Home

Thơ

Sưu Tập

Văn Điếu Tế  Linh Tinh Trang Ca Dao Search

 

Hà Phương Hoài

Cơ Trời Vận Nước 

 

Chương Một

 

Vào một ngày cuối thu tại một thôn nhỏ phía tây phủ Qui Nhơn,* gió bấc bắt đầu thổi mạnh. Các đám mây mang những hình thù quái dị, tranh nhau trốn về phương Nam. Hình như chúng cũng muốn phô trương với con người, với mặt đất khô cằn rằng ta đây cũng biết chơi đùa thay mầu đổi dạng. Sự thay đổi đó là nguyên nhân của sự lạnh lùng, chua chát, trêu cợt sinh vật đang nằm phía dưới, hoặc chính là những xúc tác tạo thành sinh khí đem những trận mưa mát mẻ đầu vụ lúa mùa.

Hơi lạnh từ miền bắc băng giá xa xôi cũng từ từ theo dấu chân quái ác của mây, của gió đến với dân trong thôn. Cái lạnh xỉa xói đó cũng đã dần dần giết chết sự sống trên mặt đất nầy khi vụ gặt mùa thu cũng vừa xong. Những hạt ngũ cốc gặt được chính là sự sống lại tiềm tàng trong cái chết tạm thời của những hạt giống. Con người cũng từ đó vươn lên đồng lõa với gió với mây nhốt sự sống, cất kỹ hạt giống cho mùa sau. Lúa khô cũng đã được đưa vào bồ. Nơi nơi đã hoàn tất việc chất rơm vào đụn. Người người khoe nhau sự thịnh vượng hay che dấu nỗi bại suy của mình qua các buổi liên hoan lẻ tẻ. Ba hôm nữa mới là ngày hội kết thúc vụ gặt mùa thu của thôn. Cả thôn lo chuẩn bị. Các hương thân phụ lão họp mặt nhiều lần tại trụ sở xã để bàn những chi tiết cần thiết cho ngày hội. Người ta tính bao nhiêu trâu và heo cần có để xẻ thịt. Những tá điền lam lũ, dù không muốn phí phạm bát cơm chén cháo của vợ con nghèo khổ của mình nhưng cũng đành đồng lõa với việc bớt xén tội lỗi đó.

Vị trí của thôn khá xa với vùng duyên hải cho nên thường thường thì đất canh tác khô cằn, nếu ơn trời không cho mưa thuận gió hòa, dân Tây Sơn khó tránh cảnh túng hụt hay đói khát. Ngoài ra những kẻ lợi dụng thời cơ, đặt bày những nghi lễ cầu mưa, tế thần, để moi từng đồng xu của những người khốn khổ. Bao nhiêu buổi tế thần trên núi cao hoặc tế Hà Bá giữa giòng sông Côn khô cằn cũng chẳng rung chuyển được mệnh trời.

Năm nay thôn được mùa sau bao nhiêu năm liên tục bị thất thu, là dịp cho những kẻ buôn thần, bán thánh, bọn thời cơ thủ lợi đó kể công ơn hoặc khoe tài là mình có ảnh hưởng lớn với trời đất khó tính.

Hội mùa Thu chưa thành hình thì đại họa lại tới. Buổi chiều trước ngày khai hội, trong lúc trai tráng lo đào hầm chất củi để thui bò và quay heo thì máy bay của Tây đùng đùng kéo về bỏ bom. Cơn mưa bom tuy ngắn ngủi nhưng long trời lở đất, đổ ngay trên đầu của thôn làm cho bao nhiêu nhà cửa và ruộng vườn đều bị phá hủy. Người người lại lũ lượt kéo nhau đi tìm sự sống trong cái chết ở trong rừng sâu, núi hoang.

