Home

Thơ

Sưu Tập

Văn Điếu Tế  Linh Tinh Trang Ca Dao Search

 

2. Lênh Đênh Như Bọt Sóng
 
Chiếc Pioneer Contender trong hải tŕnh nhân đạo (từ ngày 29 tháng Tư cho đến ngày 4 tháng Năm) đă đảo lui đảo tới từ Bến Hải đến Phú Quốc ít nhất cũng ba ṿng. Họ ráng t́m vớt những con thuyền bé tí teo nổi trôi theo số phận bọt bèo của người dân mất nước. Khi rời hải phận Việt Nam, trên tàu có khoảng bảy ngàn nạn nhân. Thuyền nhân nằm sát nhau như cá hộp. Không mui che mưa nắng. Mưa tắm cho ướt, rồi nắng hong người cho khô. Cảnh khóc cười mừng tủi khi người gặp người trong một góc đời hăn hữu. Anh quân nhân bất măn, nổi giận cho những chuyện không đâu. Ông chính khách, ông tướng trở thành mục tiêu cho người người nguyền rủa. Nhân viên an ninh của tàu phải t́m cách tách rời họ.
 
Đối diện với chỗ gia đ́nh Thanh nằm, có hai nhân vật của lịch sử, cụ Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn của Việt Nam Cộng Ḥa tại Hội Nghị Geneve 1954 và cụ Trần Văn Lắm, Hội Nghị Ba Lê năm 1973. Hai ông ngoại lăo thành ngồi chung nhau trong một góc tàu chẳng phải là h́nh ảnh tương phản của cuộc đời sao? Những ǵ xảy ra trong ngày hôm qua và trước đây chỉ là tṛ phù phép của những thế lực ngoại xâm.  Hiệp định 1954 giữa Tây và Cọng sản. Người dân Việt bên nầy là ông Tây mũi lơ và phía bên kia là ông vô sản Bạch Mao. Hiệp định 1973 cũng chỉ là tṛ xưa diễn lại. Ông Tây được thay bằng ông Mỹ. Ông Bạch Mao được tăng cường thêm ông Phệ X́ Dầu .
 
Con tầu vẫn phoong phoong đi về một hướng mà chẳng ai biết nó sẽ đi về đâu. Ông Cha và ông Sư ngồi cạnh nhau, tay vẫn lần từng hạt chuỗi nguyện cầu. Trên trời cao mây xám ngắt đuổi bắt làn mây trắng, cũng như người dân Việt bất hạnh đang bị phần số không may đuổi theo. Ngoài con tầu cưu mang những nạn nhân khốn khổ, trên biển khơi không có một bóng sinh vật nào khác. Sự ồn ào trong những cảnh người đông chen lấn, giành chỗ đă ch́m lắng, nhường lại cho sự gào thét của sóng gió liên tục vỗ vào mạn tầu.  Những người say sóng nằm im như  thây chết.
Cuối tầu dường như có người được thủy táng. Linh hồn và thể xác của những người đó, có lẽ được hạnh phúc v́ đă được giải thoát. Họ ra đi không cần lễ tiễn đưa, và cũng chẳng cần nghi lễ tôn giáo rườm rà.
Buổi sáng sớm ngày Năm tháng Năm, khi ánh hừng đông vừa ló dạng trên lằn chân trời, con tàu chở những người ra đi không định hướng đă cập bến Guam. Một vùng xa lạ sau đúng một tuần nổi trôi trên Thái B́nh Dương. Nạn dân nối đuôi nhau bước xuống tầu. Họ phải qua nhiều trạm. Trạm xịt thuốc sát trùng. Trạm quan thuế. Nhân viên quan thuế của đảo làm việc rất nghiêm ngặt. Những người chạy loạn sau khi đă mất gần hết lại thêm một lần nữa bị buộc vất mọi thứ từ thuốc men cho tới đồ ăn vào những thùng rác khổng lồ ngay cửa trạm. Riêng những người lính chiến ră ngũ c̣n bị lột hết quân phục, để chỉ c̣n một chiếc quần cụt đi lên đảo. Trạm thứ ba là trạm phát áo quần cũ cho những người quân nhân bị lột xác. Qua khỏi trạm trên nạn dân được đưa đến trại tạm cư.  Mọi người  thất thểu đi theo nhân viên hướng dẫn vào một khu lều vải mới dựng ở đảo. (Tổng Thống Ford xin 750 triệu Đô-la để cứu văn Miền Nam Việt Nam đang bị quân Bắc Việt tấn chiếm đă bị quốc hội lưỡng viện bác. Quốc hội Mỹ chỉ chấp thuận cho một cấp khoản nhân đạo là 450 triệu  Đô-la để lo định cư những người Việt Miên Lào có liên hệ với Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh hơn hai mươi lăm năm của Mỹ tại Đông Dương.)  Trại lều nầy được thành lập, có lẽ đă vài tuần trước đây, trên một khu đất rống rộng lớn, nóng như thiêu đốt. Những ụ đất lẫn lộn với cây và đá được ủi dồn vào một góc rừng như những ngọn đồi. Những lều vải nhà binh cỡ 75 thước vuông với ghế bố xếp san sát vào nhau, chỉ chừa một lối đi nhỏ vừa một người đi qua. Dù chật hẹp và nóng bức nhưng c̣n hơn bảy ngày lênh đênh trên đại dương đương đầu với sóng gió băo bùng.
 
Thanh đưa gia đ́nh đến lều tạm trú rồi tức tốc đi săn lùng tin tức. Bất cứ tin ǵ liên quan đến ngày tan hàng ră ngũ hay tương lai mù mịt của đám tàn quân. Năm ngày sau th́ gia đ́nh Thanh được chấp thuận vào trại Fort Chaffee ở tiểu bang Arkansas để rồi từ đó lo thủ tục xuất trại để bắt đầu một cuộc sống nổi trôi hay một kiếp lưu đày không hạn định.
 
