phi ỷ Lan là người của quê ḿnh.
3. Ghép các chi tiết hội ở cả ba làng ta sẽ có được một lễ hội trọn vẹn với nội
dung là toàn bộ truyền thuyết về sự thực lịch sử về Nguyên Phi ỷ Lan. Đó là các
tục lệ, nghi thức liên quan đến cô Tờm đền Bà Tấm. Chi tiết ông bán dầu ở hội
làng Ghênh (Như Quỳnh) nhắc đến đoạn cô Tấm dựa bên khóm lan khi đi hái dâu và
gặp vua để thành hoàng hậu sau này. Tục bông ṣng ở hội làng Phú Thị (Sủi) nhằm
kể lại sự tích đầu thai của vua Lư Nhân Tông và cuối cùng là những nghi thức và
lễ vật của ngày hội nói lên quăng đời cuối cùng của Nguyên Phi chuyên tâm vào
việc xây dựng chùa chiền, chuyên
tâm làm điều thiện, tu nhân tích đức nơi cửa phật. Toàn bộ lịch sử của một nhân
vật được biểu tượng hóa trong các nghi thức, tục lệ ở lễ hội của cả ba làng. Do
vậy việc tổ chức tốt lễ hội ở đây sẽ phát huy được t́nh đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau giữa các địa phương như truyền thống tốt đẹp của các làng mạc Việt Nam vốn
đă có từ xa xưa.
4. Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn. Khu vực
đền đă được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội được sự tổ chức khá chu
đáo của chính quyền địa phương và nhân dân trong xă. Nhiều tṛ vui dân gian được
khôi phục lại như tổ tôm điếm, chọi gà. . . Một số sinh hoạt mới được tổ chức. .
.
Trong một khu vực đền hơn hai hécta, các tṛ chơi được bố trí hợp lư cho nên đă
thu hút người xem rất đông. Dương Xá lại là nơi gần Thủ đô, nằm cạnh đường quốc
lộ số 5, do đó khách trẩy hội cũng rất tiện lợi. V́ vậy khách đến hội mỗi năm
một đông thêm./.
Xem Thêm bài dưới đây và
Truyện Tấm Cám
CHÙA SÙNG
PHÚC
Chùa c̣n có
tên là Linh Nhân Từ Phúc, chùa Bà Tấm, tọa lạc ở xă Dương Xá, huyện Gia Lâm,
ngoại thành Hà Nội. Chùa được khởi dựng vào thời Lư. Di tích hiện nay c̣n hai
sư tử đá đội bệ Tam Thế (mỗi sư tử cao 1m, ngang 1,4m), một con sấu đá (dài
2m) ở thành bật lan can và hai bia đá. Trong khuôn viên chùa có đền thời Bà Yỷ
Lan Nguyên phi. Chùa được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa
quốc gia.
CHÙA SÙNG
PHÚC (CHÙA THIÊN PHÚC)
Chùa thường
được gọi là chùa Bộc, tọa lạc tại đường chùa Bộc, phường Khương Thượng, quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội. Chùa c̣n có tên là Thiên Phúc. Bản lịch sử của chùa
có ghi vào năm 1676, đời Vua Lê Hy Tông, vị Tăng lục Trương Trung Bá cùng nhân
dân xây dựng lại chùa đă bị chiến tranh tàn phá. Chùa đă được trùng tu vào năm
1792 và đổi tên là chùa Thiên Phúc. Trước năm 1945, Ḥa thượng Chính Công trụ
tŕ đă khai trường thuyết pháp đào tạo được nhiều tăng, ni. Ơở chùa có cơ sở
chữa bệnh bằng thuốc Nam nổi tiếng. Chùa đă được Bộ Văn hóa công nhận là Di
tích lịch sử - văn hóa quốc gia
|
Lễ Hội Miền Bắc
Hội Đền Hai Bà Trưng
Hội Rằm Trung Thu
Hội làng Đăm
Hội Tết
Âm lịch
Hội Quang Trung
Hội Lệ Mật
Hội Đền An D. Vương
Hội
Thánh Gióng
Hội
Triều Khúc
Hội đền Trèm (Chèm)
Hội Đền Bà Tấm
Hội Làng Bát Tràng
Hội Hồ Ba Bể
Hội Chùa Hương
Hội Chùa Keo
Hội Chùa Thầy
Hội đền Kiếp Bạc
Hội Đền Cổ Loa
Hội đền Chử Đồng Tử
Hội Đền Cửa Ông
Hội Đền Đô
Hội Đền Hùng
Hội Đền Thương
Hội Đống Đa
Hội Đền Đồng Nhân
Hội chọi trâu Đồ Sơn
Hội Lim
Hội đền Đồng Nhân
Hội vơ vật Liễu Đôi
Hội Lồng Tồng
Hội Phủ
Giầy
Hội Trường Yên
Hội Yên Tử
Trở Về Trang Lễ Hội
|