Sau một đêm đi lánh nạn, mọi người trở về với mảnh đất thân yêu, hoang tàn đổ nát. Một bà lão mặc rách rưới dắt một đứa bé trai khoảng 10 tuổi, áo quần tuy không thảm hại như của bà lão nhưng cũng đã bạc mầu, có lẽ nó mặc thừa của người khác cho nên trông rất luộm thuộm. Bà lão nhìn đàn gà con lạc mẹ, mắt lóe lên một niềm hy vọng. Lão nói:

- Ít nhất ta cũng còn lại một chút gì để khởi sự.

Thằng bé đi bên cạnh bà lão chẳng hề đáp lại, lo đi lục lạo xung quanh đám tro tàn. Một lúc sau bà lão lôi ra trong đống than, lửa đã tắt ngúm, nhờ một trận mưa vào khoảng canh khuya, được một cái rựa mà cán đã cháy, bà lão âu yếm bảo thằng nhỏ:

- Tuấn, cháu mau đi chặt tre làm ngay một cái chuồng gà để giữ mấy con gà con này kẻo diều bắt thì mất hết ráo trọi đấy nghe. Làm chuồng gà xong rồi làm một mái che mưa cho mình cũng chưa muộn.

Thằng bé, chỉ khẽ dạ một tiếng rồi đến cạnh bà lão đưa tay lấy cái rựa đi vội ra bụi tre sau vườn. Thằng bé tay chân ốm yếu, cầm cái rựa phát quang cho lộ gốc cây tre. Khi chặt xong cây tre đầu, nó lại không đủ sức để kéo ra khỏi bụi vì cành lá bám chặt vào những cành tre khác, đành bỏ cây đó và tìm những cây nhỏ lạc bầy mà chặt. Với sức lực quá yếu ớt, nó cù nhây mãi mới chặt được mấy cây tre gầy còm như chính bản thân của nó.

Thế rồi một già một trẻ loay hoay làm chuồng gà, sau đó dựng lên một mái che. Mãi đến chiều tối thì họ đã làm xong, dù rằng mái che mưa chưa có vách. Với tuổi đời vừa đầy hai con số, Tuấn đã phải gánh nhận sự thừa thãi của loài người. Những gì con người không thích, không muốn Tuấn đều có cả. Những gì nó muốn có, chỉ là những ước mơ, có tính cách xa xỉ. Bà nó và nó, đang ngồi nghỉ, chẳng ai nói với ai một lời nào. Bỗng có tiếng nói của một người thanh niên đánh tan bầu không khí nặng nề đó.

- Ngoại à, hôm nay cũng vì bận lo cho chính mình mà cháu không đến tiếp tay ngoại được, mai mốt cháu và thằng Tố sẽ đến làm vách cho ngoại nhé.

Tiếng nói đó không ai khác hơn là tiếng nói của anh Tư, một tá điền tốt bụng trong thôn, đang tiến về phía chuồng gà con của thằng Tuấn.

- Cám ơn cháu Tư, có một mái che như thế này cũng đủ rồi, cháu đừng bận tâm.

- Ðâu được ngoại, anh Tư tiếp lời bà lão, trời đã cuối thu, đêm lạnh nhiều, nhà phải có vách để chắn gió, chứ dăm ba bữa nữa thì trời vào đông, gió bấc thổi càng mạnh hơn. Vả lại mưa gió thất thường, lạnh lẽo, mang bệnh thì chết.

Tư quay sang thằng Tuấn tiếp:

- Tuấn em đi theo "goa" xuống dưới nhà "goa" "goa" đưa chút ít gạo về nấu miếng cơm cho ngoại ăn. May quá gạo của "goa" không bị cháy tý nào.