Những ngày dài trên biển khơi, những ngày thắc thỏm nằm trong lều trại tỵ nạn, đợi ơn mưa móc của một người Mỹ nào đó giầu ḷng từ tâm đón ra. Ngày nào chưa có người bảo trợ th́ người tỵ nạn phải nằm trong trại như tù. Anh em b́nh thủy tương phùng thề ước với nhau, nương tựa nhau mà sống. Lúc này chính là lúc con người phải suy nghĩ nhiều. Suy nghĩ đến qua khứ để mà tiếc nuối hay để tự an ủi lấy chính ḿnh. Nữ ca sĩ Khánh Ly đă lên sân khấu hát giă biệt khán thính giả cũng như giă biệt kiếp cầm ca.
Anh không cầm được cơi ḷng thổn thức với những đổi thay quá nhanh đến với anh cũng như bao nhiêu người khác. Anh lặng lẽ đứng dậy rời bạn bè và đồng hương của anh đang ngồi khóc qua từng cung bậc  và tiếng nấc của người ca sĩ từng được  mến mộ. 
 
Thanh thư thả tản bộ đến trước ngôi thánh đường của trại, mà bây giờ đă mang tên Việt - Thánh đường Đức Mẹ La Vang. Thay v́ vào thánh đường, anh ngồi ở cửa chánh, nh́n người qua lại. Anh lấy một mẩu giấy nhầu nát đọc lại một bài thơ mà anh mới làm hôm qua.
 
Nước Mỹ building tiếng chọc trời
Empire State có mây trôi
Nhưng sao ta chỉ đi quanh quẩn,
Barrack hàng rào nát tả tởi
 
Sáng sớm tinh sương đă sắp hàng,
Vợ chồng cḥm xóm kéo đi ăn.
Bữa trưa vừa dứt lo cơm tối,
Chẳng lẽ thân ta đến cuộc tàn!
 
Những lúc no nê lại họp bàn,
Chuyện 'Ông Bảo Trợ' nổ như rang.
Bao giờ xuất trại cho yên chuyện,
Bến nước mười hai đâu dám than!
 
Những chuyện đau thương dở khóc cười,
Xảy ra nhan nhản dẫu dư hơi,
Chẳng ai thèm lư hay chê trách 
Khi phải chung nhau một góc đời!
 
Cứ mỗi căn nhà trăm có dư
Người chơi kẻ nghỉ, đều lơ mơ
Trong la ngoài hét như khu chợ,
Kẻ đến người đi cứ mỗi giờ.
 
Trước đây quê cũ trọng nam nhân,
Ở trại nầy đây xuống giá lần
Những kẻ độc thân toàn tại chỗ,
Nay mai nữ giới hẳn lên chân.
 
Chuyện mừng chuyện tủi kể sao xong,
Những đớn đau kia nói chẳng cùng
Ân oán giang hồ tung cát bụi,
Hí trường cuốn gói sẽ rêu phong!
 
Đọc xong bài thơ, Thanh lại càng đau xót cho thân phận của anh và dân tộc anh. Anh lặng lẽ  đứng dậy đi vào nhà thờ những mong t́m được chút an ủi nào qua câu kinh và tiếng nhạc. Giờ nầy không phải là giờ lễ cho nên chỉ có vài cụ già quỳ trước tượng Đức Bà Maria lâm râm khấn nguyện. Đọc được vài ba kinh, Thanh lại thui thủi ra nhập đoàn những người sắp hàng đi ăn.
 
   Trời đă cuối xuân, cây lá sum sê, không giống như lúc mới bước chân vào trại tỵ nạn vào đầu tháng Năm, cây vẫn trơ cành. Cây Magnolia trước dăy nhà tạm trú của Thanh, hoa nở rộ phủ kín toàn cây. Hoa trắng có điểm chút sắc hồng gần đài hoa, ở xa trông như cây kẹo bông g̣n. Dù rằng hoa cũng na ná như hoa ngọc lan, nhưng to gấp hai mươi lần hoa ngọc lan bên quê nhà và mùi hương đoảng vị chứ không thơm ngát. Những người chuẩn bị xuất trại đứng chờ xe dưới gốc hoa bàn tán về cái tên của loài hoa và h́nh như chẳng một ai chấp nhận nó là hoa cùng họ với loài Ngọc Lan thơm ngát quư yêu. Ngày mai đây, khi đàn chim Việt đậu trên cành cây mới ở quê hương mới cũng sẽ có nhiều khác biệt để tranh căi...
 
Chiếc xe buưt đỗ xịch ngay trước mặt họ. Gia d́nh anh và những người được  xuất trại dắt díu nhau lên xe. Khác với thời gian mới tới trại, chỉ có con cái và hai tay không, bây giờ ai ai cũng có một chút ít hành lư do trại phát. Thanh vẫy tay chào giă biệt những người bạn mới quen biết. Dù rằng chỉ mới quen nhau chừng một tháng nhưng  bịn rịn  như tri kỷ thâm giao. Cha mẹ và các em của Thanh (chưa có người bảo trợ) lên tận xe buưt để tiễn đưa. Các cụ khóc và nhắn nhủ:
- Các con ráng lo cho cháu của ba. Đừng để chúng nó quên ông bà tổ tiên. Ba sẽ cố gắng t́m người bảo trợ gần chỗ con ở.
Dung thay thế chồng trả lời:
- Ba má yên trí, việc nầy chúng con sẽ cố gắng chu toàn. Ba má ở lại ráng giữ sức khỏe. Ra tới ngoài đó chúng con sẽ vận động người ta đón gia đ́nh ba má ra. C̣n nếu như chỗ định cư của ba má tốt hơn chúng con sẽ đưa nhau đến đó đoàn tụ.
Trước ngày xuất trại, đại gia đ́nh của Thanh đă họp bàn sẽ chia ra mà đi ba nơi khác nhau, rồi sau đó chọn nơi nào tốt nhất sẽ quy tụ về đó.
 
Phần số của Thanh luôn luôn lận đận, người bảo trợ của gia đ́nh anh là một vị mục sư già có một thửa đất 1,600 mẫu tây (acres) đă trồng một triệu cây thông, đến tuổi phải cắt tỉa, đó là chưa kể một vườn nho, một vườn blueberries cần chăm sóc. Thanh hàng ngày phải lên đỉnh núi để sửa sang lại một ngôi nhà đă bỏ hoang hàng chục năm không cửa nẻo không điện nước. Căn nhà này sẽ là nơi cư trú của gia đ́nh Thanh trong những ngày lao động cực h́nh tại đây .
 