Thằng nhỏ mặt đượm chút sắc buồn, và từ sáng tới giờ nó chưa hề mở miệng nói một tiếng nào. Nó chỉ biết riu ríu đi theo Tư Hiền. Trên con đường trải đá từ ngày xa xưa, có lẽ xưa lắm rồi, mặt đường đã bị xoi mòn, đất đã trôi mất đi nhiều thành ra đá lồi lên lổm chổm khó đi, nhưng có lẽ vì quen với hoàn cảnh như vậy hai người đi thoăn thoắt. Những dẫy hàng rào dâm bụt ngăn cách nhà với nhà và với đường cái quan tuy có được cắt tỉa cẩn thận nhưng trông lại vô trật tự vì có những chỗ bị bom cầy nát. Một con tắc kè leo lên mặt hàng rào, với chiếc cổ có nhiều mầu sắc, phùng mang gáy. Tiếng gáy nghe khô khan và khó chịu vô ngần. Nếu là lúc rảnh rỗi, thì Tuấn đã chạy bay về nhà lấy bộ đồ nghề của nó - một chiếc cần tre có thòng lọng bằng giây cước bén nhạy, nó sẽ tóm ngay được anh đại tướng quân nầy. Ðúng đây là một đại tướng quân. Với cái cổ to, răng sắc bén, sẽ làm cho đối thủ vừa thấy cũng đủ khiếp vía. Thêm vào đó cái tướng đoản túc trường thủ, bụng thon, thì việc thay đổi vị trí khi chiến đấu thật là dễ dàng. Ðược vị đại tướng quân nầy thì tụi thằng Cường, Thằng Ðáng, thằng Mai phải chết khiếp mà chào thua. Giờ phút nầy Tuấn chẳng làm chi hơn là tiếc đùi đụi...

- Tuấn à, sáng giờ em ăn gì chưa? Tư Hiền hỏi thằng bé.

Thằng bé im lặng không trả lời. Tuy thấy thằng bé im lặng Tư Hiền không những không bực tức mà còn âu yếm nhìn nó, đưa tay vuốt tóc rối bời của nó, ôm nó vào hông của mình tiếp tục đi về thôn Hạ.

 

 

Một thoáng trôi qua, mùa đông lạnh buốt và ẩm ướt đã thật sự đến với vùng đất đầy đau thương này. Những cơn gió lục địa lạnh buốt xương làm cho con người luôn luôn có động tác khúm núm như sợ sệt một người quyền cao chức trọng nào trước mặt. Những đàn chim tưng bừng ca hót ngày nào trước đây giờ thì hoàn toàn vắng bóng. Từng những đám mây vần vũ, liên tục trêu ghẹo số phận và định mệnh của con người. Hình như ông trời có ác cảm với mọi người trong thôn cho nên lúc nào cũng vậy, sự vinh hoa và an lạc đã trở thành khắc tinh của mọi người. Số phận một già một trẻ lại càng khốn cùng hơn.

Ít lâu sau bà lão lâm bệnh nặng. Từng cơn ho như xé cổ kéo dài làm cho bà lão yếu sức dần. Thằng bé còn nhỏ dại, không biết làm gì để chăm sóc cho bệnh nhân già. Nó chỉ biết theo lời của bà lão vuốt lưng cho bà ấy mỗi khi cơn ho hoành hành. Những lúc cơn đau dịu, bà lão nằm thiu thiu ngủ, thằng bé âu yếm cầm tay bà lão mân mê hoặc sờ những đường gân xanh nổi bật trên bàn tay xương xóc. Nó nói nho nhỏ chỉ vừa đủ cho bà lão nghe nếu bà ta chưa ngủ:

- Bà ơi, Bà đừng bỏ cháu nghe! Bà phải sống để cháu lớn thêm tý nữa cháu đi làm rẽ nuôi bà!

Bà lão mở mắt ra âu yếm nhìn thằng bé, nước mắt trào lăn trên đôi má nhăn nheo. 

- Cháu phải hiểu rằng, sống chết là do trời định, bà đâu muốn bỏ cháu, bà muốn sống thật lâu để nuôi cháu cho đến lúc trưởng thành. Nhưng cháu à, bà biết cái gì sẽ đến ắt phải đến. Mẹ cháu là người hiền thục, từ bi và nhân hậu do đó cháu sẽ không khổ đâu. Phúc đức tại mẫu mà cháu!

Bà lão nghỉ mệt một chút, lấy tay vuốt ngực để chận cơn ho sắp sửa lên rồi tiếp:

- Cháu đi lấy cho bà cái bị mà bà vẫn thường xách theo mình, mở ra trong đó có một cái hộp đồi mồi, đem lại cho bà.

Thằng bé riu ríu vâng lời đứng dậy, bước đến cái kệ gỗ tạp kê gần cửa sổ, lấy một cái bị bằng cói cũ kỹ, đã rách trên miệng. Nó mở bị ra lấy một cái hộp đồi mồi, cầm lại đưa cho bà lão. Khi bà lão cầm cái hộp ở tay, run run nói:

- Trong hộp này có bốn món di vật của mẹ cháu để lại cho cháu. Nói cho đúng thì đó là di vật của cha cháu để lại cho mẹ cháu.

Bà lão mở hộp lấy ra hai cuốn sách cũ kỹ và một ít quý kim ôm vào lòng chậm rãi nói tiếp:

- Ta thật sự không có liên hệ bà con gì với cháu. Ta là một tỳ nữ của bà ngoại cháu. Ông ngoại của cháu là Học Sĩ họ Lê, trước đây dạy ở trường Quốc Tử Giám kinh thành, sau bỏ theo phong trào chống Pháp. Ngoại cháu biệt tích từ lúc Pháp tổng tảo thanh các lực lượng kháng chiến. Gia đình bắt đầu sa sút từ đó. Cụ bà sau một cơn bạo bệnh đã mệnh chung để lại Tiểu thư, tức mẹ cháu, lúc đó vừa mới 16 tuổi đầu.

Nói tới đây, bà lão ngưng lời, thở một cách khó nhọc. Thằng bé thấy thế vội chạy ra bếp rót nước cho bà lão.

- Bà uống tý nước, nghỉ một lúc cho khỏe rồi hãy nói tiếp.

- Cám ơn cháu, cháu ngoan lắm, cháu trung hậu y như mẹ cháu vậy. Bà lão uống một ngụm nước trà, thở một chút rồi uống hết bát nước, trao chén cho thằng bé rồi tiếp:

Sau khi lo ma chay xong cho phu nhân, mẹ cháu kêu gia nhân lại, chia cho họ một ít tiền, bảo họ về quê sinh sống. Riêng bà vì quá thương Tiểu thư không muốn rời xa nàng nên năn nỉ xin đi theo. Từ chối mãi không được nên nàng đành chấp nhận. Mẹ cháu sau khi bán hết tài sản cùng ta xuôi nam lập nghiệp. Ta và nàng đến Hội An dựng quán nước làm kế sinh nhai. Khách lui tới khá tấp nập. Họ lui tới vì mến tài mến sắc của mẹ cháu. Người ta biết mẹ cháu là người có học cho nên ai ai cũng kính trọng. Ðời sống của mẹ cháu và ta nhờ đó cũng dễ thở. Nhưng rồi trời xanh luôn luôn ghen ghét má hồng. Sự yên lành bị khuấy động vào một ngày đông giá lạnh, quán xá vắng khách đến mấy ngày vì mưa kéo dài.  Khoảng xế chiều có một người khách lạ trông rất lạnh lùng, bước vô quán kêu một ve rượu ngồi uống một mình. Một lúc sau thì có một đám mật thám Tây vào quán. Không biết tên thông ngôn nói gì thì bọn Tây rút súng uy hiếp người thanh niên lạ. Một trận xô xát kinh thiên động địa đã xảy ra. Một bên thì dùng súng, một bên thì dùng quyền cước. Ta và mẹ cháu sợ quá chun vào một góc bếp núp. Ðánh nhau một lúc thì người thanh niên tuôn ra cửa bếp chạy mất. Bọn mật thám Tây bắn theo chẳng may đạn trúng chiếc đèn manchon treo ở bếp làm dầu đổ loang ra bếp, bắt lửa cháy. Chỉ trong phút chốc thì quán lá đã cháy rụi. Mẹ cháu và ta trong lúc này không biết làm gì hơn là ngồi ôm mặt khóc. Ðộ nửa giờ sau khi mọi sự trở nên yên lặng thì người thanh niên đó quay trở lại. Anh ta tỏ ra hối tiếc về chuyện không may đã xảy ra cho mẹ cháu rồi ngỏ ý muốn đền bồi cho sự đổ nát tốn hao một phần nào cũng do anh ta gây nên. Ta và mẹ cháu thấy dù sao cũng là người khách lạ đã từ chối khéo. Anh ta  đề nghị đưa mẹ cháu và ta về nhà vì sợ Tây quay trở lại trả thù. Khi biết rằng mẹ cháu và ta mất nơi nương tựa cho nên anh ta thuyết phục ta cùng mẹ cháu theo anh ta về quê anh ta mà lập nghiệp. Mẹ cháu vì không có cách nào hơn đành nhận lời đề nghị đó.