Thật là nản chí. Nhưng biết làm sao đây, hoàn cảnh của anh bây giờ chẳng khác những người nô lệ da đen thời xa xưa. Anh muốn buông tay cho mọi sự muốn ra sao cũng mặc. Nhưng khi nghĩ đến vợ con, anh đành cắn răng đào cái basement để gia đ́nh anh tá túc sau nầy.
 
"Basement rất mát khi mùa nực và ấm khi mùa lạnh .” ông bảo trợ của anh bảo thế. Đào xới hơn một tuần tay phồng nhiều chỗ đau nhức vô cùng. Một hôm anh đào tới  tảng đá lớn. Anh không thể tiếp tục đào được nữa. Anh xuống tinh thần đến tột độ. Người bảo trợ thấy anh h́ hà h́ hục măi vẫn chưa đào được một phần mười của basement. Ông ta nói:
- Anh chuẩn bị đưa gia đ́nh về lại trại Ft Chaffee. Chúng tôi cần anh làm việc nông trại, nhưng xem ra th́ anh chưa bao giờ làm việc nặng nhọc bằng tay chân!
Thật là đ̣n trời giáng. Thanh làm sao có thể mang bầu đàn thê tử trở lại trại tỵ nạn. Nói xong Jeff bảo Thanh dọn dẹp ra về dù chỉ mới ba giờ chiều.
 
Thanh về nơi tạm trú với tâm sự năo nề. Dù rằng Mục Sư Jeff bảo trợ gia đ́nh Thanh, nhưng v́ nhà ông ta chật hẹp cho nên vị linh mục sở tại - cha Ron Arter nhận cho Thanh và gia đ́nh tá túc tại rectory (nhà dành cho cha sở ở).  Hơn hai tháng qua sống với cha Arter, gia đ́nh Thanh đă trở thành người thân của người. Trước đây, người đi ăn lang thang ở các nhà bổn đạo, nay th́ cha ăn cơm chung với gia đ́nh Thanh. Thanh định bụng sau khi ăn cơm xong sẽ tŕnh bày nỗi khó khăn của anh để mong người giúp đỡ. 
 
Về tới nhà cha sở, Thanh cố gượng làm vui nhưng vẫn không xóa hết được những nỗi lo âu và chán chường. Dung thấy chồng mặt rầu rầu mới hỏi:
- Có chuyện ǵ mà trông anh ủ rũ như vậy?
Thấy vợ tay xách nách mang với bầy con dại đứa lớn mới chín tuổi, đứa áp út vừa biết đi. Con bé út chưa đầy ba tháng tuổi, làm cho tinh thần anh càng xuống tệ hơn. Anh nh́n vợ, nh́n con không muốn cho vợ khổ thêm anh lắc đầu nói:
- Anh chỉ mệt tư thôi v́ không quen việc lao động. Nằm nghỉ một chút sẽ khỏe lại ngay.
Dung nh́n chồng với một cái nh́n đầy thương xót. Một tay bế con, một tay cầm tay chồng lên xem. Hai tay Thanh đều bị dộp v́ bỏng, nước vàng chảy ra c̣n ướt. Hai hàng nước mắt chảy ṛng. Linh tính cho nàng biết rằng chồng nàng đang dấu nàng một chuyện ǵ trọng đại. Nhưng nàng cũng cố gắng giữ b́nh tĩnh an ủi:
- Thôi anh đi nằm nghỉ một chút, chờ cha Arter về ḿnh ăn cơm, nghỉ sớm mai c̣n tiếp tục công việc.
 
Tối hôm đó sau khi cơm nước xong, Cha Arter và Thanh ngồi uống cà phê nói chuyện đời. Qua dăm mười phút hàn huyên trong không khí một gia đ́nh ấm cúng. Mấy đứa nhỏ con của vợ chồng Thanh nhảy lên ḷng cha Arter đùa dỡn một cách thoải mái, vô tư lự. Thỉnh thoảng chúng nói tiếng Việt kèm theo chữ OK. Cha Arter chẳng hiểu chúng nói ǵ nhưng khi nghe tiếng OK, người cũng OK theo. Ông cười nói vui vẻ, tận hưởng những giây phút ấm cúng mà có lẽ trong đời người chắc ǵ đă có. Tuy vậy ông vẫn để ư đến những biến chứng tâm lư của Thanh hôm nay. Có lẽ cha là một người từng trải, cho nên đă nh́n thấu được tâm sự của Thanh, Cha hỏi:
- John, (v́ tên Việt khó đọc cho nên người dùng tên thánh của Thanh cho dễ gọi và dễ nhớ) h́nh như anh có chuyện ǵ muốn nói với cha phải không?
Thanh giật ḿnh, thắc mắc, làm sao cha Arter lại nh́n thấu tâm can của anh, nhưng anh không dám nói ra v́ không muốn cho Dung biết một cách đột ngột.
- Dạ thưa không có ǵ.
Cha Arter đề nghị:
- À anh chàng Pat Goebel muốn gặp you. Anh ta có việc làm cho you. Anh đi với cha nhé.
- Pat Goebel là chủ nhà văng sanh Goebel Funeral Home, và là bạn thân của cha Arter cho nên dù mới sơ giao nhưng gia đ́nh của Pat đă trở nên thân thiết với gia đ́nh Thanh như đă quen biết lâu năm.
Thanh dạ một tiếng rồi đứng dậy về pḥng mang giày.
Vừa cho xe chạy được một chút cha Arter từ tốn nói:
- Bây giờ anh có thể nói được rồi chứ. Cha biết anh không muốn để Mary (Dung) biết những khó khăn mà anh đang phải đối đầu. Anh đừng ngại nói ra để cha t́m cách giúp cho.
Thanh vẫn chỉ ừ hữ, chưa muốn nói sự thật nát ḷng.
- Thưa cha đâu có ǵ đâu, mọi sự vẫn b́nh thường thôi.
Cha Arter đi thẳng vào vấn đề. Người nói:
- Từ khi đón gia đ́nh anh từ phi trường Columbus về, cha đă có ấn tượng là anh không thích hợp với công việc mà Jeff muốn anh làm.
Thanh phân bua:
- Công việc của ông Jeff có chi đâu mà không thích hợp. Công việc nầy không tốt hơn việc vắt sữa ḅ quanh năm của anh Định ở Bremen sao? Mỗi ngày 12 tiếng, một năm 365 ngày
- Khác nhiều lăm chứ. Định có sức khỏe vả lại anh ta đă từng quen làm việc bằng tay chân c̣n anh cả đời làm việc bằng trí óc, cha đoán là anh sẽ làm không nổi.   À anh chưa biết Định đă nằm nhà thương hơn một Tuần nay sao?
- Ảnh đau ǵ mà nằm nhà thương?
- Bệnh tâm thần.
Nghe như vậy Thanh nghĩ đến thân phận của ḿnh. Sớm muộn ǵ Thanh cũng theo gót Định. Không, không thể được. Anh cần phải mạnh dạn, anh cần phải phấn đấu cho vợ con yêu quư của anh. Trong lúc Thanh đang nghĩ đến thân phận của ḿnh th́ cha Arter nói:
- Tháng trước khi cha đưa gia đ́nh anh xuống thăm gia đ́nh của Định, Định đă chẳng nói với cha qua anh thông dịch:
"Cha làm ơn giúp con, chứ sống ở đây không có ngôn ngữ, chẳng ai hiểu ai, một ngày nào đó con sẽ điên mất.
 