Người thanh niên lạ tên là Nguyễn Tuyên, bạn bè thường gọi là Nguyễn Ðại Ca, cũng có người lại gọi là anh Sáu vì trong một nhóm giang hồ nào đó anh ta đứng hàng thứ sáu. Anh Sáu gốc người Tây Sơn nhưng đã bỏ làng đi lập nghiệp ở xa từ lâu nay mới trở về.

Với vốn liếng còn lại chút ít, mẹ cháu mua được miếng đất nầy vừa làm nhà ở, vừa dựng một quán nước để sinh sống.

Nguyễn Tuyên hay anh Sáu thường xuyên ghé thăm và giúp đỡ mẹ cháu. Nhờ đó mà mẹ cháu cũng có được một cuộc sống nhàn hạ. Vì giao tiếp lâu ngày mẹ cháu thấy ông ta là người biết trọng lễ nghĩa và có chí khí cho nên mẹ cháu đâm thương thầm nhớ trộm.

Khoảng vài năm sau thì ông ta ngỏ ý muốn gá nghĩa đá vàng với mẹ cháu. Một đám cưới đơn giản đã được tổ chức ít lâu sau mà bà là người đóng vai chủ hôn lẫn bà mai. Sau ngày đám cưới họ dắt nhau đi khắp nơi thưởng ngoạn cảnh nội mây ngàn, cuộc sống thật là hạnh phúc tràn trề.

Nhưng những cuộc vui thường thì không kéo dài lâu. Một hôm có bốn người khách lạ đến kiếm Nguyễn Tuyên. Họ thì thầm với nhau khoảng một giờ đồng hồ thì có người hối hả chạy vào báo là có Tây trên tỉnh về lùng bắt những người theo phiến loạn. Bọn anh em của Nguyễn Tuyên không kịp nói một tiếng nào với mẹ con, họ tung cửa chạy ra phía vườn sau.

Trong khoảnh khắc thì có tiếng súng nổ phía ngoài bụi tre. Lo có chuyện chẳng lành, ta và mẹ cháu chạy vội ra xem, nhưng chẳng thấy bóng dáng ai, chỉ biết cầu trời cho họ được thoát nạn.

Từ hôm đó Nguyễn Tuyên chẳng bao giờ trở lại. Chờ mãi tới mấy hôm sau thì mẹ cháu lên huyện dò hỏi tin tức. Trong những người bị bắt hôm đó, mẹ cháu chẳng thấy bóng dáng Nguyễn Tuyên đâu. Buồn quá nàng thui thủi trở về nhà. Cũng trong thời gian nầy mẹ cháu bắt đầu có những triệu chứng đổi thay trong cơ thể. Mẹ cháu đã mang thai cháu.