Cha chưa làm ǵ được th́ anh ta đă điên rồi. Nghe nói, Định đánh vợ con nhừ tử rồi ngồi trong trailer, đóng cửa la hét và đặp phá lung tung.
Thanh ngồi yên lặng như là một cách gián tiếp biểu đồng t́nh với vị linh mục già. Cha Arter thấy Thanh không trả lời mới nói thẳng:
- Cha nghe anh Pat Goebel, người hàng xóm của Jeff cho biết rằng, cuối tháng nầy, Jeff sẽ trả gia đ́nh anh về lại Ft Chaffee.
V́ đă biết trước sự thể cho nên Thanh không có phản ứng. Thanh quay qua cha Arter nói:
- Cha có thể giúp chúng tôi ở lại không? Tôi sẽ đi kiếm việc làm ngày mai
Linh mục Arter thở dài ngắt lời Thanh:
- Cha thấy khó xử quá v́ vấn đề tế nhị cha thừa sức để bảo trợ gia đ́nh anh nhưng làm vậy sẽ bẽ mặt Jeff. Anh hăy nói Jeff và Elizabeth ráng nán thêm ít lâu,  để cha về quê của cha nhờ họ giúp. Đồ ăn trong freezer của cha đủ cho gia đ́nh anh ăn trong ṿng vài ba tuần. Cuối tuần cha sẽ cho anh biết kết quả
 
Nói tới đây th́ hai người cũng vừa vặn tới nhà của Goebel.  Họ được  hai vợ chồng Pat đón đưa tận cửa. Barbara vợ của Pat ôm Thanh hôn một cách thân t́nh. Nhà của Pat khá rộng  răi, có ba pḥng ngủ. Pḥng ăn, ăn thông với nhà bếp, pḥng chơi và pḥng khách ở phía trước có cửa thông với nhà quàn. Dù bây giờ là cuối mùa hè, khí trời c̣n nóng bức thế mà khi bước vào nhà của Pat Thanh thấy lành lạnh không phải cái lạnh của máy điều ḥa mà là cái lạnh của âm khí vất vưởng đâu đây. Thanh không hiểu làm sao mà vợ chồng con cái của nhà Goebel có thể sống ngày nầy sang tháng nọ. Tự nhiên Thanh rùng ḿnh, nổi gai ốc. Barbara thấy thế hỏi:
- John, anh thấy lạnh hả. Trời hôm nay cũng 76 độ F mà.
Thanh chỉ cười không nói ǵ. Pat đi lấy bia mời hai người. Qua vài ba câu chuyện mưa nắng, thời sự trong ngày. Pat mới hỏi Thanh:
- Này John, anh chắc đă biết ư định của Jeff rồi chứ ǵ? Anh nghĩ sao?
Thanh buồn buồn đáp lời:
- Vâng, tôi đă được Jeff cho biết lúc chiều nay. Nếu từ nay đến cuối tháng mà tôi không kiếm được việc làm th́ chúng tôi sẽ đi Chicago.
Pat cho biết:
- Sáng nay khi ông bà Jeff cho tôi biết quyết định nầy th́ tôi có nói với họ rằng - họ đâu cần phải trả gia đ́nh anh trở về trại Ft Chaffee. Nhưng Jeff cho biết hắn không muốn liên quan đến vấn đề trách nhiệm pháp lư sau nầy ngoại trừ có một người chịu kư giấy kế tục bảo trợ. Tôi đưa vấn đề nầy với Theodore chủ Nghĩa trang Crooksville th́ Theodore đồng ư làm thủ tục đó và sẽ cung cấp nhà cửa miễn phí ngay trên ngọn đồi tại trung tâm nghĩa trang cho gia đ́nh anh. Ngược lại anh sẽ giúp ông ta quản thủ và phục vụ cho nghĩa trang dĩ nhiên có lương đủ cho gia đ́nh anh sống.
 
Nghe tới đây tự nhiên tai Thanh nổ lùng bùng. Cái lạnh ma quái của ngôi nhà Goebel tăng thêm. Những h́nh ảnh rùng rợn của ma trơi, ma cụt đầu, ma le tự đâu kéo đến quay cuồng trước mắt Thanh. Thanh co rúm người lại. Cha Arter nh́n thấy Thanh hai tay ôm lấy đầu,  lùi sát thành ghế dựa, người hỏi:
- John, lạnh lắm hả
Tiếng thân thương và lo lắng của vị linh mục già, kéo Thanh về với thực tại, Thanh nói:
- Vâng tự nhiên tôi thấy lạnh lắm, có lẽ bị cảm.
Barbara đứng dậy tiến đến chỗ của Thanh đưa tay rờ trán anh và nói:
Không, John, anh không bị cảm đâu! Có lẽ anh bị dị ứng rag pollen. Mùa nầy là mùa dị ứng mà.
Thanh nghĩ - "Đúng thế, tôi bị dị ứng nặng nhưng không phải bị dị ứng hoa, cỏ mà bị dị ứng cơi siêu h́nh." Anh không biết phải dùng lời lẽ nào để diễn tả sự suy nghĩ của anh cho họ biết rằng anh không thể nào chấp nhận công việc đó. Trong lúc anh đang phấn đấu với sức mạnh của thế giới siêu h́nh và phép lịch sự tối thiểu th́ cha Arter lên tiếng:
- Pat, tôi không nghĩ là John thích hợp với công việc nầy v́ cũng giống công việc nông trại, John phải đào huyệt trong mùa đông lạnh gia, và c̣n bao nhiêu công việc nặng nhọc khác của nghĩa trang.
 