Ðến ngày khai hoa nở nhụy, cháu ra chào đời trong cảnh quạnh hiu. Mẹ cháu tiếp tục chờ đợi và lo buôn tần bán tảo để nuôi cháu. Khi cháu lên một tuổi, trong một chuyến cất hàng trên tỉnh, mẹ cháu đã chết vì đạn lạc của quân kháng chiến và Tây. Ðược tin báo, ta bồng cháu lên tỉnh lãnh xác về chôn cất. Cháu trở thành cháu của ta từ đó. Ta tiếp tục giữ quán nước để kiếm tiền nuôi cháu. Trong những năm gần đây ta thường hay bệnh hoạn nên quán xá đóng mở thất thường, khách thưa dần rồi phải đóng cửa hẳn. Khi bệnh của ta thuyên giảm ta mới xin làm công cho bá hộ họ Trương. Làm được mấy năm rồi cũng phải nghỉ vì tuổi già không đủ sức. Hơn thế nữa, từ ngày Tây sơn thay ngôi đổi chủ, hành chính khắt khe, việc đi làm mướn cũng trở thành khó khăn. Ðể có tiền nuôi cháu ta đã chỉ có thể đi phụ việc cho người ta kiếm đôi chén cơm một ngày.

Nói một hồi tiếng nói của bà lão cũng nhỏ dần. Bà ngưng lại, thở một cách yếu ớt. Thằng bé lại chạy đi lấy nước cho bà lão. Bà lão chiêu một ngụm nước, nhắm mắt nghỉ mệt. Thằng bé nhìn bà lão, nước mắt chảy ròng. Một lúc sau bà tiếp:

- Ta biết không còn bao lâu nữa cháu phải sống cảnh côi cút! Từ nay cháu hãy ráng tự lo cho chính mình. Ðời có nhiều chông gai. Lòng người ác hiểm khó lường được, cháu không nên nhẹ dạ.

Bà lão ngưng nói vì cơn ho đưa lên chặn cổ. Bà ta ho một hồi, ghé lưng nằm xuống chiếc chõng tre ọp ẹp. Thằng bé đưa hai tay gầy guộc đỡ bà lão nằm xuống rồi chỉ biết đấm ngực cho bà ta. Bà lão nhắm nghiền đôi mắt, không biết có phải thằng bé có đủ lực để làm cho bà ta dễ chịu hay không, một lúc sau, cơn ho cũng đã tạm lắng dịu, bà lão ngồi dậy, thở dốc một chút rồi tiếp:

- Khi mẹ cháu chết, có để lại cho ta một chút quý kim mà ta đã tằn tiện không dám tiêu dùng, chôn cất cẩn thận để dành cho cháu khi khôn lớn. Cái hộp đồi mồi nầy, theo ta biết là của cha cháu, vì ta chưa hề thấy trước ngày cha cháu mất tích. Trong hộp nầy có bốn món đồ: hai quyển sách và hai thẻ bài. Vì ta không biết chữ nên chẳng biết nó là sách gì. Có lẽ nó rất quan trọng cho nên mẹ cháu trước đây đã chia ra làm bốn, chôn dấu ở bốn phương vị khác nhau. Ðề phòng bất trắc có thể xảy ra, mẹ cháu đã dặn ta vị trị của chúng và bảo phải giao cho cháu khi cháu khôn lớn. Khi mẹ cháu mất ta đem dấu vào hai chỗ khác. Hai cuốn sách luôn luôn ở bên mình ta, vì ta sợ chểnh mảng sẽ bị cháy. Còn hai thẻ bài thì ta chôn ở dưới gốc cây ổi trước nhà. Cháu hãy ra đó, dựa lưng vào cây ổi, mặt quay về hướng mặt trời mọc, bước bốn bước. Bước của cháu nhỏ, chắc phải bước sáu bước, dừng lại đào lên sẽ thấy một cái hũ bằng đất nung, đập vỡ hũ cháu sẽ thấy một gói giấy dầu đem vào đây cho ta.

Tuấn lặng lẽ nghe theo lời bà lão, trước khi đi ra trước nhà còn dặn:

- Bà nằm nghỉ cho khỏe, cháu ra đào hũ đất nung sẽ vào liền.