Thanh quay qua cha Arter, nh́n với con mắt biết ơn và ngồi yên lặng. Hầu như Barbara cũng cảm thông được với Thanh  nên tiếp lời:
- Theo em nghĩ công việc đó không mấy hợp với John đâu. Hay là ḿnh gọi điện thoại cho hăng Purina biết đâu những kinh nghiệm về canh nông của John ở Việt nam có thể dùng được cho việc sản xuất những hóa phẩm nông nghiệp bán cho các nước Á Châu.  
Cha Arter đồng ư:
- Ừ, ư kiến hay! Để mai tôi gọi cho họ.
Pat, cười hề hề nói:
- Ḿnh phải t́m cách giữ John ở lại đây. Quay qua Thanh Pat hỏi:
- Như vậy là mai anh không phải đi sửa nhà nữa phải không? Nếu rảnh trưa mai đến giúp tôi một tay. Người phụ tá của tôi đi phép mốt mới về.
Thanh không biết là sẽ giúp Pat việc ǵ nhưng cũng vui vẻ nhận lời:
- Mấy giờ th́ anh cần tôi?
- 11 giờ, Ron có thể chở John lại đây được không?
- Được, mai tôi có lễ ở Bremen lúc 12 giờ. Tôi sẽ thả John xuống đây lúc 10 giờ rưỡi?
 
Đêm hôm đó, Thanh nằm trằn trọc măi vẫn không chợp mắt được. H́nh ảnh Dung ôm c̣n ngồi khóc, chẳng nói được câu nào khi nàng biết được hoàn cảnh bi đát của gia đ́nh trong lúc nầy nhất là lúc nghe đến chuyện làm cai nghĩa địa của chồng. Cùng tâm sự như Thanh, Dung, nằm yên, khi nhắm lại th́ thấy những cảnh kinh hoàng lởn vởn quanh nàng.
 
Hôm sau, cha Ron Arter và Thanh đến nhà văng sanh Goebel. Thanh vừa bước vô nhà th́ Pat đă vui mừng nói:
- Tốt, anh đến sớm như thế nầy ta có thể khởi sự sớm. À John đă ăn uống ǵ chưa?
- Cám ơn Pat, tôi ăn rồi. Thanh trả lời:
- Vậy uống cà phê nhé. Pat hỏi.
- Cám ơn anh, tôi uống hơi nhiều sáng nay rồi!
- Vậy th́ đi theo tôi.
Thanh, như người bị thôi miên đi theo Pat về hướng nhà văng sinh. Khi cửa vừa mở Thanh thấy một luồng gió lạnh ào qua táp vào mặt anh. Một mùi đặc biệt hắt vào mũi. Anh không biết  đó là mùi ǵ, nhưng trực nhớ ngay. Đó là mùi nhà xác mà trước đây anh đă từng đến để nhận xác anh em chiến hữu của anh. Pat dắt đi giới thiệu từng pḥng một, những pḥng sáng sủa rộng răi, trang hoàng như một nhà nguyện là nơi thăm viếng của tang gia. Khi vào pḥng trong, Pat nói:
- Đây là nơi làm việc của chúng tôi.
Pat mở tủ lấy áo choàng ngoài bằng cao su đưa cho Thanh và nói:
- Hy vọng nó không quá lớn đối với anh.
Mặc áo xong th́ Pat lại đưa cho anh dụng cụ che mũi miệng. Pat cũng mặc áo đồ trang bị tương tự. Thanh làm theo như cái máy. Tới  đây th́ Thanh đoán được công việc mà Thanh sắp làm là công việc ǵ. Thanh rụng rời tay chân, nhưng đành đi theo. Pat mở pḥng lạnh. Ngay giữa pḥng có một chiếc bàn mổ. Pat bật đèn, ngọn đèn sáng có lẽ cả ngàn watts. Trên bàn có xác chết của một người đàn bà có lẽ c̣n tuổi trung niên. Chờ cho Thanh bước vào pḥng lạnh, Pat đóng cửa và tiến về hộc tủ phía bên trái lấy dụng cụ dao kéo. Tiếng kim loại va chạm vào nhau tuy nhỏ nhưng trong trường hợp nầy, Thanh nghe thấy hơi chói tai.
 
Pat bỏ các thứ cần dùng vào một cái khay rồi đưa cho Thanh, anh đỡ lấy tiến sát phía bên trái của Pat v́ Pat thuận tay trái. Như một bác sĩ chuyên mổ xẻ, Pat mổ bụng người đàn bà và lôi bộ đồ ḷng ra. Máu tuy không c̣n nhưng nước nhầy chảy ra trên tấm vải cao su. H́nh ảnh nầy gợi nhớ đến xác chết của Nguyễn Nghi sau trận Ḷ G̣. Ruột gan của Nghi cũng ḷi ra như vậy. Nỗi thương tâm trỗi dậy trong ḷng của Thanh. Thanh nhớ đến bạn bè những người c̣n sống cũng như những người đă nằm xuống cho an b́nh của Miền Nam Việt Nam. Tự nhiên anh thấy người choáng váng, đứng không muốn vững. Thanh để khay dụng cụ xuống bàn mổ rồi t́m đến ghế ngồi phịch xuống. Pat biết chuyện ǵ đă xảy ra nhưng vẫn hỏi:
- John, anh có sao không?
Hỏi để mà hỏi và chưa kịp nghe Thanh trả lời, anh lột bao tay, tiến lại đỡ Thanh về pḥng khách nhà anh. Sau khi đặt Thanh nằm xuống ghế sofa. Pat an ủi:
- Chuyện nầy rất b́nh thường. Cho nên nghề ướp xác chết không phải ai cũng làm được. Anh George bạn thân của tôi là một cựu chiến binh. Trong ca mổ đầu tiên cũng bị hồi quang (flash back) v́ những cái chết của đồng đội cũng bị phản ứng sinh lư như anh hôm nay, nên anh ta đành bỏ cuộc .
Nói xong anh gọi Barbara đưa Thanh về nhà.
 
Chiều tối khi ăn cơm xong cha Arter hỏi:
- Sao hôm nay có chuyện ǵ đáng nói không?
Thanh biết cha muốn hỏi về chuyện mổ ướp xác. Thanh thành thật nói:
- Cái nghề nầy không thích hợp vơi tôi cha à.
- Cũng v́ điểm nầy mà sáng hôm nay Pat cố ư cho anh chứng kiến việc làm đó. Pat rất đúng khi nói: việc làm tuy nhẹ nhàng nhưng không phải ai cũng làm được!
Pat có ư định cho anh cái công việc ướp xác nhưng thấy anh có phản ứng tâm lư quá đột ngột sau khi nghe đến việc làm cai nghĩa địa. Thế nên Pat mới tạo điều kiện cho anh chứng kiến ca mổ để xem phản ứng của anh. Bây giờ đă rơ ràng, anh không thích hợp với nghề của nhà văng sanh. Pat sẽ khỏi phải ngượng ngùng khi bị anh từ chối hoặc sẽ khỏi làm anh khó nghĩ v́ lời đề nghị.
 
Cuối tuần  cha Arter và John đi t́m người kế tục bảo trợ.  Thanh tạm đi tập lái xe. Dù đă lái xe bao năm trên đường trường Nha Trang, Dà Lạt, Nha Trang Qui Nhơn hay Nha Trang Phan Thiết nhưng lần đầu tiên chạy xe trên đất Mỹ, Thanh cũng vẫn cảm thấy ren rét. Cha Arter nói:
- Ở cái làng nho nhỏ nầy tập xe dù sao cũng dễ hơn. Mai mốt dọn lên ở Lancaster xe nhiều thi lấy bằng cũng khó đậu lắm!
 
Họ đạo St Mark, Lanscaster ở ngoại ô của Columbus, chấp nhận kế tục bảo trợ gia đ́nh Thanh một cách dễ dàng. Cũng ngay trong ngày đó hăng bánh donut Jolly Roger nhận thuê Thanh làm thợ lăn bánh, lương $100.00 một tuần, xuất đêm, số giờ mỗi xuất tùy  nhu cầu. Thường là 10 tiếng, tuần làm sáu ngày. Ngay trong tuần đó gia đ́nh Thanh khăn gói đi sống nhờ một gia đ́nh khác. Trong lúc nầy, gia đ́nh của thân phụ Thanh đă có bảo trợ tại Granview, Columbus. Thanh cũng thấy yên trí, việc thăm viếng và chăm sóc cho cụ cũng dễ dàng.
 
Don Davis với vợ và năm con sống trong một ngôi nhà nhỏ một pḥng ngủ rưỡi, bây giờ nhét thêm bảy mạng của gia đ́nh Thanh. Don đă nhường pḥng ngủ của ḿnh cho Thanh. Don làm thợ cơ khí ở Columbus, lương rất khiêm nhường. Do đó trong vài tuần đầu ngân sách bị thiếu hụt. Biết điều đó, Thanh lănh lương ra mua sẵn đồ ăn để Don khỏi thâm hụt v́ phải nuôi ăn thêm bảy miệng ăn nữa.
Sợ  sống chung đụng chật hẹp dễ làm cho con người mất b́nh tĩnh. Cho nên giáo hội Episcopal đă giúp cho gia đ́nh Thanh một chỗ ở trong khuôn viên nhà thờ St John.
 
Tại sở làm, nhờ tính tháo vát và bén nhạy học việc rất nhanh cho nên, chỉ 1 tháng sau, ông chủ đă giao cho Thanh đứng coi một tiệm. Sự kiện nầy làm cho Cindy, một thợ bạn ganh ghét, kỳ thị   Cô ta phải làm chín năm mới được nâng lên hàng thợ chính. Cindy xúi dục đám bán hàng của tiệm làm khó và hạch sách đủ điều làm Thanh bất măn vô cùng. V́ phải làm quá nhiều giờ, luôn luôn mệt mỏi và Thanh không nhịn nổi sự ghen ghét và kỳ thị của thợ bạn, anh đă bỏ việc làm ngang xương sau sáu tháng. Mặc cho lăo chủ năn nỉ, hứa hẹn tăng lương .
 
 Khi đi làm về, Thanh kể cho vợ biết quyết định của anh. Dung buồn nản không nói ǵ. Bố mẹ của Dung đă được định cư ở Chicago, và cũng đang  lâm bệnh. Dung quá đau khổ v́ hoàn cảnh đường xa cách trở không phục dịch được bố mẹ già lúc đau yếu và trong một phút quẫn trí không ngủ được, nàng đă uống quá liều thuốc ngủ, phải đưa đi súc ruột.  Trong t́nh huống nầy, Thanh an ủi vợ, rồi tức tốc lái xe lên Chicago, trước là thăm sức khỏe của bố vợ sau là ḍ đường đi nước bước để đưa gia đ́nh lên Chicago ...
 
Từ hồi c̣n ở bên quê nhà tiếng tăm của Chicago làm cho mọi người khiếp vía.  Cái ǵ của Chicago  cũng hầu như là đứng đầu thiên hạ nhất là h́nh ảnh của băng đảng qua phim Al Capone. Trên con đường lái xe đến Chicago một ḿnh, lần đầu tiên, hoang mang v́ bao nỗi sợ sệt dự tưởng. Dù sao đi nữa, trong hoàn cảnh nầy anh chẳng thể làm khác hơn được. Sau hơn sáu tiếng lái xe. Anh đă đến vùng đất hứa. Sự hứa hẹn có hai chiều – Sẽ bi đát hơn hoặc tương lai sẽ sáng sủa hơn!
 