Quả bà lão tính toán rất chính xác, thằng bé đào được cái hũ vào đúng bước thứ sáu của nó. Nó lấy cái hũ khằng kín lên, lấy cuốc đập vỡ thì thấy một bọc bằng giấy dầu, mở ra, một chiếc hộp bằng sắt đã hoen rỉ. Nó phủi cho sạch rồi chạy bay vào với bà lão.

- Bà ơi, cháu đã tìm thấy rồi!

Bà lão đang nhắm nghiền đôi mắt vì mệt, bà chống tay ngồi dậy nói:

- Ðược, đưa cho ta.

Bà lão đỡ chiếc hộp trong tay thằng bé, nhìn quanh một lúc rồi mới mở hộp thiếc ra. Trong hộp thiếc còn một gói vải đỏ, bà ta tay run run mở gói vải đỏ, Tuấn thấy có hai chiếc thẻ bằng ngà, một chiếc dài và một chiếc ngắn, trên có chạm trổ hình hai con rồng cuộn chung quanh mấy hàng chữ nho. Bà gói lại cẩn thận, bỏ gói vải đỏ đó vào hộp đồi mồi, đậy nắp lại và đưa cho thằng bé rồi nói:

- Cháu hãy ráng giữ kỹ những di vật nầy. Nhờ nó cháu có thể từ từ tìm ra thân thế của cháu. Có điều cháu nên nhớ là không bao giờ được lộ các di vật nầy cho bất cứ một ai. Thế gian nầy có nhiều chuyện khó có thể lường được. Cẩn thận và kín đáo luôn luôn có lợi.

Bà lão nghỉ mệt một lúc rồi thều thào:

- Sau nầy khi ta mất rồi cháu hãy lên Linh Sơn Tự ở Qui Nhơn tìm người đầu bếp trong chùa tên là Sáu Tuyên để mà nương tựa. Ông nầy tính tình rất cổ quái, ráng chịu đựng sẽ được ấm thân. Khi gặp ông ta cháu tìm cách đọc hai câu thơ như sau, nhưng không được trực tiếp đọc cho ông ta nghe mà chỉ vô tình mà đọc lên vậy.

- Giang đầu nợ nước hai vai gánh,

- Trước mặt thù nhà một hướng đi.

- Dạ, cháu xin ghi nhớ.

Nói xong, Tuấn đem các di vật cất vào chỗ mà nó thường cất những gì mà nó cho là quý nhất. Nó biết trước đây các vật nầy đã được chôn dấu riêng rẽ cho nên định bụng cũng sẽ làm như vậy trong nay mai. Cất các món đồ đó xong nó đi xuống bếp nấu cháo cho bà lão ăn. Tối hôm đó nó chỉ ăn một củ khoai nướng rồi đi ngủ vì lương thực dự trữ đã hết từ mấy hôm nay rồi.

Thế rồi mấy hôm sau, khi thức dậy như thường lệ, Tuấn chạy đến thăm bà lão, thấy bà ta nằm yên, nó tưởng bà lão đang ngủ, nó đi ra ảng nước rửa mặt rồi đi nấu cháo cho bà lão. Khi cháo chín, nó bưng đến cho bà ta ăn. Nó kêu bà lão, không thấy bà lão trả lời. Nó lấy tay lay bà lão thì khám phá xác bà lão lạnh ngắt. Tội nghiệp cho thằng bé, nó biết bà lão đã bỏ nó để đi đến một nơi nào đó thật xa. Nó gào thét thảm thiết, ôm lấy xác của bà lão, lay mạnh. Khóc một hồi, nó vùng dậy chạy qua nhà hàng xóm cầu cứu. Hàng xóm vẫn thường lui tới giúp thằng bé lo cho bà lão, khi hay tin bà lão đã chết, họ xúm nhau lo hậu sự cho bà ta. Ma chay xong xuôi, Tuấn ở lại với bà lão cho đến lễ giỗ một trăm ngày rồi Tuấn mới xếp đặt, khăn gói đi kiếm bác Sáu Tuyên.