H́nh ảnh đầu tiên làm nhụt chí Thanh là t́nh trạng lưu thông trên xa lộ I90 và I94. Xe nhiều như mắc cửi, đường xá ngang dọc mênh mông hà hải không biết đâu mà ṃ. Nhà cửa san sát nhau và cao ngợp trời nhất là ngay trung tâm thành phố. V́ chưa biết đường, Thanh lạc vào ngay khu của người Mỹ da màu làm anh rét tới xương sống. Nhưng dù sao cũng phải làm gan, dừng lại hỏi đường. Vừa hỏi xong chưa kịp nghe anh Mỹ đen trẻ trả lời th́ Thanh đă nghe hai phát súng nổ cách anh chừng một trăm thước. Thấy một người ngă lăn ra đường tuy nhiên mọi sự đều không có ǵ thay đổi, Người bộ hành vẫn tiếp tục đi, xe chẳng hề ngưng chạy Có một thanh niên trẻ chạy về hướng của Thanh. Thấy Thanh có vẻ ngơ ngác,  lo ngại, người Mỹ chỉ đường nói:
- Đừng sợ, tụi nó thanh toán nhau đó và để tránh bị bắt hay bị nhận diện, hai phe đều bỏ chạy hết. Chẳng c̣n ǵ đáng lo nữa đâu!
 
Đến Chicago ngày hôm trước, ngày hôm sau Thanh đă nhận việc làm vệ sinh cho trung tâm mua sắm sang trọng nhất của Chicago - The Water Tower Place Shopping Center. Công việc tuy nhẹ nhàng nhưng cũng đầy nước mắt. Quét rác, nhặt tàn thuốc bảy tầng lầu, 5 tầng basement. Phụ trách đánh bóng hai thang máy. Đánh cho bóng loáng, không có dấu tay, và làm sạch sẽ mười cầu tiêu đàn ông mười cầu tiêu đàn bà. Anh bận bịu suốt ngày v́ nhà cầu có đông người xử dụng. Thường bất cẩn,   nên thường bị nghẽn,  đổ nước trên sàn nhà.
 
Đồng lương tuy cũng khá nhưng cũng không đủ nuôi vợ con, cho nên sau khi tan sở Thanh c̣n  ở lại giữ xe dưới tầng hầm thêm năm tiếng đồng hồ nữa. Suốt ngày bận bịu chạy lung tung lo giữ sạch sẽ cho bảy tầng lầu,  nên Thanh không có th́ giờ để suy nghĩ viễn vông. Nhưng trong năm tiếng giữ xe là lúc rỗi răi, anh đâm suy nghĩ nhiều chuyện. Những lo lắng cho tương lai, những ưu tư cho hiện tại và những xót thương cho người ở lại luôn luôn ám ảnh anh. Chính lúc nầy là lúc anh nghĩ nhiều đến quá khứ, thời niên thiếu, thời anh c̣n phục vụ trong quân đội. Tuổi đời, vui buồn có thể qua đi, nhưng dĩ văng th́ chắc chắn không. Nó sẽ măi đeo đuổi ta trong suốt những ngày tha hương c̣n lại.
 
Làm nhân viên vệ sinh cho Water Tower Place được một năm th́ anh được nâng lên hàng đốc công, coi sáu nhân viên làm vệ sinh cho một cao ốc 30 tầng tọa lạc ngay tại trung tâm Chicago. Chức vụ nghe có vẻ oai phong nhưng công việc th́ cũng như cũ, thêm phần trách nhiệm điều động nhân viên của anh đổi mồ hôi và nước mắt lấy bát cơm đem về nuôi gia đ́nh. Anh bận bịu luôn luôn, hơn cả lúc làm lao công. Những lúc tuyết lớn anh phải làm mười hai tiếng một ngày mà lương chẳng thêm một đồng nào.

Chicago thường lănh những  trận tuyết lớn chôn xe, chôn nhà, đường xá  bị tắc nghẽn, phải dọn dẹp nhiều ngày, nhiều khi cả tuần mới xong.Sau trận tuyết, Thanh phải phụ đào xới để giải thoát xe của khách hàng bị chôn nơi băi đậu xe, đă bị đóng đá. Nhân viên của anh cũng là những người tỵ nạn từ phương trời Âu đến. Họ và Thanh cũng bị ngăn cách nhiều qua hàng rào ngôn ngữ. Ngoài những dằn vặt và cau có của chủ cao ốc cũng như khách hàng, anh phải t́m mọi cách để cảm thông với nhân viên của anh khi ngôn ngữ gần như bất đồng.

Làm đốc công được một  năm th́ anh lần ṃ kiếm được công việc khác hợp với mơ ước của anh và có điều kiện để giúp đỡ đồng hương của anh.
 
Nhờ kiến thức thu thập được qua khóa Lực Lượng Đặc Biệt trước đây, dạy những khuôn mẫu xây dựng cộng đồng những vùng mới b́nh định hay vùng đóng quân và kinh nghiệm của chương tŕnh dân sự vụ trong lúc hành quân chiến đấu, cơ quan Travelers Aid Society nhận Thanh làm việc cho chương Tŕnh Indochinese Social Services Outreach Program một cách dễ dàng.
 
Theo truyền thống của nước chủ, dù bất thành văn,  th́ dịch vụ xă hội là - thi ân bố đức cho những kẻ khốn cùng. Thanh cực lực lên án và đưa ra phương thức phục vụ mới áp dụng câu châm ngôn cũ của cha ông: “Của cho không bằng cách cho.”  Nói một cách khác là phải hiểu biết và tôn trọng đối tượng. Phải đặt ḿnh vào vị trí của đối tượng. Nếu ḿnh là người đi xin dịch vụ th́ ḿnh mong ǵ ở người thi ân ?
 
Qua kinh nghiệm bản thân và những người bạn của anh đă v́ hoàn cảnh đổi đời, đổi cách sống cấp thời mà mất hết khả năng chịu đựng. Một hội chứng người bản địa gọi là bệnh tâm thần. Theo Thanh, việc chính phủ và các cơ quan thiện nguyện bắt buộc người tỵ nạn phải tự túc kinh tế quá sớm sẽ tạo ra những khủng hoảng đáng tiếc sau nầy.  Thanh đề ra những phương thức trị bệnh tâm thần hợp với văn hóa và suy tư của người tỵ nạn hơn. Trước hết là phải chấp nhận quan niệm giá trị đồng đều trong “Dĩa Sà Lách” (Salade Bowl) và bác bỏ  giá trị quyện ḥa (Melting Pot). Có nghĩa là Thanh khuyến khích một cộng đồng thiểu số quy tụ để hỗ trợ cho nhau trên mọi phương diện. Anh đề ra chương tŕnh “Giúp họ để họ giúp chính họ” (Help them help themselves).
 