 

 

Trên đường đi lên tỉnh, Tuấn ghé ngang nhà Trương bá hộ để giã từ thầy và bạn bè. Lão Trương là người giàu có nhất làng. Vì địa phương không có trường học, lão đã mời thầy về dạy cho đứa con gái duy nhất của lão tên Dung, đồng thời giúp đỡ cho con cái dân làng được học hành đôi chút. Tuấn tuy côi cút nghèo khổ nhưng cũng được Trương ông gọi đến cho học.

Trong đám học trò của thầy Hương, Tuấn là đứa học trò gương mẫu và học giỏi nhất, cho nên dù con đông thầy Hương không hề tiếc tiền mua áo quần cũng như sách vở và bút viết cho Tuấn.

Vì không có con trai lão Trương đã nhiều khi nhìn Tuấn, thầm ước ao Tuấn chịu làm con của lão thì lão hạnh phúc đến ngần nào. Trước đây khi bà Hồng đến giúp việc cho Trương bá hộ thường dắt Tuấn theo, nhờ tính lanh lợi và tháo vát của Tuấn cũng như khéo chiều chuộng Dung, Dung đã coi Tuấn như anh mình vậy. Hôm đám tang bà Hồng, ngoài Tuấn, Tư Hiền cùng ba người thanh niên khác giúp việc tang sự, Dung cũng theo Tuấn đưa bà lão đến nơi an nghỉ cuối cùng, bên cạnh mồ mẹ của Tuấn.

Tuấn bước vào sân nhà của Trương bá hộ với lòng bồi hồi, đớn đau chua xót. Nhưng Tuấn phải đi, dù Tuấn không muốn xa nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhất là nơi đó lại là nơi an nghỉ ngàn đời của hai người thân nhất của mình - Mẹ và bà lão, cùng những người như Tư Hiền, Thầy Hương và Dung một người bạn chí thân và chí tình. Tuấn đang miên man suy nghĩ thì nghe có tiếng hỏi từ vườn hoa.

- Tuấn sao hôm nay không vào lớp học?

- Dạ, thưa cháu đến chào ông bà và cô Dung cháu lên tỉnh. Tuấn nói trong nghẹn ngào.

- Ủa tại sao lại đi gấp vậy? À này Tuấn, vào nhà ta có chút việc muốn nói với con. Lão Trương bảo.

Tuấn lặng lẽ theo lão Trương vào nhà. Trương bà đang ngồi nhai trầu ở phòng ngoài thấy Tuấn và chồng bà đi vào nhà thì lên tiếng hỏi:

- Có chuyện gì thế? Sao thằng Tuấn lại không ở trong lớp học?

- Dạ thưa cháu đến để giã từ ông bà cháu lên tỉnh. Tuấn trả lời Trương bà một cách lễ phép.

- Ủa, cháu có bà con ở trên tỉnh hay sao? Trương bà thắc mắc. 

 

Thư Mục 

Thơ

Đổi Thay  
Những Đoản Khúc
Tơ Vò
Hương Phai 
Thi Đàm /Thi Họa

Kịch Thơ 

Cô Hàng Nước  
Ngồi Đợi Bình Minh

Truyện Dài

Cơ Trời Vận Nước
Trầm Bay

Truyện Ngắn

Bước Hổng Chân Không
Ba Con Yến Nhỏ

Sưu Tập

NQ Thương Hận Tập I
NQ Thương Hận Tập II
Ca Dao

Huy Chương VNCH

Huy hiệu QL/VNCH

Huy Hiệu QĐ Pháp/Đ-Dương

Tiền Tệ

Điếu Tế 

Văn Tế
Điếu Văn
 
Miếng Ngọt Quê Hương Về Trang Chủ

Friendly Links

Thực Vô Cầu Bão 25 Năm Xây Dựng CĐ Ha Huyen Chi
Cá Kho 25 years of the Community building Gia Đình Võ Bị
Món Xào Gia Phả Họ Nguyễn Diên Trường All Links
Send mail to haphuonghoai@gmail.com with questions or comments about this web site.
Copyright © 2003 Haphuonghoai
Last modified: 07/01/16