Một ông Tây mũi lơ, dù có hiểu biết nhiều về một dân tộc chưa hẳn đă hiểu hết cách suy tư và cảm xúc của những cá nhân thuộc dân tộc đó. Những nỗi dặt vằn của kẻ khốn cùng đó chỉ có thể cảm thông bởi người có cùng văn hóa với anh ta. Anh chỉ có thể khóc lóc được với người hiểu anh, chứ chẳng mấy ai khóc lóc với một gốc cây hay một cục đá. Ngôn ngữ khác biệt  chính là yếu tố làm cho đối tượng kia trở thành khúc cây và cục đá. Quan trọng hơn hết là một người di dân dù đă có chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh xa xứ mà vẫn c̣n bị khủng hoảng tâm lư trên quê hương mới.  Huống hồ một người tỵ nạn phải vượt qua trăm cay ngh́n đắng, cái chết gần kề trên biển khơi, nỗi kinh hoàng của rừng thiêng cọp dữ, băi ḿn, cướp bóc và thù nghịch đe dọa họ từng mỗi bước đi trên đường vượt thoát. Những hoang mang sợ sệt đó khó có thể rời bỏ họ khi họ phải đối đầu với nhiều nỗi khó khăn trên đất mới.  Nói tóm lại mỗi một người tỵ nạn hay di dân đều cần có thời gian tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bước thăng tiến trong đời sống kinh tế, kể cả việc học nghề hay bổ túc nghề nghiệp.
 
Tư tưởng và lư thuyết của anh đưa ra, được đón nhận một cách chân t́nh. Anh đă được đưa đi thuyết tŕnh tại nhiều tiểu bang khác. Cụ thể là lư thuyết nầy đă trở thành một phương thức cung cấp dịch vụ mới cho cấp liên bang mang tên là “Quản trị cá nhân” (Case management). Chính phủ Liên bang đă phát động mạnh mẽ cho hai dự án lớn đó là Chương Tŕnh định cư Tù Nhân Học Tập Cải Tạo (HO hay Humanitarian Operations) và Chương Tŕnh Con Lai (Amerasian). Sau nầy áp dụng chung cho mọi sắc dân.
 
Cảm thông với người đồng cảnh, nên Thanh hăng say làm việc để chứng minh cho sự khả thi của ư tưởng mà anh cưu mang. Cũng như anh hăng say đấu tranh cho một lư tưởng quốc gia mà dân tộc anh kỳ vọng. Anh chẳng những  ra sức xây dựng một cộng đồng cho đồng hương của anh mà c̣n giúp cho các sắc dân khác nữa. Anh quan niệm “Trước hết ḿnh tự giúp ḿnh sau đó trời mới giúp ḿnh”. Một thí dụ điển h́nh là việc an dân phải do cảnh sát lo nhưng nghĩ cho cùng, cảnh sát không thể theo ta suốt đêm ngày. Khi chuyện cướp bóc xảy ra và sau đó cảnh sát đến th́ chỉ c̣n một ḿnh nạn nhân ôm đầu khóc lóc v́ mất của hay người nhà bị thiệt thân.
 
Thấy người Á Châu khi đi lănh tiền trợ cấp ở Currency Exchange, bọn vô lại thường chặn đường khi họ về nhà, siết cổ lấy hết tiền bạc cũng như tem phiếu thực phẩm. Mỗi ngày có đến gần ba mươi vụ cướp như vậy nhưng chính quyền địa phương chẳng thể nào dẹp được. Thanh và một số chiến hữu đă cùng nhau hỗ trợ cảnh sát, gài bẫy bắt  cướp theo phương thức phục kích. Bọn cướp đă bị bắt và ngày ra ṭa, khoảng ba trăm người tỵ nạn khốn khổ đă xuất hiện làm chứng tống cổ bọn chúng đi nằm nhà pha đếm lịch mệt nghỉ.
 
Nghiệm thấy bài học tự túc tự cường cần được viết lại cho con cháu sau nầy noi gương, sống không nên ỷ lại bất cứ trong trường hợp nào. Những dặt vằn trong tâm tư của anh đă trở thành những xoắn ốc, những đinh nhọn dàn trải qua chữ nghĩa: Những ṿm trời của dấu yêu, của kinh hăi, của hận thù. Những bọt sóng thân thương thuở thơ ấu khổ nghèo bên bờ Sông Hương. Những ngày oai hùng trong đời quân ngũ. Tất cả là những chuỗi dài phấn đấu để sống c̣n. Anh không thể ngưng nghỉ. Sự ngưng nghỉ chứng tỏ anh thua cuộc.  Anh không muốn làm một Al Capone, nhưng Al Capone là chất xúc tác cho anh dồn mọi nỗ lực để làm và để viết. Dĩ văng xa xưa lại chập chờn nhẩy múa trên đầu ngọn bút Thanh...
 
Hà Phương Hoài - Trầm Bay 2


 
Mở 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Mc Lc
        vào tập PhụLục1 PhụLục2      
                           

Thư Mục 

Thơ

Đổi Thay  
Những Đoản Khúc
Tơ Ṿ
Hương Phai 
Thi Đàm /Thi Họa

Kịch Thơ 

Cô Hàng Nước  
Ngồi Đợi B́nh Minh

Truyện Dài

Cơ Trời Vận Nước
Trầm Bay

Truyện Ngắn

Bước Hổng Chân Không
Ba Con Yến Nhỏ
Cây Cà Rem Đầu Đời

Sưu Tập

Ca Dao

Huy Chương VNCH

Huy hiệu QL/VNCH

Huy Hiệu QĐ Pháp/Đ-Dương

Tiền Tệ
Quân Sử VNCH

Điếu Tế 

Văn Tế
Điếu Văn
25 Năm Xây Dựng CĐ
Hot Links
Ha Huyen Chi
Gia Đ́nh Vơ Bị
All Links

Miếng Ngọt Quê Hương

Thực Vô Cầu Băo
Cá Kho
Món Xào

Send mail to haphuonghoai@gmail.com with questions or comments about this web site.
Copyright © 2003 Haphuonghoai
Last modified: 01/29/13